MỞ ĐẦU .7
1. Lý do chọn đề tài.7
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.8
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.8
4. Phương pháp nghiên cứu.9
5. Đóng góp mới của luận án .10
6. Cấu trúc luận án.10
Chương 1. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU .11
1.1. Một số vấn đề lí luận về tư duy nghệ thuật .11
1.1.1. Khái niệm tư duy nghệ thuật.11
1.1.2. Đặc trưng của tư duy nghệ thuật .12
1.1.3. Tư duy nghệ thuật theo thể loại văn học.14
1.2. Đặc trưng thể loại truyện ngắn.15
1.2.1. Định nghĩa truyện ngắn .16
1.2.2. Các yếu tố thi pháp đặc trưng.17
1.3. Tình hình nghiên cứu truyện ngắn nữ đương đại Việt Nam .21
1.3.1. Lí giải sự “lên ngôi” của các cây bút nữ.22
1.3.2. Tổng kết, đánh giá thành tựu của các cây bút nữ.23
1.3.3. Tiếp cận văn xuôi nữ dưới góc nhìn phê bình nữ quyền.27
Chương 2. DIỆN MẠO TRUYỆN NGẮN NỮ ĐưƠNG ĐẠI TRONG SỰ
VẬN ĐỘNG CỦA TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM THỜI KÌ ĐỔI MỚI
2.1. Bối cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa và sự đổi mới văn học
2.2. Sự “lên ngôi” và biến đổi của thể loaị truyêṇ ngắn
2.2.1. Vụ “được mùa” và ưu thế của thể loaị truyêṇ ngắ n
2.2.2. Những biến đổi của thể loaị truyêṇ ngắ n.
43 trang |
Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 1293 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Lý luận Văn học - Truyện ngắn các nhà văn nữ đương đại tư duy nghệ thuật và đặc trưng thể loại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng truyện ngắn nữ đương đại Việt Nam, bên
cạnh việc chỉ ra những đặc điểm mang tính đặc trưng được thể hiện qua hệ thống các
hình tượng nghệ thuật, chúng tôi còn muốn tìm ra sự cộng hưởng của các loại tư duy
theo thể loại văn học trong tác phẩm của các nhà văn nữ.
1.2. Đặc trƣng thể loại truyện ngắn
Trong thực tiễn đời sống văn học, khi tổng kết một giai đoạn, một thời kì,
truyện ngắn với tư cách một thể loại bao giờ cũng được nhắc đến với một vị trí tiêu
biểu làm nên diện mạo một nền văn học (Quá trình văn học đương đại nhìn từ
phương diện thể loại- Vũ Tuấn Anh [2], Sự vận động của các thể loại văn xuôi trong
văn học thời kỳ đổi mới- Lý Hoài Thu [92], Đời sống thể loại văn học sau 1975- Trần
Ngọc Dung [19],...). Tuy nhiên trên phương diện lí luận, sự tồn tại của truyện ngắn
với tư cách là một thể loại độc lập không phải đã được định danh một cách thống nhất.
17
Biểu hiện rõ nhất cho vấn đề này là trong giáo trình Lí luận văn học do Hà Minh Đức
chủ biên [25], phần nói về “Loại thể văn học”, thể loại truyện ngắn đã không được đề
cậpvới tư cách là một thể loại “quan trọng thường bắt gặp trong quá trình nghiên cứu
và thưởng thức văn học” (với mục đích “hiểu sâu đặc điểm của một số thể loại văn
học chính, từ đó có thể mở rộng sự bàn luận ra các thể loại văn học khác” [25, tr.164],
các tác giả chỉ đề cập đến bốn thể loại: thơ, tiểu thuyết, kịch, các thể kí văn học).
Trong chuyên luận Truyện ngắn- những vấn đề lí thuyết và thực tiễn thể loại, tác giả
Bùi Việt Thắng cũng khẳng định: “Truyện ngắn được quan niệm là một bộ phận của
tiểu thuyết, vì thế trên nguyên tắc không có lí thuyết riêng cho truyện ngắn, lí thuyết
của nó dựa vào lí thuyết của tiểu thuyết” [91, tr.61]. Nhận diện thể loại truyện ngắn
là một nỗ lực liên tục của cả người sáng tác và giới nghiên cứu lí luận.Thiết nghĩ,
nguyên tắc về tính lịch sử, tính thời đại, tính dân tộc và tínhbiến đổi của thể loại
luôn luôn là những nguyên tắc khoa học giúp ta có những nhận định đúng đắn khi
nghiên cứu về bất cứ thể loại văn học nào. Mặc dù có nhiều quan điểm về sự ra đời
cũng như khái niệm truyện ngắn, nhưng chúng tôi lựa chọn phạm vi là “truyện ngắn
hiện đại” (trong sự đối sánh với “truyện ngắn trung đại”, và có thể là “truyện ngắn
cổ đại”... như sự phân chia các giai đoạn phát triển thể loại truyện ngắn của một số
nhà nghiên cứu) để làm điểm tựa lựa chọn các vấn đề lý thuyết nhằm xác lập nội
hàm khái niệm thể loại này.
1.2.1. Định nghĩa truyện ngắn
Định nghĩa truyện ngắn được hiện hữu trong các sách lí luận, từ điển về văn
học, trong các ý kiến bàn luận của chính những người sáng tác (Pautôpxki, Nguyễn
Công Hoan, Nguyễn Kiên, Nguyên Ngọc,...). Nó phong phú, đa dạng đến mức có
nhiều ý kiến cho rằng không thể và không nên định nghĩa truyện ngắn, bởi đó là thể
loại “nghìn mặt”, thể loại “không thể nắm bắt” (trích theo [92, tr.40]). Về nguyên tắc,
chúng tôi tán đồng với quan điểm của Lê Huy Bắc khi ông cho rằng: “truyện ngắn
không thể lệ thuộc vào tiểu thuyết về mặt kĩ thuật, phản ánh... Nên những định nghĩa
về truyện ngắn cần phải xuất phát từ chính đặc trưng của thể loại” [9, tr.89]. Theo
18
chúng tôi, cách định nghĩa truyện ngắn của Phan Cự Đệ [96, tr.782]là bao gồm một hệ
thống đặc điểm nhằm phản ánh những đặc trưng về nội dung và hình thức thể loại là
khá hợp lí. Theo đó, nội hàm khái niệm thể loại truyện ngắn thể hiện ở những đặc
điểm sau:
- Là hình thức hư cấu tự sự cỡ nhỏ.
- Thường miêu tả một lát cắt của đời sống, một giai đoạn, thậm chí một khoảnh
khắc, một phút lóe sáng đầy ý nghĩa khám phá trong cuộc đời nhân vật.
- Do tính ngắn gọn nên truyện ngắn thường tập trung cao độ xung quanh một
chủ đề; cốt truyện thường xây dựng trên một hành động cỡ nhỏ, đơn giản trong một
không gian và thời gian nhất định với những chi tiết được chắt lọc, tiết kiệm, dồn nén
nhằm hướng tới một hiệu quả duy nhất ở phần kết thúc.
Tất nhiên trên đây chỉ là những đặc điểm cơ bản mang tính khái quát nhất về
thể loại truyện ngắn. Trong quá trình phát triển, truyện ngắn sẽ thâu nạp thêm những
đặc điểm mới do sự tác động của những thay đổi trong lịch sử xã hội và trong chính
đời sống nội tại của nền văn học. Nội hàm khái niệm truyện ngắn sẽ được soi rọi rõ
hơn qua các yếu tố thi pháp đặc trưng của thể loại.
1.2.2. Các yếu tố thi pháp đặc trưng
Thuộc loại hình tự sự nên về mặt lí thuyết, trước hết truyện ngắn phải mang
những đặc trưng cốt lõi của loại hình này (trong sự phân biệt với loại hình trữ tình,
kịch). Đó là “phương thức phản ánh hiện thực qua các sự kiện, biến cố và hành vi con
người làm cho tác phẩm tự sự trở thành một câu chuyện về ai đó hay về một cái gì đó.
Cho nên tác phẩm tự sự bao giờ cũng có cốt truyện. Gắn liền với cốt truyện là một hệ
thống nhân vật được khắc họa đầy đủ nhiều mặt hơn hẳn nhân vật trữ tình và kịch. (...)
Nguyên tắc phản ánh hiện thực trong tính khách quan đã đặt trần thuật vào vị trí của
nhân tố tổ chức ra thế giới nghệ thuật của tác phẩm tự sự, đòi hỏi nhà văn phải sáng
tạo ra hình tượng người trần thuật” (mục từ “Tự sự” trong Từ điển thuật ngữ văn học
[27, tr.328]). Trong sự “cạnh tranh” với các thể loại khác cùng thuộc loại hình tự sự,
muốn khẳng định tính “độc lập” của mình, truyện ngắn phải “khoanh vùng” những
19
đặc trưng thẩm mĩ riêng biệt. Về mặt này, các nhà nghiên cứu tương đối thống nhất
khi cho rằng “ngắn” là nét đặc trưng nhất, quan trọng nhất, tạo nên những quy chuẩn
khu biệt thể loại này với các thể loại lân cận. Sự so sánh với tiểu thuyết là thao tác
thường xuyên được tiến hành khi “nhận dạng” truyện ngắn. Vấn đề đặt ra là, sự khác
biệt giữa hai thể loại này là về cấp độ (degree) hay về chủng loại (kind)?
Theo sự thu nhận của chúng tôi, sự khác nhau giữa truyện ngắn và tiểu thuyết
không phải nằm ở dung lượng dài- ngắn, mà ở đặc trưng của nguyên tắc phản
ánh.Như ở phần định nghĩa đã nêu, truyện ngắn là một hình thức hư cấu tự sự cỡ nhỏ,
trong khi tiểu thuyết là hình thức hư cấu tự sự cỡ lớn. Cả hai đều nằm trong khu vực
tiếp xúc trực tiếp với cái hiện thực đang vận động và phát triển, đều huy động kinh
nghiệm sống và từng trải của chính tác giả, đều sử dụng một thứ ngôn ngữ văn xuôi
giàu chất tạo hình và đa thanh, nhưng nếu tiểu thuyết mở rộng biên độ phản ánh, việc
thiết lập thường phong phú, đa diện thì truyện ngắn chọn lấy một nút thắt, đi thẳng
vào trung tâm xung đột (có thể là xung đột xã hội hoặc xung đột tâm lý), từ đó bung
ra, đập mạnh vào ấn tượng người đọc. “Nó cắt ra một mảnh nhỏ của hiện thực, đặt
mảnh ấy vào trong những giới hạn nào đó, nhưng nhờ vậy tác phẩm sẽ bung ra như
một cú nổ làm mở toang một hiện thực rộng lớn hơn rất nhiều” (Julio Cotázar, trích
theo [41]). Điều đó có nghĩa là, truyện ngắn dĩ nhiên phải ngắn, nhưng không phải là
một chương của tiểu thuyết, một cái sườn truyện từ đó có thể phát triển ra thành tiểu
thuyết, mà thực sự như một bài hai-kư “một sự tình vắn tắt đã tìm được hình thức vừa
vặn với mình” (Roland Barthes).Với nguyên tắc “tinh lọc”, “nén gọn”, thể loại truyện
ngắn dung nạp một hệ thống thi pháp đặc trưng để tạo nên hiệu quả riêng biệt của
mình.
1.2.2.1. Tình huống truyện ngắn
Có ý kiến cho rằng đây là hạt nhân của cấu trúc thể loại truyện ngắn (Chu Văn
Sơn [76]). Xuất phát từ những trang viết của Hêghen về tình huống trong tác phẩm
20
Mỹ học, nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng đã rút ra những kết luận chính để giúp chúng
ta hiểu về tình huống [91, tr.96]:
- Tình huống là một trạng thái có tính chất riêng biệt.
- Tình huống trở thành xung đột.
- Tình huống giúp cho những gì còn nằm trong hình thức chưa phát triển nay
bộc lộ và hoạt động tích cực.
- Tình huống là bước trung gian (giữa tình trạng im lìm và tình trạng hành động).
Nói về vai trò quan trọng của tình huống đối với thể loại truyện ngắn, nhà văn
Nguyên Ngọc đã có cách diễn đạt rất hình tượng: “Truyện ngắn dẫu sao cũng phải
ngắn, do đó thủ thuật chủ yếu của truyện ngắn là điểm huyệt. Trên cơ thể con người
cũng như trên cơ thể cuộc sống, có những huyệt, điểm vào đó, có thể làm rung động
toàn thể. Truyện ngắn nhằm vào đó. Truyện ngắn điểm huyệt hiện thực bằng cách
nắm bắt trúng những tình huống cho phép phơi bày cái chủ yếu nhưng lại bị che giấu
trong muôn mặt cuộc sống hàng ngày. Nhìn chung, mỗi truyện ngắn bao giờ cũng
được xây dựng trên một tình huống, khai thác tình huống ấy”[23, tr.355].
Có nhiều cách phân loại tình huống. Dựa theo kiểu nhân vật chính trong tác
phẩm chúng ta có thể phân thành ba dạng cơ bản: tình huống giàu kịch tính, tình
huống tâm trạng và tình huống tự nhận thức.
1.2.2.2. Cốt truyện truyện ngắn
Như ở trên đã đề cập, về mặt lí thuyết, khi thuộc loại hình tự sự thì truyện ngắn
bao giờ cũng là một câu chuyện về ai đó hay về một cái gì đó. Cho nên tác phẩm
truyện ngắn bao giờ cũng có cốt truyện. Đó là “một hệ thống các sự kiện phản ánh
những diễn biến của cuộc sống và nhất là các xung đột xã hội một cách nghệ thuật,
qua đó các tính cách hình thành và phát triển trong những mối quan hệ qua lại của
chúng nhằm làm sáng tỏ chủ đề và tư tưởng tác phẩm” [25;137]. Tuy nhiên, quan
niệm về đặc điểm cốt truyện trong truyện ngắn mang tính lịch sử chứ không phải là
một “công thức đóng khung” bất biến theo thời gian. Theo trường phái “cổ điển” mà
tiêu biểu là quan niệm của Edgar Poe (thế kỉ XIX)về tính “hiệu quả duy nhất” trong
21
truyện ngắn thì cốt truyện truyện ngắn phải hết sức chặt chẽ với sự phát triển giàu
kịch tính của các sự kiện và đặc biệt phải chú trọng tạo ra những cái kết bất ngờ (có
thể kể đại diện xuất sắc cho những sáng tác cốt truyện “kinh điển” kiểu này là
O’Henry ở Mỹ, Môpatxăng ở Pháp, Nguyễn Công Hoan ở Việt Nam,...). Đến nửa sau
thế kỉ XX, giới lí luận phê bình và cả những người sáng tác lại phản ứng khá gay gắt
với quan niệm “kịch hóa” cốt truyện như thế. Họ khẳng định những phẩm chất mới
của cốt truyện,dùng những cốt truyện không có kịch tính nhưng được trình diễn bằng
một lối kể tinh xảo để thay thế cho những cốt truyện giàu kịch tính- cái mà tác phẩm
đó phản ánh là suy nghĩ, cảm giác, diễn biến nội tâm của con người chứ không phải
tính cách nhân vật hay những xung đột xã hội.Nhưng dù nằm trong ô phân loại nào
(cốt truyện sự kiện, cốt truyện tâm lí hay sự hỗn hợp sự kiện- tâm lí) thì với đặc trưng
là ngắn gọn, muốn tạo được sự “dồn nén” trong dung lượng- khả năng phản ánh hiện
thực, muốn gây được dư âm cộng hưởng trong nhận thức của người đọc, cốt truyện
truyện ngắn phải đặc biệt chú trọng đến việc xây dựng chi tiết và đoạn kết. Đó là
những yếu tố quan trọng góp phần tạo ra khả năng “bùng nổ” của hình thức hư cấu tự
sự cỡ nhỏ này.
1.2.2.3. Kết cấu truyện ngắn
Kết cấu là toàn bộ tổ chức phức tạp, sinh động các yếu tố trong chỉnh thể tác
phẩm nhằm tạo ra hiệu quả nghệ thuật theo ý đồ của nhà văn. Kết cấu tồn tại ở hai cấp
độ cơ bản:
- Cấp độ hình tượng (toàn bộ tổ chức của thế giới nghệ thuật: hệ thống các nhân
vật, sự kiện, tình tiết và trình tự xuất hiện của chúng, tương quan về không gian, thời
gian, tương quan các chi tiết)
- Cấp độ trần thuật (tổ chức điểm nhìn, bố cục, các thành phần của trần thuật)
Đặc trưng “hình thức hư cấu tự sự cỡ nhỏ” khiến việc sáng tác truyện ngắn
được liên tưởng đến việc thực hiện một tác phẩm thủ công mĩ nghệ đòi hỏi sự tinh
xảo, chính xác cao: “Gọt giũa một văn bản ngắn, làm cho nó tròn trịa, toàn bích trong
phạm vi vài trang giấy là một thú vui lớn, đồng thời đòi hỏi người viết phải có nghệ
22
thuật cao. Viết một truyện ngắn, giống như sáng tác một tác phẩm nghệ thuật nhỏ,
nhưng tinh xảo, cần phải hết sức chú ý và thận trọng, (...) tạo cho người đọc có cảm
giác rằng những điều ta nói ra không thể nói khác được” (Régine Deforges- trích theo
[92, tr.60]). Như vậy, để mỗi một yếu tố đạt được hiệu quả nghệ thuật cao nhất trong
khuôn khổ một giới hạn “kích cỡ” tự sự nhỏ bé, vai trò của việc “bày binh bố trận”,
sắp xếp vị trí, tạo ra các mối liên hệ giữa các yếu tố một cách lôgic, hợp lí, nghệ thuật
là vô cùng quan trọng.
Sự biến hóa năng động của thể loại truyện ngắn khiến chúng ta thật khó có thể
liệt kê tất cả các dạng kết cấu của nó. Trong đời sống thể loại tự sự, tồn tại phổ biến
một số kiểu kết cấu như: kết cấu theo trình tự thời gian, kết cấu tâm lí, kết cấu vòng
tròn, kết cấu mở, kết cấu lồng ghép, kết cấu phân mảnh...
1.3. Tình hình nghiên cứu truyện ngắn nữ đƣơng đại Việt Nam
Từ năm 1986, bắt đầu từ một vài tên tuổi “gây hấn”, và liên tiếp các gương mặt
đạt danh hiệu “thủ khoa” trong các cuộc thi truyện ngắn trên tạp chíVăn nghệ quân
đội, báo Văn nghệ,... sáng tác của các nhà văn nữ trong suốt thập kỉ 90 và cho đến
ngày nay đã trở thành một “hiện tượng” trong nền văn xuôi đương đại Việt Nam. Điều
đặc biệt là “sự trỗi dậy” của phái đẹp trong sáng tác văn học lại “bén duyên” và gắn
bó bền chặt với thể loại truyện ngắn. Với những thành tựu không thể phủ nhận trên cả
phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật, truyện ngắn nữ đương đại đã có đóng
góp không nhỏ cho sự vận động, biến đổi của thể loại truyện ngắn nói riêng và nền
văn xuôi đương đại nói chung. Sức hấp dẫn của một “sắc diện” mới, một “giới tính”
đã từng bị “lấn lướt” trong đời sống sáng tác văn chương (ở thể loại văn xuôi) đã đem
lại nhiều “hứng khởi” cho giới nghiên cứu, lí luận và phê bình văn học. Không kể
những bài viết về các tác giả nữ cụ thể ngay khi họ vừa xuất hiện và tạo tiếng vang
trên văn đàn, ngay từ đầu những năm 90 cho đến những năm đầu thế kỉ XXI, liên tiếp
xuất hiện những bài viết tổng kết về thành tựu của văn xuôi nữ(trong đó có truyện
ngắn nữ). Giới nữ “đăng đàn” và thành công vang dội đã tạo ra một niềm tin đầy hân
hoan vào tương lainền văn học nước nhà cho các nhà thẩm định văn chương.Bên cạnh
23
xu hướng “tổng kết”, “đánh giá” thành tựu đó, từ năm 2005, truyện ngắn nữ nói riêng
và văn xuôi nữ nói chung được soi rọi ở những khía cạnh cụ thể hơn về nội dung và
nghệ thuật, dựa trên những lí thuyết lí luận phê bình hiện đại phương Tây. Trong
phạm vi khảo sát của chúng tôi, nghiên cứu về truyện ngắn nữ (có thể lồng trong “văn
xuôi nữ”), có một số khuynh hướng chính như sau:
1.3.1. Lí giải sự “lên ngôi” của các cây bút nữ
Như một lẽ tự nhiên, khi phụ nữ bỗng trở nên xuất sắc ở một lĩnh vực nào đó,
mọi người đều đổ dồn đi tìm nguyên nhân.Năm 1993, trong bài viết Văn chương nữ
giới- một cách thế hiện diện ở đời [70, tr.132], Huỳnh Như Phương đã lí giải rằng:
“Nhìn dọc suốt thế kỷ XX này, rõ ràng là tầm nhìn của người phụ nữ trong sáng tác
văn học, cũng như cõi lòng của họ biểu hiện trong thơ văn ngày càng mở rộng hơn với
tất cả các chiều kích của nó” [70, tr.135], và theo ông, đối với người phụ nữ, “làm văn
chương là một cách thế hiện diện trong xã hội”, bởi qua văn chương, “người phụ nữ
không muốn để cho nam giới độc quyền kết luận về ý nghĩa cuộc đời này, độc quyền
đau khổ trước những bi kịch và độc quyền tìm cách ứng phó với những tình huống bi
kịch đó” [70, tr.136]. Dưới sự kiến giải của tác giả (qua sự so sánh với văn chương nữ
giới trong quá khứ), chính sự giành được vai trò tương xứng trong xã hội, mở rộng
phạm vi hoạt động xã hội đã giúp người phụ nữlàm chủ văn hóa và nghệ thuật. Với
những gì văn chương nữ giới đã thể hiện trong thời hiện đại, tác giả bài viết hi vọng
rằng “thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ của văn hóa nghệ thuật, đồng thời là thế kỷ của phụ nữ”.
Năm 1996, trong cuộc trao đổi ý kiến về Phụ nữ và sáng tác văn chương trên
tạp chí Văn học [59], các cây bút phê bình, các nhà văn, nhà thơ đã rất cởi mở nói lên
suy nghĩ của mình về mặt mạnh và mặt yếu của người phụ nữ với tư cách là một chủ
thể sáng tác, từ đó chỉ ra những nguyên nhân khiến cho văn xuôi nữ phát triển nổi trội
trong thời gian vừa qua. Nói về mặt mạnh của các cây bút nữ, Vương Trí Nhàn cho
rằng “hình như do sự nhạy cảm riêng của mình, phụ nữ bắt mạch thời đại nhanh hơn
nam giới”, còn Văn Tâm thì đề cao sự đóng góp “một cái mảng khá bí ẩn là tâm hồn
họ”. Cùng chung quan điểm ấy của Văn Tâm, Đặng Anh Đào cũng nhấn mạnh đến
24
đặc điểm “họ đưa tất cả cuộc đời và tâm hồn họ vào trang sách hoặc nói như phương
Tây, người ta vẫn nói, họ tự ăn mình”. Bà đặc biệt khâm phục các cây bút nữ đương
thời bởi bà nhận thấy rằng “mình không bao giờ dám viết những điều mình nghĩ, như
lớp trẻ hơn hiện nay”. Bên cạnh mặt mạnh, những người trong nghề văn cũng rất
thẳng thắn chỉ ra giới hạn của các cây bút nữ: đó là “nguy cơ lặp lại mình” (Đặng Anh
Đào), “không bao giờ có cái sự gọi là đồ sộ, vĩ đại” (Lê Minh Khuê). Tuy nhiên, vấn
đề thu hút nhiều sự cắt nghĩa nhất trong buổi tọa đàm là hiện tượng “âm thịnh dương
suy”, và “tại sao gần đây, phụ nữ đi viết văn xuôi có vẻ nổi hơn so với số chị em làm
thơ”. Đã có nhiều lí do được đưa ra: “trước tiên là cái hoàn cảnh đất nước sau chiến
tranh. Phụ nữ vốn là những người hiểu một cách sâu sắc, hiểu bằng cả tâm hồn mình,
cái sức ép trước đây của hoàn cảnh. Nỗi đau hôm qua ở họ thấm thía, nên sự hồi sinh
của dân tộc những năm này họ cũng cảm thấy đầy đủ hơn”(Ngô Thế Oanh), “trong cái
diện tìm tòi đã khá rộng, hình như xu hướng hiện nay vẫn là tìm vào những cái suồng
sã, thô nhám, xô lệch... của hiện thực, mà thiếu sự thăng hoa quý phái, nên thơ không
khởi sắc lên được” (Vương Trí Nhàn);sự thay đổi trong quan niệm về nghề văn (trở
nên cởi mở, dân chủ hơn, trong đó có một bộ phận mang tính cách thị trường có một
vị trí rõ rệt) đã khiến nhiều chị em thử vận may trong văn chương và coi đây như một
nghề để kiếm sống, vì thế mới có trường hợp “vừa nhảy vào nghề” “đã viết ào ào”, vì
“phải tính cho nhanh, nếu không ra sao thì còn rút chứ” (Đặng Minh Châu)... Có
nhiều cách diễn đạt và nhiều “trọng tâm” khác nhau cho các nguyên nhân, nhưng các
nhà bàn luận đều thống nhất ở lí do hoàn cảnh xã hội dân chủ sau chiến tranh đã tạo ra
một môi trường thuận lợi cho các cây bút nữ thử sức và phát triển. Và họ đều đặt niềm
tin vào sự “hưng thịnh” của nền văn chương do chị em viết nên.
1.3.2. Tổng kết, đánh giá thành tựu của các cây bút nữ
Mặc dù có ý kiến không nên phân biệt giới tính trong sáng tác văn học nhưng
trên thực tế, suốt từ đầu thập kỉ 90 đến những năm đầu thế kỉ XXI, liên tiếp xuất hiện
những bài viết chọn sáng tác văn xuôi (đặc biệt là truyện ngắn) của các cây bút nữ để
làm đối tượng nghiên cứu, đánh giá. Ngay từ năm 1990, Nguyễn Thị Như Trang đã
25
tổng kết Thành tựu và đội ngũ các nhà văn nữ Việt Nam [105]. Mặc dù chỉ là “những
nét khái quát còn hạn hẹp sơ lược” “trong việc điểm lại những hoạt động phong phú,
đa dạng và những thành công trong sáng tác văn học của các nhà văn nữ Việt Nam”
như chính tác giả đã viết, nhưng qua đó chúng ta cũng thấy được tài năng và vai trò to
lớn của các thế hệ nhà văn nữ trong công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước.
Năm 1993, bằng “con mắt xanh” của một nhà phê bình có nghề, Bùi Việt
Thắng trong Khi người ta trẻ (I) (Tản mạn về truyện ngắn của những cây bút nữ trẻ)
[89, tr.189] đã sớm nhận ra “dung nhan” “lấp lánh” trong sáng tác của các cây bút nữ
trẻ mới xuất hiện trên văn đàn (Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Ấm,
Y Ban, Nguyễn Minh Dậu và Phan Thị Vàng Anh). Theo tác giả, “làm nên đặc trưng
của những cây bút nữ trẻ là cái nhu cầu đến như là mê say được tham dự, được hòa
nhập vào những nỗi niềm đau khổ và hy vọng của con người”. Tác giả cũng rất tinh tế
chỉ ra những biểu hiện của “nữ tính” được “phát lộ” rất rõ “trong sự quyết liệt đấu
tranh giành giữ tình yêu và sự bình quyền trong tình cảm” (Bức thư gửi mẹ Âu Cơ- Y
Ban), trong sự “chan chứa nỗi lo lắng mơ hồ về cuộc đời vốn mênh mông vừa là thiên
đường vừa là địa ngục”, trong cái “đa sự đa đoan”... Bên cạnh nét đặc trưng về nội
dung, Bùi Việt Thắng còn chỉ ra những “ấn tượng” trong hình thức “lạ hóa” đối
tượng, trong lối viết “phá cách” rất tự do, khoáng đạt và uyển chuyển linh hoạt ở các
truyện ngắn nữ. Mặc dù vẫn còn cảm thấy “thiếu một cái gì đó thật căn cốt, thật dư
ba” ở sáng tác của các cây bút nữ trẻ nhưng tác giả bài viết “vẫn tin vào thế hệ thứ
năm này như tin vào tiền đồ của văn học nước nhà sẽ tới một thời kỳ phục hưng”.
Cùng mang một niềm tin như thế vào sức sáng tạo của các nhà văn nữ, năm
1995, trong bài viết Những tác giả nữ trong nền văn xuôi cách mạng mở đầu tập
truyện ngắn các tác giả nữ 1945-1995 [60], Hà Minh Đức đã nêu ra nhiều yếu tố mới
xuất hiện trong truyện ngắn của các thế hệ nhà văn nữ nổi lên từ sau 1975. Đó là “các
nhân vật mở rộng nếp cảm nghĩ, bộc lộ rõ cá tính trong các mối quan hệ, trong thị
hiếu thẩm mĩ và ngôn ngữ xử sự. Cấu trúc câu chuyện cũng vần xoay theo những kiểu
dáng mới không theo nếp truyền thống”. Đó là “sự mạnh dạn của nhiều cây bút nữ
26
trong việc bộc lộ phần rất riêng tư của tình yêu kể cả những khao khát thầm kín có
tính chất bản năng ở mỗi con người”. Đó là “cái tôi của mỗi người đều không giấu kín
mà bộc lộ chân tình linh hoạt trên trang viết”. Bên cạnh đó ông cũng rất nhấn mạnh
đến “chất nữ tính” trong văn chương các tác giả nữ: “Đáng quý khi đọc những trang
viết của các tác giả nữ, chúng ta đã tiếp nhận được những cảm xúc mềm mại, tinh tế,
phần thì bộc lộ vẻ đẹp khách quan của những tâm hồn nữ, phần thì làm dịu đi ở người
đọc những mệt mỏi trăn trở trước những khó khăn của cuộc đời. Chính cái chất tâm lý
ấy góp phần tạo nên chất thơ riêng của tác giả nữ”. Theo đánh giá của tác giả, trong
khoảng hơn thập kỷ qua sáng tác của các nhà văn nữ “đã thành dòng chảy xiết mạnh
mẽ, hứa hẹn nhiều thành quả tươi đẹp” [60, tr.8].
Bước sang thế kỉ XXI, truyện ngắn nữ nói riêng và văn xuôi nữ nói chung vẫn
tiếp tục khẳng định được vị thế của mình trên văn đàn- bằng chứng là vẫn liên tục có
các bài viết đánh giá về đóng góp, đặc điểm sáng tác của “hiện tượng” này. Năm
2001, Bích Thu trong Văn xuôi của phái đẹp [95]đã chỉ ra khá cặn kẽ những biểu hiện
của sự vận động và đổi mới trong sáng tác của các nhà văn nữ trên cả phương diện
nộidung và hình thức biểu đạt. Theo tác giả, văn chương của phái đẹp hôm nay “đã
không thi vị hóa những chuyện đời, không tỏ ra đài các hoặc đa cảm trong những giọt
lệ khóc chồng hay giấc mộng phù du mà sắc sảo và sâu sắc khi tiếp cận và khai thác
đề tài thế sự, đời tư, với nỗi đau nhân tình thế thái bằng lối viết dịu dàng và bén ngọt,
riết róng mà đồng cảm, sẻ chia với những thân phận, những con người sống quanh
mình”. Với việc chỉ ra “sở trường” của các nhà văn nữ như một “ưu thế riêng của giới
tính” trong việc khai thác “đối tượng” sáng tạo phong phú mà bí ẩn là cuộc đời và tâm
hồn của chính mình”, tác giả cho rằng “ngay từ những sáng tác khởi đầu, những người
viết nữ đã đưa vào tác phẩm “một đời sống, một lối viết và một kiểu hệ lụy riêng” rất
phụ nữ”. Nói về đề tài “muôn thuở” trong sáng tác của các cây bút nữ- đề tài tình yêu
với đủ cung bậc cảm xúc, tác giả đã nêu ra một nhận định khá thú vị: “sự vỡ lẽ về đàn
ông qua các trang viết của các nhà văn nữ đã bộc lộ lòng vị tha, nhân ái của phụ nữ
với con người và cuộc đời. Suy cho cùng đó cũng là một cách dung hòa, cân bằng các
27
mối quan hệ, ứng xử ở đời”. Không chỉ đề cao sự hòa nhập nhanh của văn xuôi nữ
vào sự đổi mới của văn học nghệ thuật nước nhà nói chung trên phương diện nội
dung, Bích Thu còn rất đề cao đóng góp làm nên “sự đa dạng của loại hình văn xuôi
nghệ thuật” ở các cây bút nữ.Đó là khả năng biểu đạt và phân tích sâu sắc, tinh tế thế
giới tâm hồn con người, là kiểu xây dựng cốt truyện theo dòng tâm trạng nhân vật, là
việc phát hiện các tình huống tâm lí, thế giới nội tâm nhân vật với bút pháp tự sự trữ
tình, là cố gắng không ngừng làm mới cách diễn đạt, biểu cảm... Với cảm nhận sáng
tác của các nhà văn nữ đã có một “tiếng nói riêng, hương sắc riêng” trong nền văn
xuôi đương đại, tác giả tin rằng “phụ nữ với tác phẩm của phụ nữ sẽ là lời mời, tiếng
gọi của văn chương và người đọc trong thế kỷ 21”.
Nhận diện đặc điểm của văn xuôi nữ qua một số phong cách tác giả nữ tiêu
biểu (Thùy Linh, Phan Thị Vàng Anh, Trần Thùy Mai, Lý Lan, Lê Minh Khuê), năm
2003, Vũ Đức Tân trong Văn xuôi của một số cây bút nữ [85] đã rút ra xu thế trong
cách viết của nhiều cây bút nữ hiện nay là “không né tránh hiện thực phức tạp của
cuộc sống”, “những nhân vật lý tưởng trở nên hiếm hoi hơn”- điều đó thể hiện thái độ
dũng cảm của các nhà văn nữ khi nhìn nhận cuộc sống. Nhận thấy “bút pháp hiện thực
vẫn là bút pháp chủ đạo khi hướng tới việc phê phán hay khen ngợi, nêu bật những nét
nhân bản của nhân vật”, tác giả cho rằng những trang viết của các cây bút nữ “dường
như vẫn còn ít có sự bay bổng nâng cao con người hơn những cơm áo đời thường. Cái
chân trời trong văn xuôi của họ còn mong manh biết bao nhiêu”.
Năm 2004, khi Phác thảo vài nét về diện mạo truyện ngắn đương đại và sự góp
mặt của một số cây bút nữ [88], Nguyễn Thị Thành Thắngđã liệt kê khá đầy đủ sự
“lên ngôi” của một số cây bút n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 02050004372_1_5378_2006687.pdf