MỤC LỤC
Trang
Lời giới thiệu
Phần mở dầu. đặt vấn đề về định tội danh
Phần thứ nhất. lý luận về định tội danh
I. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của việc định tội danh
II. Khái niệm, các đặc điểm cơ bản, các dạng và các giai đoạn định tội danh
III. Những căn cứ pháp lý và căn cứ khoa học của việc định tội danh
IV. Định tội danh đối với tội phạm hoàn thành
V. Định tội danh đối với tội phạm ch¬ưa hoàn thành
VI. ĐTD đối với tội phạm đ¬ược thực hiện có đồng phạm và đối với các trường hợp nhiều tội phạm
VII. Kết luận
Phần thứ hai. Hướng dẫn về định tội danh
Và 350 bài tập thực hành
232 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 564 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Lý luận, hướng dẫn mẫu và 350 bài tập thực hành, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A.
Tối ngày 15/3/2002, trong khi con gái của A ốm nặng cần sự yên tĩnh, X lại lặp lại những hành vi như nêu trên, A sang nhà đề nghị X chấm dứt ngay những hành vi đó nhưng X không nghe còn nói: “Nhà tao, tao làm gì mày không được cấm”. A lập tức cầm lấy chiếc ghế đẩu phang mạnh vào đầu làm X chết ngay tại chỗ.
Hỏi: Anh (Chị) hãy cho biết A phạm tội gid ? Tại sao ?
Bài tập số 65
Lương Thanh K là chồng của chị Nguyễn Hải M. Những năm đầu họ chung sống với nhau hạnh phúc. Nhưng sau đó K bị bạn bè xấu rủ rê lôi kéo vào con đường nghiện ngập, cờ bạc. Mỗi khi thua bạc hoặc không có tiền mua ma tuý để tiêm chích K lại về gây sự và đánh vợ.
Chị M thường ca thán trước mọi người “Nếu không vì mấy đứa con thì tôi tự tử cho đỡ khổ”. Một lần bị K đánh đau chị M lên giường đắp chăn vừa khóc vừa nói: “Khổ quá, không chịu được nữa, cứ đối xử như thế này thì tôi thà chết đi còn hơn”. Nói xong, chi M liền lấy 4 viên thuốc ngủ để uống với ý định dọa chồng. K đang bực tức vì không có tiền đi đánh bạc liền nói “Uống ít thế không chết được đâu, có giỏi thì uống hết thuốc trong lọ ấy”, sau đó K bỏ đi. Đang uất ức, lại thấy chồng nói vậy, chị M đã uống hết chỗ thuốc trong lọ và bị chết.
Về định tội danh đối với hành vi của K có hai ý kiến sau:
1. K phạm tội xúi giục người khác tự sát (khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự);
2. K phạm tội bức tử (khoản 1 Điều 100 Bộ luật hình sự).
Hỏi: Hãy cho biết ý kiến nào đúng ? Tại sao ?
Bài tập số 66
Bà Phạm Thị M lên thăm con trai là Chu Văn Q ở thành phố H. Bà M làm gì cũng bị Q mắng là ngu, đần, đến bữa ăn vợ chồng Q không cho bà ăn cùng mâm mà bắt ăn sau. Q còn bắt bà M ăn những thức ăn mà vợ chồng Q ăn thừa. Q luôn nhiếc móc và đe doạ đuổi mẹ về.
Bà M thấy con vì buôn bán có tiền không còn kính trọng mẹ nữa nên rất buồn nhưng bà vẫn cố chịu đựng vì bà chỉ có một mình Q. Một hôm do sơ ý, bà M làm vỡ chiếc phích đựng nước. Q đi làm về thấy thế quát tháo chửi mắng bà thậm tệ. Vì quá uất ức với con trai, nên đêm hôm đó bà M đã uống thuốc sâu tự tử.
Về phương diện định tội danh, có ý kiến cho rằng Chu Văn Q phạm tội bức tử theo khoản 1 Điều 100 Bộ luật hình sự
Hỏi: Theo Anh (Chị) ý kiến trên có đúng không ? Tại sao ?
Bài tập số 67
Quách Bảo S là tên lưu manh sống lang thang nay đây mai đó. Đầu tháng 8/2000 hắn đã lấy kẹo có tẩm thuốc mê cho cháu bé gái tên là K (4 tuổi) lạc mẹ đang đứng một mình trước một rạp chiếu bóng ở thành phố Đà Nẵng. Sau đó hắn đưa cháu vào thành phố Hồ Chí Minh xin ăn.
Để có thể xin được nhiều tiền S đã dùng tay đánh vào đầu cháu bé cho đến khi chảy máu rồi đưa đi cấp cứu. Bệnh viện Chợ Rẫy đã xác định cháu bị trấn thương sọ não. Sau khi cháu bé được bệnh viện băng bó và cấp thuốc, S đã bế cháu ra khỏi bệnh viện rồi đưa cháu đi ăn xin trên các phố. Ngày 19/9/2000 S lại bẻ gẫy chân trái của cháu rồi đưa vào Bệnh viện Nhi đồng I bó bột và tiếp tục dẫn cháu đi ăn xin. Ngày 13/10/1999 S lại bẻ gãy tay cháu, đồng thời rạch mặt nhiều nơi, cắt môi trên của cháu rồi đưa vào Bệnh viện Nhi đồng II bó bột rồi lại đưa cháu đi ăn xin. Đến ngày 15/11/2000 thấy cháu bé bị S đánh đập rất dã man trên đường phố nên nhân dân đã báo công an bắt giữ.
Qua giám định kết luận: “cháu K bị gẫy kín các xương đoạn 1/3 dưới xương cánh tay phải và trái, bị di chứng, lệch trục chi gẫy phải, vỡ đầu trên xương chày trái, di chứng cứng gối trái, mặt bị dị dạng. Tỷ lệ thương tích cháu phải gánh chịu là 65%”.
Căn cứ vào những tình tiết của vụ án, có các ý kiến sau:
1. Quách Bảo S phạm tội cố ý gây thương tích và gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác theo khoản 4 Điều 104 Bộ luật hình sự; tội chiếm đoạt trẻ em theo khoản 2 Điều 120 Bộ luật hình sự;
2. Quách Bảo S phạm tội cố ý gây thương tích và gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác theo khoản 4 Điều 104 Bộ luật hình sự; tội hành hạ người khác theo khoản 2 Điều 110 Bộ luật hình sự; tội chiếm đoạt trẻ em theo khoản 2 Điều 120 Bộ luật hình sự.
Hỏi: Theo Anh (Chị) ý kiến nào đúng ? Tại sao ?
Bài tập số 68
Nguyễn Văn A, Lê Xuân Q và Đỗ Huy V nhận thầu hồ nước của hợp tác xã theo hợp đồng để nuôi cá. Ngày 1/12/1999 khi thấy nước hồ đã cạn, ba tên bơm nước ra để bắt cá. Nhân dân trong xã biết rõ chúng không thả một con cá nào xuống hồ cả nên nước cạn đến đâu họ xuống bắt cá đến đó. A, Q và V biết anh H là người cầm đầu nên có ý định cho một bài học cảnh cáo
Ngày 10/12/1999 ba tên mang một con dao dài 30 cm sắc nhọn đến nhà anh H. Chúng chỉ thấy có con gái anh tên là L (12 tuổi) đang đưa võng cho em ngủ. A và Q xông vào giữ chặt tay cháu L, V lấy dao rạch mạnh vào má bên phải của cháu, sau đó cả bọn ra về.
Làng xóm thấy con anh H kêu khóc, chạy sang thấy sự việc như vậy vội đưa cháu L bị thương đi trạm xá xã cấp cứu. Kết luận giám định thương tật cho biết: Cháu L bị một vết sẹo dài phải khâu 10 mũi. Tỷ lệ thương tật cháu phải gánh chịu là 5%.
Khi giải quyết vụ án có các quan điểm sau:
1. A và đồng bọn không phạm tội;
2. A và đồng bọn phạm tội cố ý gây thương tích cho người khác theo khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự.
Hỏi: Theo Anh (Chị) ý kiến nào đúng ? Tại sao ?
Bài tập số 69
Đỗ Văn S và Đỗ Văn Y là 2 anh em ruột. S là sĩ quan quân đội về nghỉ phép có mang theo một khẩu súng K59. Tối 15/2/2000 Y rủ S đem 5 triệu đồng sang xã bên để trả nợ. Khi ra khỏi nhà 100 m thì S gặp bạn đến chơi. S bảo Y đi một mình còn S quay về tiếp bạn. Thấy vậy Y hỏi S cho mượn súng để phòng thân. S đồng ý và đưa súng cho Y.
Sau khi trả nợ xong, trên đường về Y gặp dân quân xã bắt được một tên trộm xe máy nhưng do sơ xuất nên tên này bỏ chạy. Họ đuổi theo tên trộm và yêu cầu Y giúp sức. Thấy không ai có súng mà kẻ gian lại có khả năng chạy thoát nên Y vội cùng đuổi theo. Khi đuổi gần kịp tên trộm Y hô đứng lại và bắn cảnh cáo nhưng tên trộm vẫn tiếp tục chạy. Y liền bắn tiếp một phát làm hắn bị thương nặng với tỷ lệ thương tật là 35 % vĩnh viễn.
Trong khi xác định trách nhiệm hình sự của Y có 3 ý kiến sau:
1. Y không phạm tội;
2. Y phạm tội gây thương tích cho người khác trong khi thi hành công vụ theo khoản 1 Điều 107 Bộ luật hình sự ;
3. Y phạm tội cố ý gây thương tích cho người khác theo khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự và tội sử dụng trái phép vũ khí quân dụng theo khoản 2 Điều 230 Bộ luật hình sự.
Hỏi: Hãy cho biết ý kiến của Anh (Chị) về trách nhiệm hình sự của Y trong vụ án ?
Bài tập số 70
Đã trải qua một thời gian dài theo đuổi nhưng Đoàn Văn H (sinh năm 1976, trú quán tại xã E, thành phố Buôn Ma Thuật) vẫn chưa lọt vào mắt xanh của cô bạn gái Trần Thị C người cùng thôn. Quá si tình, H đã từng tuyên bố với bạn bè là nếu không lấy được C thì cũng không để cho C lấy ai, ngoại trừ người dân xã E này.
Khi bạn bè cho biết C đã yêu anh Hoàng Văn K, người ở xã khác, H cay cú nên nảy sinh ý đồ phải làm cho K không bao giờ dám xuống nhà C nữa.
Tối ngày 10/7/2000, biết K đang chơi ở nhà C, H đã rủ hai người bạn là Nguyễn Anh T và Nguyễn Đình M đến phục ở đầu ngõ nhà C. Đến khoảng 23 giờ, khi K chạy xe hon đa ra đầu ngõ thì bị H và đồng bọn chặn lại. Biết là chuyện không lành, K chạy xe vào nhà chị Trần Thị N (chị gái C) nhờ can thiệp. Liền lúc đó, H cầm một thanh gỗ quật nhiều nhát vào mặt và người K. Chị N đã can ngăn, khuyên nhủ đủ điều nhưng H vẫn không từ bỏ ý đồ mà còn tuyên bố sẽ giết K rồi đi tù cũng được.
Anh K được đưa đi cấp cứu tại bệnh viện, điều trị với các thương tích: trên người có nhiều vết thương trượt da, chấn thương mắt phải, giảm thị lực, tổn hại 41% sức khoẻ.
Khi xác định trách nhiệm hình sự của H có hai quan điểm sau:
1. Đoàn Văn H phạm tội theo theo khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự;
2. Đoàn Văn H phạm tội theo khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự.
Hỏi: Anh (Chị) hãy cho biết quan điểm nào đúng ? Tại sao ?
Bài tập số 71
Tối ngày 9/8/2002 Đoàn Văn Đ đến nhà chị Lâm Thị L rủ đi họp. Vì chồng con đi chơi chưa về, nhà cửa không có ai trông, chị L xin phép vắng mặt.
Đến khoảng 21 giờ, sau khi tan cuộc họp, Đ biết chỉ có một mình chị L ở nhà nên anh ta không về nhà mình mà đi thẳng đến nhà chị L. Sau một hồi tán tỉnh hai người đưa nhau xuống bếp để tình tự thì cũng là lúc Lý Hồng T chồng chị L về nhà bắt gặp.
Trong tình cảnh không mảnh vải che thân, Đ chỉ còn biết chịu trận đòn mà không giám kêu la, chỉ năn nỉ van xin tha thứ với điều kiện T thích gì thì Đ sẽ chấp nhận, nhưng đừng để việc này cho mọi người biết. Chưa hả cơn ghen tức, T bắt hai người diễn lại vài cảnh để chụp hình làm chứng, đồng thời gĩ lại chiếc xe máy của Đ.
Hôm sau, do không chịu nổi những đau đớn do trận đòn hôm trước, Đ phải nhập viên để điều trị và nói rõ sự việc cho vợ con biết, đồng thời làm đơn tố cáo hành vi phạm pháp của T.
Theo kết luận giám định thương tật, Đ bị tổn hại 20% sức khoẻ.
Trong bản cáo trạng Viện kiểm sát truy tố T về tội cố ý gây thương tích theo khoản 1 Điều 104 và tội cưỡng đoạt tài sản theo khoản 1 Điều 135 Bộ luật hình sự .
Hội đồng xét xử sơ thẩm chỉ tuyên phạt T 12 tháng tù giam về tội cưỡng đoạt tài sản theo khoản 1 Điều 135 Bộ luật hình sự .
Hỏi: Theo Anh (Chị) về phương diện định tội danh, quyết định của Toà án đúng hay của Viện kiểm sát nhân đúng ? Tại sao ?
Bài tập số 72
Sáng ngày 31/10/2002, trên phố Lý Nam Đế đã xảy ra một vụ án tạt axít vào một người đàn bà đang đi xe máy trên đưòng.
Theo kết quả điều tra của Cơ quan công an, thủ phạm là Nguyễn Thị Tuyết L (kế toán viên Sở giao dịch Ngân hàng Nhà nước), và nạn nhân là Vũ Thuý Q - vợ của người tình mà L đang quan hệ bất chính.
Tháng 4/2001, L quen Trần Quang M (cán bộ Ngân hàng Nhà nước), chồng của Q. Dù L và M đều đã có gia đình song hai người vẫn quan hệ như vợ chồng với nhau. Trong những ngày trước khi xảy ra sự việc L biết M có ý định rời bỏ L để quay về với vợ. L vô cùng tức giận đã mua axít đặc đón đường Q đi làm về để trả thù. Hậu quả là Q bị bỏng axit 3% độ IV ở cổ, vai, lưng và tay.
Ngày 12/12/2002, Tổ chức giám định pháp y Hà Nội kết luận Q bị thương tật 46%.
Viện kiểm sát nhân dân thành phố truy tố L về tội cố ý gây thương tích cho người khác theo khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự. Toà án nhân dân thành phố xét xử và tuyên phạt L về tội cố ý gây thương tích cho người khác theo khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự.
Hỏi: Về phương diện định tội danh và khung hình phạt áp dụng, theo Anh (Chị) quan điểm của cơ quan nào đúng ? Tại sao ?
Bài tập số 73
Cuối tháng 5/1999, anh Phạm Văn C (bố cháu Phạm Văn Q) trú tại quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng đánh trọng thương Nguyễn Xuân T (T là một con nghiện và đã bị nhiễm HIV). Vụ việc đã được Toà án nhân dân xét xử buộc anh Phạm Văn C phải chịu mức án 3 năm tù và bồi thường cho người bị hại. Tuy nhiên, ngày 1/5/2000, lợi dụng lúc gia đình cháu Q không ai có nhà, T đã sang nhà và bế cháu Q (sinh năm 1996) về nhà mình tiêm virus HIV vào tay cháu. Nghe cháu Q kể chuyện bị T tiêm vào tay như vậy, gia đình cháu sợ hãi, lập tức báo cáo Cơ quan công an về sự việc trên và được khuyên theo dõi tình hình của cháu rồi hãy đi khám bệnh.
Hơn một năm sau, qua theo dõi thấy bệnh tình của cháu ngày càng biến chuyển xấu, gia đình quyết định đem cháu đi xét nghiệm. Ngày 20/9/2001, Trung tâm Da liễu thuộc Sở Y tế Hải Phòng đã xét nghiệm và kết luận cháu Q bị nhiễm HIV dương tính. Hai tháng sau, kết quả xét nghiệm HIV số 642/2001/XN của Trung tâm Y tế dự phòng thành phố Hải Phòng đã tái khẳng định kết luận trên của Trung tâm Da liễu Hải Phòng.
Có hai ý kiến khác nhau về tội danh của Nguyễn Xuân T:
1. Nguyễn Xuân T phạm tội cố ý gây thương tích cho người khác theo Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985.
2. Nguyễn Xuân T phạm tội giết người theo Điều 101 Bộ luật hình sự 1985.
3. Nguyễn Xuân T phạm tội cố ý làm lây truyền HIV cho người khác theo Điều 117 Bộ luật hình sự 1999.
Hỏi: Anh (Chị) cho biết ý kiến của mình về tội danh và Luật áp dụng đối với hành vi phạm tội của Nguyễn Xuân T ?
Bài tập số 74
Lâm Thanh Q đi dự liên hoan ở nhà bạn. Trong khi đang ngồi uống nước thì Đào Văn H vào ngồi bên cạnh. Q nói “Ông ngồi xa ra, nóng quá”. Thấy vậy H nói “Bố mẹ tôi cũng không đuổi tôi...”.Sau đó Q cũng đã xin lỗi H và mọi người can ngăn nên xô xát không xảy ra.
H đi về và khoảng 10 phút sau quay lại tay cầm một con dao phay đến giật tóc anh Q ra đằng sau, đưa dao định cắt tai. Anh Q vội đưa tay ra đỡ và bị thương ở cổ tay. Giám định pháp y kết luận “Tỷ lệ thương tích của anh Q là 9% vĩnh viễn”.
Căn cứ vào các tình tiết nêu trên, có ý kiến nói rằng Đào Văn H không phạm tội. Nhưng ngược lại, theo ý kiến khác thì cần phải truy tố Đào Văn H về tội cố ý gây thương tích cho người khác theo khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự.
Hỏi: Theo Anh (Chị) ý kiến nào đúng ? Tại sao ?
Bài tập số 75
Nguyễn Quang G lấy vợ đã lâu nhưng chưa có con. S là người cùng xóm đã nhiều lần trêu chọc G là người vô sinh. Anh G đã nhiều lần nhắc nhở S không được đùa như thế nữa.
Chiều ngày 12/6/1999, S và một số người trong quán nhìn thấy G đi qua liền nói to “Ông G người vô sinh...”. G quay lại và 2 bên to tiếng với nhau. Sẵn có đòn gánh trong tay G phang S nhiều nhát vào người, tay và và chân. Thương tích mà S phải gánh chịu là 25%.
Khi xác định trách nhiệm hình sự của Nguyễn Quang G, có ý kiến cho rằng Nguyễn Quang G không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi gây thương tích cho S.
Hỏi: Anh (Chị) có đồng ý với ý kiến trên không ? Tại sao ?
Bài tập số 76
Nguyễn Văn K đang làm cỏ lúa ở ngoài đồng thấy một người cùng xóm gọi: “Mày có về ngay không, con mày bị người ta đánh chết rồi”. Nghe thấy vậy, K hoảng hốt vác cuốc chạy về nhà thấy con mình nằm trên sàn cánh tay bị gãy máu me đầy người. Mọi người xung quanh cho biết Nguyễn Văn T con bà N là người gây án và đã bỏ chạy. K bực tức chạy sang nhà bà N tìm T, nhưng không thấy T ở nhà, mà chỉ thấy đứa con gái của T đang chặt củi ở sân. K đã dùng cán cuốc đánh gãy tay con gái T với tỷ lệ thương tích là 25 %.
Có hai ý kiến khi xác định trách nhiệm hình sự của Nguyễn Văn K:
1. Nguyễn Văn K không phạm tội vì K hành động trong trạng thái bị kích động mạnh về tinh thần do hành vi trái pháp luật nghiêm trong của T gây ra.
2. Nguyễn Văn K phạm tội cố ý gây thương tích cho người khác theo khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự.
Hỏi: Hãy cho biết quan điểm của Anh (Chị) ?
Bài tập số 77
Mai Văn H, Trần Hữu C và Nguyễn Ngọc K đều là bạn bè thân thiết. Khoảng 13 giờ ngày 21/10/1990, H và C cùng 2 người bạn khác đi uống rượu rồi rủ nhau đi chơi. Trên đường đi, H và C ghé vào cơ quan của K rủ K cùng đi. Đến cổng cơ quan, hai người bạn ở lại trông xe còn H và C lên phòng của K ở lầu 2 để tìm K. Gặp K ở hành lang C đùa rút súng K54 mang trong người ra và chĩa về phía K và cười lớn cho anh K biết. K cũng đùa lại, vờ chạy nấp vào sau cửa phòng. Anh Q ở cùng phòng với K thấy vậy nói: “Không được đùa với súng, cất nó đi”. Anh C tháo băng đạn ra rồi cùng với H vào phòng K. Hai người rủ K đi chơi, nhưng K từ chối vì đã có lịch đi với người khác. Nghe vậy H bảo C đưa súng cho H. Vì nghĩ rằng súng đã được C tháo băng đạn ra rồi, không còn đạn nên H rê nòng súng về phía K nói lớn”mày có đi không nào” thì bất thần súng cướp cò nổ “đoàng” viên đoạn đã trúng vào đầu K làm K chết ngay tại chỗ. Thấy vậy H vứt súng xuống đất ôm lấy K khóc rồi định nhảy xuống đất tự tử nhưng được mọi người kịp thời giữ lại. C là sĩ quan công an có giấy phép mang súng khi tháo băng đạn ra lại quên không lên qui lát lấy nốt viên đạn đã lên nòng nên dẫn đến hậu quả đáng tiếc đã nêu trên.
Có những ý kiến khác nhau trong việc định tội danh của H vàC:
1. Mai Văn H phạm tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (khoản 1 Điều 99 Bộ luật hình sự); tội sử dụng vũ khí quân dụng trái phép (khoản 1 Điều 230 Bộ luật hình sự). Trần Hữu C phạm tội thiếu trách nhiệm trong việc giữ vũ khí gây hậu quả nghiêm trọng theo khoản 1 Điều 235 Bộ luật hình sự;
2. Mai Văn H phạm tội giết người theo khoản 2 Điều 93; tội sử dụng vũ khí quân dụng trái phép (khoản 1 Điều 230 Bộ luật hình sự). Trần Hữu C phạm tội thiếu trách nhiệm trong việc giữ vũ khí gây hậu quả nghiêm trọng theo khoản 1 Điều 235 Bộ luật hình sự
Hỏi: Anh (Chị) giải quyết vụ án về mặt định tội danh đối với hành vi của H và C ?
Bài tập số 78
Khoảng 3 giờ sáng ngày 9/5/2000 do thời tiết nóng nực, một số thợ xây làm thuê cho anh Q ra ngủ tại vỉa hè trước cửa nhà anh Q. Nguyễn Quốc B và Nguyễn Quốc L (bạn của B) đi uống cà phê về thấy cánh thợ xây đang ngủ, liền lại rứt dây màn và quát “Ai cho chúng mày ngủ ở đây”. Thấy vậy, những người thợ xây gọi anh Q ra. Anh Q ra ngăn nhưng bọn B đã cầm gạch đá ném anh và cánh thợ xây rồi bỏ đi. Khoảng 10 phút sau L cầm lưỡi lê do tên B đưa cho, còn B cầm một vỏ chai đập vỡ đít quay lại chỗ anh Q chúng xông vào đánh anh Q. Thấy anh Q bị đánh, H và P chạy ra can ngăn, nhưng đã bị 2 tên B và L xông vào tấn công. B cầm vỏ chai đâm anh Q và P còn L dùng dao tấn công H và đâm H một nhát vào lưng, H gục xuống bất tỉnh. Hai tên thấy vậy bỏ chạy trốn. Đến một tháng sau chúng mới ra đầu thú trước cơ quan công an.
Kết luận giám định pháp y cho biết: H bị đâm vào liên sườn 4 đường giữa bả vai bên trái, tràn máu, tràn khí màng phổi trái. Tỷ lệ thương tích của H là 20% vĩnh viễn. Còn anh Q bị thương là 10%, P bị thương 5%.
Căn cứ vào các tình tiết nêu trên có ý kiến cho là B và L đã phạm tội cố ý gây thương tích theo khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự, Nhưng có ý kiến khác cho rằng cần phải xử lý B và L về tội cố ý gây thương tích theo khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự.
Hỏi: Anh (Chị) đồng ý với ý kiến nào ? Tại sao ?
Bài tập số 79
Khoảng 19 giờ ngày 5/6/2002 Chị Lê Thị L đi tìm chồng là Nguyễn Văn H ở làng bên về nhà có người gặp. Đến đoạn đường vắng chị L bị 3 tên lạ mặt ra chặn đường cướp mất một đôi hoa tai bằng vàng. Khi gặp chồng chị L kể cho anh nghe chuyện vừa xảy ra. Nguyễn Văn H mượn một con dao và chở chị L về bằng xe đạp. Đến đoạn đường chị L bị cướp thì thấy 3 người từ dưới ruộng đi lên đường, thấy vợ chồng anh H họ đứng lại. Chị L nói với anh H “Đúng bọn này vừa cướp hoa tai của em”. Thấy vợ nói vậy, Nguyễn Văn H xuống xe cầm dao lao thẳng vào 3 người đâm chém lia lịa làm cả 3 người đều bị thương, nhưng không ai bị thương tích trên 10%.
Sau khi sự việc xảy ra, anh H mới biết 3 người này là dân quân đang đi tuần tra canh gác bảo vệ hoa màu của HTX.
Hỏi: Anh (Chị) hãy cho biết quan điểm của mình trong việc giải quyết vụ án trên ?
Bài tập số 80
Trước khi ra nước ngoài biểu diễn ca sĩ Thái B bị kẻ gian bắt trộm con chó cảnh. Sợ xúi quẩy, nên B yêu cầu cơ quan công an tìm giúp. Nguyễn Văn L có người yêu ở gần nhà B thấy B mất chó nên đã tự nguyện đi tìm giúp. Do L là người trong làng nên thông thạo đường ngang, ngõ tắt và được một người quen mách bảo nên K đã tìm được con chó cảnh, mang về cho B. L đang ngồi uống nước và trò chuyện cùng B, thì bất ngờ C và T là công an ập vào bắt L, họ nói rằng L là người bắt trộm chó. L trình bày do tình cảm nên đã lặn lội mới tìm được con chó về cho B chứ L không hề bắt trộm. Ca sĩ B cũng đã khẳng định những lời nói của L là đúng sự thật. L không có hành vi phạm pháp.
Mặc dù vậy, C và T vẫn khóa tay L ra đằng sau bằng còng số 8 và giải L về công an huyện mà không hề có biên bản phạm pháp quả tang hoặc lệnh bắt khẩn cấp của người có thẩm quyền.
Tại trụ sở công an huyện C và T khóa cửa lại rồi dùng chân đá, tay đấm liên tục bắt L phải nhận là mình đã bắt chó làm cho L ngất bất tỉnh nhân sự. Sợ L chết, chúng vội đưa L đi bệnh viện đường sắt I, L phải điều trị ở bệnh viện gần 4 tháng, bị chấn thương sọ não, gãy hai xương sườn. Tỷ lệ thương tích L phải gánh chịu là 35%.
Còn thủ phạm vụ trộm chó tên là P đã bị công an bắt sau đó một tháng. P đã khai nhận là chỉ một mình bắt con chó, còn L không hề biết gì cả và bản thân P và L không hề quen biết nhau.
Căn cứ vào các tình tiết nêu trên có những ý kiến khác nhau khi xác đinh trách nhiệm hình sự của C và T:
1. C và T phạm tội cố ý gây thương tích cho người khác trong khi thi hành công vụ theo khoản 1 Điều 107 Bộ luật hình sự;
2. C và T phạm tội cố ý gây thương tích cho người khác theo khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự.
Hỏi: C và T phạm tội gì ? Tại sao ?
Bài tập số 81
Sáng 6/3, trong tiết giảng tại lớp 12G trường phổ thông trung học Quảng Hà, thày Phạm Văn C yêu cầu hai học sinh Nguyễn Văn H và Vũ Xuân D làm bản kiểm điểm vì đã nghịch đồng hồ điện tử, gây mất trật tự trong lớp.
Tan học, H và D về nhà kể lại sự việc cho Nguyễn Như E. E được cử đến gặp thầy C để xin không kỷ luật hai người bạn, xong không thành công. Do vậy, E dọa: “Thày sẽ gặp rắc rối”. Sau đó, E rủ bạn là Đinh Trung K tham gia “Trả thù” thày C. Tại cổng trường, E cầm mũ cối đập thẳng vào mặt thày, sau đó cùng K xông vào đấm đá. Thày C vùng chạy, chúng ném gạch đá theo khiến nạn nhân ngã bất tỉnh. Thầy C được đưa cấp cứu ở Trung tâm Y tế huyện Hải Hà. Tại đây các bác sỹ cho biết, bệnh nhân bị thương ở thắt lưng vùng hố chậu sưng nặng nề, đi lại khó khăn. Tỷ lệ thương tật thày Phạm Văn C phải gánh chịu là 15 %.
Hỏi: Theo Anh (Chị) E và K phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản nào của Điều 104 Bộ luật hình sự quy định về tội cố ý gây thương tích cho người khác ?
Bài tập số 82
Khoảng 17 giờ ngày 16/5/1990 M (Công an viên) cầm khẩu súng Colt 12 ly của anh E giao (anh E là Trưởng công an xã được cấp giấy phép sử dụng súng thường xuyên) đi từ ủy ban nhân dân đến trường phổ thông cơ sở xã để xem phim. Trên đường đi M gặp E. Anh E bảo M đem súng về trực ở trụ sở ủy ban nhân dân xã. M không chấp hành mà vẫn cầm súng đi xem.
Sau khi xem phim xong, M ra về gặp T. M rọi đèn làm T không nhìn thấy đường đi nên chửi thề và đòi đập đèn pin của M. M nghe vậy thách thức “Tao rọi đấy, mày có giỏi lại đây mà đập”. T đến gần thì M rút súng ra và hai bên lời qua tiếng lại thách thức nhau. M giơ súng bắn chỉ thiên, lúc này các anh G và H đang ngồi trong quán nước gần đó nghe súng nổ liền chạy ra. Anh G chửi thề và hỏi “Ai bắn súng có giỏi thì bắn tao đây này”. Vừa nói anh G vừa tiến về phía M. Sắn súng trong tay M bắn xuống đất về phía anh G, đạn xuyên thủng bàn chân trái, gẫy xương bàn ngón 1. Tỷ lệ thương tật anh G phải gánh chịu là 7%.
Hỏi: Anh (Chị) hãy giải quyết vụ án về mặt định tội danh và khung hình đối với M ?
Bài tập số 83
Mai Văn H và Lê Thanh P cầm gậy rủ nhau ra bờ đê để bắt “phò phạch” và “xin ít tiền uống bia”. Bọn chúng đã phát hiện N và K đang quan hệ tình cảm. Lấy cớ đó H đã rút gậy tre đánh anh N và nói “Chúng mày là đồ phò phạch có tiền, vàng bỏ ra đây không tao đánh chết”. Vì bị bắt quả tang đang quan hệ tình dục với chị K, hơn nữa trong đêm tối bị đông người uy hiếp, đe dọa nên anh N đã phải tháo đồng hồ, kính và tiền (giá trị toàn bộ là 5 triệu đồng) đưa cho H. Sau đó chúng đuổi anh N về, còn P lôi chị K vào điếm canh ở gần đó, chị K khóc lóc xin về, P nói “Mày khóc tao ném xuống sông”. Chị K bảo “Thôi có mình anh thì em chiều rồi cho em về”. P tiến hành giao cấu với chị K. Sau khi thỏa mãn dục vọng P gọi H vào và bỏ xuống sông tắm. H đến bên chị K, chị K nói “Vậy chỉ một mình anh nữa thôi nhé không thêm ai nữa đâu”. Sau khi thoả mãn dục vọng của mình, cả hai tên cho chị K về.
Sự việc sau đó bị công an phát hiện và cả hai tên đã bị bắt giữ.
Căn cứ vào các tình tiết của vụ án, có các ý kiến sau đây trong việc xác định tội danh của Mai Văn H và Lê Thanh P:
1. Mai Văn H và Lê Thanh P phạm tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 135 Bộ luật hình sự) và tôi cưỡng dâm (khoản 1 Điều 113 Bộ luật hình sự).
2. Mai Văn H và Lê Thanh P phạm tội cướp tài sản (khoản 1 Điều 133 Bộ luật hình sự) và tội hiếp dâm (khoản 2 Điều 111 Bộ luật hình sự).
Hỏi: Hãy cho biết ý kiến của Anh (Chị) về mặt định tội danh đối với P và H ?
Bài tập số 84
Đoàn Thị C (18 tuổi, học sinh lớp 12 của một trung tâm giáo dục thường xuyên ở thành phố Hồ Chí Minh) đi từ thành phố Hồ Chí Minh về quê ở xã Sơn Ninh, Hương Sơn, Hà Tĩnh. Chiều 3/12 đến địa phận Đà Nắng thì xe khách bị hỏng. C xin đi nhờ một chiếc xe tải trên đường ra Bắc. Tới đèo Hải Vân, tài xế Nguyễn Đức H (37 tuổi) và phụ xe Nguyễn Công T (39 tuổi) bắt đầu sàm sỡ cô gái đi nhờ xe. Mặc C quỳ lạy van xin, hai tên vẫn thay nhau giao cấu với cô.
Sau đó, chúng “thông báo” và đổi lái cho Lê Thanh H và Lê Huy T (đang điều khiển một xe tải khác cùng đi trên đường), để H và T tiếp tục “xử lý” C. 3giờ sáng ngày 4/12, khi gần tới cầu Cày, thị trấn Can Lộc, Hà Tĩnh, chúng đã đẩy C xuống đường. Quá đau khổ, C đã nhảy xuống sông tự tử nhưng được một người dân phát hiện cứu kịp thời nên thoát chết. Sau khi được C kể lại sự tình, người dân cùng C đến Cơ quan công an trình báo sự việc.
Nhận được đơn tố cáo của người bị hại, Công an thành phố Vinh, đã nhanh chóng truy đuổi và đã bắt giữ kịp thời hai chiếc xe trên đường bỏ chạy.
Trước Cơ quan công an cả 4 tên đã cúi đầu nhận tội. Lê Thanh H còn khai thêm là vào khoảng tháng 8/1999, khi H đang trên đường lái xe về công ty có trụ sở tại quận Thanh Xuân Hà Nội thì có một cô gái xin đi nhờ xe. H đỗ lại cho cô gái và hành lý của cô này lên xe. Đến đoạn đường vắng không người qua lại H dừng xe yêu cầu cô gái cho quan hệ tình dục và đe nếu không đồng ý thì hắn không cho đi nhờ xe nữa. Vì sợ không được đi nhờ và trời lại
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ly_luan_huong_dan_mau_va_350_bai_tap_thuc_hanh.doc