Một số vấn đề cơ bản về chế định hiệu lực của Bộ Luật Hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam

Tuy nhiên, giải pháp trên chỉ đúng đối với tình huống nêu ở trên còn một trường hợp

khác như nếu hành vi có ý (mới chỉ biểu hiện, có ý định hoặc dự định – các cấu thành phạm

tội cắt xén) phạm tội được thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam còn hậu quả xảy ra hoặc sẽ xảy

ra ở nước ngoài hoặc một phần của hành vi phạm tội được thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam,

phần khác được thực hiện ở nước ngoài, còn hậu quả xảy ra ở nước ngoài thì hành vi đó có

được coi là được thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam (hành vi đề cập trong trường hợp này đó là

những hành vi chưa đủ dấu hiệu được coi là hành vi phạm tội theo pháp luật hình sự Việt

Nam).

Theo chúng tôi, để giải quyết những vấn đề bất cập trong qui định về “hành vi phạm

tội” ở điều 5 Bộ luật hình sự còn phải căn cứ vào chế định về “tội phạm” và thêm vào sau

điều luật “trừ những trường hợp Bộ luật hình sự này có qui định khác”. Bởi vì, chế định tội

phạm là một trong hai chế định cơ bản của pháp luật hình sự đã được qui định tại điều 8 Bộ

luật hình sự; khi căn cứ vào chế định tội phạm sẽ giải quyết được các vướng mắc kể trên; mặt

khác để truy cứu trách nhiệm hình sự một chủ thể nhất định thì không chỉ căn cứ vào hành vi

của họ mà còn căn cứ vào các yếu tố cấu thành tội phạm khác được qui định trong Bộ luật

hình sự; và còn có trường hợp ngoại lệ đối với chủ thể phạm tội là người được hưởng các đặc

quyền ngoại giao hoặc lãnh sự.

Tuy nhiên, việc bổ sung thêm cụm từ “trừ những trường hợp Bộ luật hình sự này có

qui định khác” vào quy định nào, khoản nào hay điều nào trong các quy định về chế định

hiệu lực của Bộ luật hình sự lại là một vấn đề khá phức tạp. Bởi lẽ, khi quy định cụm từ này

vào trong các điều luật về chế định hiệu lực Bộ luật hình sự vô hình chung nhà làm luật đã

tạo ra một khoảng trống trong việc áp dụng pháp luật. Việc tạo ra khoảng trống này có tính

hai mặt của nó. Đó là:

Mặt thứ nhất- mặt tiêu cực: các chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật sử dụng

khoảng trống, kẽ hở trong quy định pháp luật này để sử dụng vào lợi ích cá nhân, vụ lợi, áp

dụng không đúng tính thần pháp luật. Trường hợp này chỉ

pdf16 trang | Chia sẻ: lanphuong92 | Lượt xem: 556 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề cơ bản về chế định hiệu lực của Bộ Luật Hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHẾ ĐỊNH HIỆU LỰC CỦA ĐẠO LUẬT HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 2.1. Giai đoạn từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 đến pháp điển hóa lần thứ nhất (1945-1985) Pháp luật hình sự Việt Nam từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước năm 1975 cũng không đề cập nhiều đến chế định hiệu lực của Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, cũng có một số qui định liên quan đến phạm vi đối tượng áp dụng các Sắc lệnh hình sự; việc áp dụng ở những năm đầu giai đoạn này song song các văn bản luật hình sự cũ kèm theo các điều kiện để áp dụng và các văn bản luật hình sự mới nhằm duy trì ổn định trật tự xã hội, trong lúc chưa xây dựng các văn bản mới . 2.2. Trong Bộ luật hình sự năm 1985 2.2.1. Các quy phạm pháp luật về hiệu lực của đạo luật hình sự trong Bộ luật hình sự năm 1985 Bộ luật hình sự năm 1985 được ban hành trong giai đoạn cả nước xây dựng Chủ nghĩa xã hội là một yêu cầu rất cần thiết, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 1986. Tuy nhiên, trong thời kỳ này nội hàm của chế định hiệu lực của Bộ luật hình sự được quy định trong Bộ luật hình sự năm 1985 được thể hiện qua nội hàm các qui định về khái niệm “Phạm vi áp dụng của Bộ luật hình sự” – qui định tại Chương II – Bộ luật hình sự. Nội dung của nó được qui định cụ thể tại ba điều (từ Điều 5 đến Điều 7 của Bộ luật hình sự), được xem xét dưới hai khía cạnh là hiệu lực của Bộ luật hình sự theo không gian và hiệu lực của Bộ luật hình sự theo thời gian. Đối với những hành vi phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì Điều 6 – Bộ luật hình sự năm 1985 phân biệt hai trường hợp: người phạm tội là công dân Việt Nam và người phạm tội không phải là công dân Việt Nam. Nói luật hình sự không có hiệu lực hồi tố là nói đến những quy định đặt ra tội phạm mới hoặc đặt ra hình phạt nặng hơn. Trái lại, những quy định xóa bỏ một tội phạm hoặc giảm nhẹ hình phạt thì có hiệu lực hồi tố. Quy định này đưa ra là vì khi tính chất nguy hiểm cho xã hội của một hành vi được coi là mất đi thì việc trừng trị theo luật cũ không còn cần thiết nữa mà cần áp dụng luật mới trong trường hợp này. 2.2.2. Qui định về hiệu lực của Bộ luật hình sự trong các lần sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 1985 Các qui định liên quan đến chế định hiệu lực của Bộ luật hình sự trong bốn lần sửa đổi, bổ sung (năm 1989, năm 1991, năm 1992, năm 1997), đều không có sự sửa đổi hay bổ sung, mà vẫn giữ nguyên qui định tại các điều như Bộ luật hình sự năm 1985 được kỳ họp thứ IX, Quốc hội khóa VII thông qua ngày 27 tháng 6 năm 1985, có hiệu lực ngày 01 tháng 01 năm 1986. 2.3. Trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành Các qui định của Bộ luật hình sự năm 1985 đã cho thấy một số các nhược điểm nhất định khá rõ rệt – chưa chính xác về mặt khoa học hoặc chưa phù hợp với thực tiễn, chưa nhất quán về mặt logic pháp lý hoặc chưa chặt chẽ kỹ thuật lập pháp. Bộ luật hình sự năm 1999 đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 21 tháng 12 năm 1999 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2000. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 1999 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 5 ngày 19 tháng 6 năm 2009 có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2010 chỉ tập chung sửa đổi, bổ sung một số điều qui định trong Phần Riêng – Phần các tội phạm, còn các qui định trong Phần Chung của Bộ luật hình sự vẫn được giữ nguyên như các qui định trong Bộ luật hình sự năm 1999. 2.4. Thực tiễn áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự liên quan đến chế định hiệu lực của Bộ luật hình sự 2.4.1. Vấn đề áp dụng chế định hiệu lực của Bộ luật hình sự trong thực tế hiện nay Về mặt khoa học pháp lý, chế định này chưa được các nhà lập pháp, các nhà luật học, các nhà nghiên cứu pháp lý quan tâm một cách đầy đủ, toàn diện. Điều này được thể hiện qua số lượng các công trình nghiên cứu chuyên biệt chế định hiệu lực Bộ luật hình sự còn hạn chế. Về mặt lập pháp, trước khi chế định hiệu lực của Bộ luật hình sự được pháp điển hóa lần thứ nhất trong Bộ luật hình sự năm 1985 thì chế định này không được qui định rõ ràng, cụ thể, chi tiết trong pháp luật hình sự. Khi được ghi nhận trong Bộ luật hình sự thì đây là một việc có ý nghĩa rất quan trọng. Tuy nhiên, việc ghi nhận chế định này vẫn còn có sự thiếu sót và chưa rõ ràng. Đây là một trong những lỗ hổng, thiếu sót của Bộ luật hình sự mà cần phải sửa đổi, bổ sung kịp thời trong thời gian tới. Về mặt áp dụng pháp luật của các cơ quan và người tiến hành tố tụng, các chủ thể này áp dụng các qui định pháp luật hình sự về chế định này thường không quan tâm, chú ý trong quá trình áp dụng pháp luật dẫn đến việc áp dụng không đúng các qui định của pháp luật hình sự. 2.4.2. Một số bất cập, vƣớng mắc trong quá trình áp dụng chế định hiệu lực của Bộ luật hình sự trên thực tiễn Như phần trên đã trình bày, khái niệm chế định hiệu lực của Bộ luật hình sự theo chúng tôi được hiểu là: Hiệu lực của Bộ luật hình sự là sự biểu hiện năng lượng pháp lý của một hoặc nhiều qui phạm cụ thể được qui định cụ thể trong Bộ luật hình sự đối với tội phạm xảy ra trong thực tế trên một lãnh thổ nào đó và trong một khoảng thời gian nào đó. Qua nghiên cứu qui định về chế định hiệu lực của Bộ luật hình sự theo không gian trong Bộ luật hình sự hiện hành ở nước ta hiện nay, chế định này vẫn còn bộc lộ một số vướng mắc, bất cập trong quá trình áp dụng như sau: Một là, qui định về “hành vi phạm tội” ở khoản 1 điều 5. Hành vi phạm tội được xem là “cách xử xự (tác vi hoặc bất tác vi) trái pháp luật hình sự và nguy hiểm cho xã hội, tức là dấu hiệu bắt buộc thuộc mặt khách quan của tất cả các tội phạm và nó có ý nghĩa pháp lý hình sự”[16, tr. 336]. Về mặt hình thức thì khái niệm về “hành vi phạm tội” chưa được qui định cụ thể trong Bộ luật hình sự như thế nào. Qui định như khoản 1 điều 5 Bộ luật hình sự năm 1999 hiện nay sẽ có thể dẫn đến cách hiểu đó là Bộ luật hình sự Việt Nam được áp dụng đối với mọi hành vi phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam và mọi hành vi phạm tội theo pháp luật nước khác được thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bởi vì, chưa có quy định cụ thể về hành vi này trong Bộ luật hình sự hiện hành ở nước ta hiện nay là hành vi như thế nào và hành vi phạm tội theo quan niệm ở mỗi quốc gia lại không hoàn toàn giống nhau. Quy định như vậy cho thấy, Bộ luật hình sự Việt Nam không chỉ có hiệu lực đối với các quan hệ pháp luật hình sự được Bộ luật hình sự bảo vệ mà còn có hiệu lực đối với các quan hệ pháp luật hình sự được pháp luật hình sự của quốc gia khác bảo vệ. Việc qui định thuật ngữ này cũng không thống nhất trong các điều luật: ở phần tên điều luật thì quy định “hành vi phạm tội” trong khi đó tại các khoản trong điều luật lại quy định thêm cả thuật ngữ khác là “phạm tội”. Đây là hai thuật ngữ pháp lý có phạm trù, có nội hàm không đồng nhất nhau. Hơn nữa, qui định về cả hai thuật ngữ này chưa được qui định cụ thể trong Bộ luật hình sự mà trong Bộ luật hình sự hiện hành chỉ qui định về chế định “tội phạm” trong điều 8 của Bộ luật hình sự. Mặt khác, qui định như ở khoản 1 điều 5 Bộ luật hình sự thì đối với các tội có cấu thành hình thức thì không có khó khăn trong việc áp dụng các qui định của Bộ luật hình sự. Qui định này sẽ gây nên sự xung đột pháp luật giữa các quốc gia. Bởi vì, đại đa số các nhà khoa học- luật gia lại quan niệm địa điểm phạm tội là nơi xảy ra những hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội đó gây ra. Cũng đối với các tội có cấu thành vật chất, khi hành vi phạm tội được thực hiện ở một nơi không thuộc lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc không thể xác định cụ thể được hành vi phạm tội đó diễn ra ở đâu nhưng hậu quả của hành vi đó lại được phát sinh trong lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì qui định như khoản 1 điều 5 Bộ luật hình sự thì hành vi phạm tội đó không được áp dụng các qui định của Bộ luật hình sự Việt Nam. Trong trường hợp này, nếu quy định bởi các quy phạm pháp luật tùy nghi (nếu vẫn quy định “hành vi phạm tội” như trong khoản điều 5, điều 6, điều 7 Bộ luật hình sự năm 1999) đó là hành vi tội phạm đó sẽ được Bộ luật hình sự nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam áp dụng hoặc Luật hình sự của nước nơi phát sinh hậu quả thực tế của hành vi đó gây ra. Kỹ thuật lập pháp này cũng đã được sử dụng trong các qui định tại phần thứ bẩy Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài trong Bộ luật Dân Sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005. Tuy nhiên, giải pháp trên chỉ đúng đối với tình huống nêu ở trên còn một trường hợp khác như nếu hành vi có ý (mới chỉ biểu hiện, có ý định hoặc dự định – các cấu thành phạm tội cắt xén) phạm tội được thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam còn hậu quả xảy ra hoặc sẽ xảy ra ở nước ngoài hoặc một phần của hành vi phạm tội được thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam, phần khác được thực hiện ở nước ngoài, còn hậu quả xảy ra ở nước ngoài thì hành vi đó có được coi là được thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam (hành vi đề cập trong trường hợp này đó là những hành vi chưa đủ dấu hiệu được coi là hành vi phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam). Theo chúng tôi, để giải quyết những vấn đề bất cập trong qui định về “hành vi phạm tội” ở điều 5 Bộ luật hình sự còn phải căn cứ vào chế định về “tội phạm” và thêm vào sau điều luật “trừ những trường hợp Bộ luật hình sự này có qui định khác”. Bởi vì, chế định tội phạm là một trong hai chế định cơ bản của pháp luật hình sự đã được qui định tại điều 8 Bộ luật hình sự; khi căn cứ vào chế định tội phạm sẽ giải quyết được các vướng mắc kể trên; mặt khác để truy cứu trách nhiệm hình sự một chủ thể nhất định thì không chỉ căn cứ vào hành vi của họ mà còn căn cứ vào các yếu tố cấu thành tội phạm khác được qui định trong Bộ luật hình sự; và còn có trường hợp ngoại lệ đối với chủ thể phạm tội là người được hưởng các đặc quyền ngoại giao hoặc lãnh sự. Tuy nhiên, việc bổ sung thêm cụm từ “trừ những trường hợp Bộ luật hình sự này có qui định khác” vào quy định nào, khoản nào hay điều nào trong các quy định về chế định hiệu lực của Bộ luật hình sự lại là một vấn đề khá phức tạp. Bởi lẽ, khi quy định cụm từ này vào trong các điều luật về chế định hiệu lực Bộ luật hình sự vô hình chung nhà làm luật đã tạo ra một khoảng trống trong việc áp dụng pháp luật. Việc tạo ra khoảng trống này có tính hai mặt của nó. Đó là: Mặt thứ nhất- mặt tiêu cực: các chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật sử dụng khoảng trống, kẽ hở trong quy định pháp luật này để sử dụng vào lợi ích cá nhân, vụ lợi, áp dụng không đúng tính thần pháp luật. Trường hợp này chỉ đặt ra đối với các chủ thể áp dụng pháp luật là cá nhân thoái háo biến chất, suy đồi đạo đức. Mặt thứ hai- mặt tích cực: với việc quy định cụm từ này, phải chăng nhà làm luật hướng các chủ thể áp dụng pháp luật có thể áp dụng pháp luật một cách khoa học, không máy móc từng trường hợp sảy ra trong thực tế; thể hiện được nguyên tắc nhân đạo trong các quy định pháp luật hình sự. Mặt khác, nó cũng thể hiện được bản chất, tinh thần và mục đích đặt ra các quy phạm pháp luật đó là các quy định pháp luật đặt ra để phục vụ, điều chỉnh các quan hệ xã hội chứ không phải con người phục vụ các quy phạm pháp luật. Trong thực tế, cụm từ này cũng đã được quy định phần nào đó tại khoản 2 điều 7 Bộ luật hình sự năm 1985. Việc có quy định hay không quy định cụm từ “trừ những trường hợp Bộ luật hình sự này có qui định khác” trong Bộ luật hình sự là một vấn đề lớn và rất phức tạp. Chính vì vậy, trong giới hạn của luận văn chúng tôi không đi sâu nghiên cứu vấn đề này mà chúng tôi sẽ đề cập, nghiên cứu sâu hơn trong các công trình khoa học khác. Hai là, về địa điểm phạm tội. Trong khoa học luật hình sự, địa điểm phạm tội được hiểu là “nơi tội phạm kết thúc (về mặt pháp lý) hoặc nơi mà hoạt động phạm tội của chủ thể bị ngăn chặn” [16, tr. 219]. Các nhà làm luật nước ta đã dựa vào nguyên tắc lãnh thổ quốc gia để phân chia ra hiệu lực của Bộ luật hình sự đối với hành vi phạm tội ở trong lãnh thổ hoặc ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với từng chủ thể thực hiện hành vi phạm tội nhất định. Qui định này gặp khó khăn thực hiện khi hành vi theo qui định của pháp luật hình sự Việt Nam được coi là tội phạm được thực hiện trong phạm vi trụ sở của các cơ quan đại diện ngoại giao (đại sứ quán, lãnh sự quán).. Mặt khác, hành vi phạm tội được thực hiện trong trụ sở của cơ quan đại diện ngoại giao đó không thuộc quan hệ pháp luật hình sự Việt Nam bảo vệ. Bộ luật hình sự nước ta chưa qui định về vấn đề này. Vấn đề này cũng giống như trường hợp trụ sở của cơ quan đại diện ngoại giao của nước ta đặt ở nước ngoài. Do vậy, qui định như khoản 1 điều 5 Bộ luật hình sự hiện hành là chưa thỏa đáng, không loại trừ và đề cập đến một số tình huống xảy ra khác trên thực tế kể trên. Có thể nói do đặc thù của cơ quan đại diện ngoại giao là cơ quan nhà nước, có trụ sở trên lãnh thổ quốc gia khác để thực hiện quan hệ ngoại giao với quốc gia đó. Cơ quan này đại diện cho quốc gia về tất cả các lĩnh vực trong quan hệ với nước nhận đại diện và quan hệ với cơ quan đại diện ngoại giao của các quốc gia khác ở nước nhận đại diện. Ba là, đối với các trường hợp tội phạm được thực hiện trên tàu bay hoặc tàu biển. Bộ luật hình sự hiện hành ở nước ta hiện nay không qui định cụ thể đối với trường hợp tội phạm được thực hiện trên tàu bay hoặc tàu biển của Việt Nam ở trong nước hoặc ở nước ngoài hoặc ở vùng biển quốc tế, không phận quốc tế; tội phạm thực hiện trên tàu bay hoặc tàu biển của nước ngoài trên lãnh thổ nước ta mà xâm phạm tới quan hệ pháp luật hình sự được nước ta bảo vệ thì Bộ luật hình sự Việt Nam có hiệu lực hay không. Hay trong trường hợp, trên một tàu bay bao gồm đội bay là nhũng người không cùng quốc tịch của một quốc gia, đội tiếp viên là những người có quốc tịch khácthì khi tội phạm xảy ra đặc biệt là tội có đồng phạm, có tổ chức thì việc áp dụng pháp luật hình sự nước nào lại là một vấn đề rất phức tạp, khó khăn. Các trường hợp như trên thì pháp luật hình sự của nước có tàu bay hoặc tàu biển, pháp luật hình sự của nước mà tội phạm được thực hiện ở đó và pháp luật hình sự quốc tế có thể điều chỉnh. Do vậy, việc qui định trường hợp tội phạm nào áp dụng pháp luật hình sự nước nào hay pháp luật hình sự quốc tế là rất quan trọng. Nó giúp cho quá trình giải quyết vụ án được nhanh chóng thuận tiện, đảm bảo nguyên tắc chủ quyền quốc gia và pháp luật quốc tế. Cũng cần chú ý đó là trong Bộ luật tố tụng hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2003 cũng đã qui định riêng tại điều 172 về thẩm quyền xét xử những tội phạm xảy ra trên tàu bay hoặc tàu biển của Việt Nam đang hoạt động ngoài không phận hoặc ngoài lãnh hải của Việt Nam. Tuy nhiên, trong Bộ luật hình sự hiện hành lại không qui định riêng về vấn đề này. Bốn là, qui định tại điều 6 Bộ luật hình sự. Qui định như khoản 1 điều 6 Bộ luật hình sự có nhược điểm, hạn chế là chưa qui định cụ thể rõ ràng. Qui định như vậy sẽ dẫn tới nhiều cách hiểu khác nhau khi áp dụng. Còn tại khoản 2 điều 6, nếu người nước ngoài phạm tội ở ngoài lãnh thổ Việt Nam không được qui định trong các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia thì có bị truy cứu trách nhiệm hình sự tại Việt Nam theo Bộ luật hình sự Việt Nam hay không? Đây là một thiếu sót trong các qui định của Bộ luật hình sự Việt Nam. Giải pháp cho vấn đề này đó là qui định cụ thể, rõ ràng những trường hợp nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự tại Việt Nam theo Bộ luật hình sự Việt Nam. Năm là, việc áp dụng các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia. Đây là vấn đề chung về việc áp dụng vào thực tế các qui định trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia không chỉ trong lĩnh vực pháp luật hình sự mà còn ở các lĩnh vực pháp luật khác. Từ trước tới nay, nước ta đã ký kết, tham gia rất nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương để thực hiện chính sách ngoại giao của nước ta. Nhưng trên thực tế, chưa một văn bản quốc tế, điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia được một cơ quan có thẩm quyền chính thức “ban hành hay công bố”. Điều này chưa được đề cập trong bất kỳ một văn bản pháp luật nào của nước ta hiện nay. Mặt khác việc ban hành là một trình tự thủ tục, một sự kiện chính trị pháp lý quan trọng đặt cơ sở cho giai đoạn tồn tại tiếp theo của một văn bản pháp luật. Sáu là, Bộ luật hình sự không qui định cụ thể các trường hợp không phải chịu trách nhiệm hình sự đối với người nước ngoài phạm tội ở Việt Nam. Tuy nhiên, nếu theo qui định tại khoản 2 điều 5 Bộ luật hình sự thì nếu người nước ngoài thuộc đối tượng được hưởng các quyền miễn trừ ngoại giao hoặc quyền ưu đãi miễn trừ về lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo các Điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia hoặc theo tập quán quốc tế khi phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam thì trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết bằng con đường ngoại giao. Như vậy, người có đặc quyền ngoại giao hoặc quyền ưu đãi miễn trừ về lãnh sự có thể không bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam; có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo pháp luật của nước mà họ mang quốc tịch; có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo pháp luật Việt Nam nếu điều ước qui định hoặc thông qua con đường ngoại giao, nhà nước họ mang quốc tịch và nhà nước Việt Nam thỏa thuận sẽ truy cứu trách nhiệm hình sự theo pháp luật Việt Nam. Qui định như vậy sẽ trái với qui định về nguyên tắc bình đẳng được qui định trong khoản 2 Điều 3 Bộ luật hình sự. Trên đây là một số bất cập vướng mắc khi áp dụng các quy định pháp luật hình sự về hiệu lực của Bộ luật hình sự theo lãnh thổ. Còn đối với hiệu lực của Bộ luật hình sự theo thời gian, mặc dù các quy định hiện hành về chế định này đã được sửa đổi, bổ sung so với Bộ luật hình sự trước đây nhưng vẫn bộc lộ bất cập vướng mắc đó là: Theo quy định tại khoản 1 điều 7 thì “điều luật được áp dụng đối với một hành vi phạm tội là điều luật đang có hiệu lực thi hành tại thời điểm mà hành vi phạm tội được thực hiện”. Trước hết quy định này cũng cho thấy sự bất hợp lý khi quy định thuật ngữ “hành vi phạm tội” như chúng tôi đã phân tích ở phần trên. Ngoài ra, quy định này cũng không phù hợp đó là thời điểm hành vi phạm tội được thực hiện chỉ là một đặc điểm về mặt khách quan trong cấu thành tội phạm. Có nhiều trường hợp phạm tội kéo dài, phạm tội liên tục để xác định cấu thành phạm tội cần phải xem xét hành vi nguy hiểm cho xã hội được coi là tội phạm phải trên một khoảng thời gian nhất định. Nếu chỉ căn cứ vào thời điểm phạm tội thì không thể xác định đúng bản chất hành vi được coi là phạm tội đó được Bộ luật hình sự quy định là phạm tội nào, tại điều nào và trách nhiệm hình sự tới đâu. CHƢƠNG 3 VẤN ĐỀ HOÀN THIỆN CÁC QUY PHẠM PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM LIÊN QUAN ĐẾN CHẾ ĐỊNH HIỆU LỰC CỦA ĐẠO LUẬT HÌNH SỰ Dựa trên cơ sở nghiên cứu chế định hiệu lực của Bộ luật hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam và trong pháp luật hình sự của một số nước khác trên thế giới, ta thấy có một số qui định pháp luật hình sự về chế định này mà chúng ta có thể tham khảo, tiếp thu và vận dụng những điểm hợp lý nhằm khắc phục những bất cập, vướng mắc đặt ra, để từ đó hoàn thiện các quy phạm pháp luật liên quan đến chế định hiệu lực của Bộ luật hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam như sau: 3.1. Một số quy định cần sửa đổi trong Bộ luật hình sự hiện hành 3.1.1. Qui định về căn cứ “tội phạm” thực hiện trên lãnh thổ hoặc ở ngoải lãnh thổ Theo nhận thức chung thì một người thực hiện một hành vi được coi là tội phạm và bị truy cứu trách nhiệm hình sự không chỉ dựa vào dấu hiệu hành vi do người đó đã thực hiện mà còn dựa vào các yếu tố khác như về khách thể, chủ thể, mặt chủ quan Các yếu tố này về cơ bản đã được thể hiện trong qui định tại khoản 1 điều 8 Bộ luật hình sự. Do vậy, qui định như các điều 5 và điều 6 Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 về chế định hiệu lực của Bộ luật hình sự căn cứ vào hành vi phạm tội là chưa thỏa đáng, chưa đề cập đến một số trường hợp xẩy ra khác trong thực tế. Những thiếu sót, bất cập trong việc quy định thuật ngữ này tại các quy định pháp luật về chế định hiệu lực hình sự đã được chúng tôi phân tích ở các phần trên. Chính vì vậy, theo chúng tôi cần phải thay đổi phạm trù “hành vi phạm tội” trong các điều 5, điều 6, điều 7 của Bộ luật hình sự hiện hành bằng khái niệm “tội phạm”. 3.1.2. Trƣờng hợp không có điều ƣớc quốc tế mà nƣớc ta gia nhập hoặc tham gia Theo quy định tại khoản 2 điều 6 Bộ luật hình sự năm 1999 thì: “2. Người nước ngoài phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Bộ luật hình sự Việt Nam trong những trường hợp được quy định trong các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia”. Quy định này cho thấy điểm chưa hoàn thiện đó là: đối với trường hợp người nước ngoài mà phạm tội theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam ở ngoài lãnh thổ nước ta không được quy định trong các điều ước quốc tế mà nước ta ký kết hoặc tham gia thì sao? Họ có bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Bộ luật hình sự Việt Nam không? Trách nhiệm hình sự trong trường hợp này của họ sẽ như thế nào? Nếu người đó không chịu trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam thì họ có phải chịu trách nhiệm hình sự theo pháp luật của quốc gia mà họ mang quốc tịch hay theo pháp luật quốc tế không?. Theo chúng tôi, trường hợp người nước ngoài phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước ta mà không được quy định trong các điều ước quốc tế mà Việt nam đã ký kết hoặc tham gia thì sẽ được giải quyết theo các quy phạm pháp luật hình sự của pháp luật quốc tế. 3.1.3. Trƣờng hợp ngƣời phạm tội có đặc quyền ngoại giao hoặc quyền ƣu đãi và miễn trừ về lãnh sự Quy định trong pháp luật hình sự hiện hành đối với trường hợp người phạm tội có quyền đặc quyền ngoại giao hoặc quyền ưu đãi và miễn trừ trong khi phạm tội chưa đảm bảo nguyên tắc công bằng, không đảm bảo chủ quyền quốc gia. Việc sửa đổi quy định tại khoản 2 điều 5 Bộ luật hình sự hiện hành là rất cần thiết. Bởi lẽ, theo quy định đó thì khi người nước ngoài được hưởng các đặc quyền ngoại giao hoặc quyền ưu đãi và miễn trừ về lãnh sự phạm tội họ sẽ được giải quyết theo con đường ngoại giao. Quy định như vậy có thể dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau như: họ sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo pháp luật của quốc gia nơi họ thự hiện tội phạm hoặc nơi họ mang quốc tịch hoặc theo pháp luật quốc gia khác hoặc theo pháp luật quốc tế; và có thể họ không phải chịu trách nhiệm hình sự do pháp luật quốc gia mà họ mang quốc tịch không quy định hoặc pháp luật quốc tế không quy định họ phải chịu trách nhiệm hình sựViệc quy định như vậy không đảm bảo hành vi được coi là phạm tội do người thuộc đối tượng trên sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự. Theo chúng tôi, giải pháp trong trường hợp này đó là: khi người nước ngoài được hưởng các quyền miễn trừ ngoại giao hoặc quyền ưu đãi và miễn trừ lãnh sự phạm tội trên lãnh thổ nước ta thì trách nhiệm hình sự của họ sẽ được giả quyết theo các điều ước quốc tế mà nước ta ký kết hoặc tham gia; nếu không có các điều ước quốc tế mà nước ta ký kết hoặc gia nhập thì họ sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo các quy phạm pháp luật quốc tế. 3.1.4. Quy định cụ thể từng trƣờng hợp phạm tội ngoài lãnh thổ Quy định từng trường hợp phạm tội ở nước ngoài đối với từng loại chủ thể thực hiện tội phạm như các qui định của Bộ luật hình sự Nhật Bản cho thấy nhiều điểm hợp lý, rất cần thiết cho việc áp dụng các qui định của Bộ luật hình sự vào thực tế. Nó giúp cho việc cá thể hóa trách nhiệm hình sự, đảm bảo nguyên tắc chủ quyền quốc gia và phù hợp với pháp luật của các quốc gia khác trên thế giới. Tuy nhiên, việc quy định vấn đề này trong pháp luật hình sự Việt Nam trong giai đoạn hiện nay cũng cần phải nghiên cứu một cách kỹ lưỡng. Bởi lẽ, khi tội phạm được thực hiện ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì trách nhiệm hình sự của họ không chỉ được áp dụng theo pháp luật hình sự của nước ta mà có thể theo pháp luật hình sự của quốc gia khác hoặc theo pháp luật hình sự quốc tế; trong trường hợp nào, tội phạm nào sẽ được áp dụng pháp luật hình sự nào. 3.2. Bổ sung một số quy định mới trong Bộ luật hình sự hiện hành 3.2.1. Trường hợp hiệu lực của Bộ luật hình sự đối với bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài Xu hướng toàn cầu hóa, quốc tế hóa và quá trình nhất thể hóa hội nhập pháp luật đang diễn ra hiện nay làm cho mối quan hệ giữa các quốc gia ngày càng đa dạng, phức tạp. Do vậy, người thực hiện tội phạm là công dân của một nước

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf00050001566_032_2009916.pdf
Tài liệu liên quan