Về phương diện thực tiễn, sự cần thiết của việc hoàn thiện các quy định của pháp luật
hình sự Việt Nam về hình phạt cảnh cáo thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự vẫn còn có một số trường hợp áp
dụng hình phạt cảnh cáo không đúng pháp luật và không có căn cứ pháp lý.
Thứ hai, có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng áp dụng không đúng các quy định về
hình phạt cảnh cáo, đó là nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan, mà cụ thể là: 1)
Do chính các quy định về hình phạt cảnh cáo còn thiếu, ví dụ như ở Bộ luật hình sự năm
1999 và Luật số 37/2009/QH12 ngày 19/06/2009 sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật
hình sự năm 1999 đều không quy định về nội dung khái niệm hình phạt cảnh cáo; 2) Do tâm
lý xét xử của người Thẩm phán; 3) Do năng lực, trình độ chuyên môn của Thẩm phán còn
hạn chế.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 18 trang
18 trang | 
Chia sẻ: lanphuong92 | Lượt xem: 843 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hình phạt cảnh cáo theo luật hình sự Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CẢNH CÁO THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 
1.1. Khái niệm và các đặc điểm cơ bản của hình phạt cảnh cáo theo luật hình sự Việt 
Nam 
1.1.1. Khái niệm hình phạt và mục đích của hình phạt 
Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những quan điểm của các học giả trong và ngoài nước về 
khái niệm hình phạt và phân tích tính chất, đặc điểm, nội dung của hình phạt chúng tôi có thể 
nêu một cách khái quát định nghĩa về khái niệm hình phạt như sau: Hình phạt là biện pháp 
cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước, được quyết định trong bản án kết tội có hiệu lực pháp 
luật của Tòa án đối với chính người đã thực hiện hành vi phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn 
chế những quyền, tự do của người bị kết án hoặc đặt ra những nghĩa vụ pháp lý nhất định đối 
với họ theo quy định của pháp luật hình sự. 
1.1.2. Khái niệm hình phạt cảnh cáo 
Để đưa ra một khái niệm đầy đủ và chính xác về nội dung, ngắn gọn và nhất quán về mặt 
pháp lý, đồng thời phù hợp với thực tiễn xét xử và chính sách nhân đạo của Nhà nước, theo 
chúng tôi, khái niệm hình phạt cảnh cáo phải bao gồm các nội dung như: Thứ nhất, bản chất 
pháp lý của hình phạt cảnh cáo; thứ hai, hình thức thể hiện; thứ ba, cơ quan có thẩm quyền 
nào áp dụng; thứ tư, đối tượng bị áp dụng; và, thứ năm, căn cứ pháp lý và những điều kiện áp 
dụng. 
Do đó, trên cơ sở xem xét các quan điểm khoa học đã nêu, kết hợp với việc phân tích 
các quy định của pháp luật có liên quan, dưới góc độ khoa học luật hình sự, theo chúng 
tôi khái niệm hình phạt cảnh cáo có thể được định nghĩa như sau: Hình phạt cảnh cáo là 
một trong các biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước do Bộ luật hình sự Việt 
Nam quy định, thể hiện sự khiển trách công khai của Tòa án đối với người bị kết án phạm tội 
ít nghiêm trọng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhưng chưa đến mức miễn 
hình phạt, góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và cải tạo, 
giáo dục người phạm tội. 
1.1.3. Các đặc điểm cơ bản của hình phạt cảnh cáo 
Ngoài các đặc điểm của hình phạt nói chung, xuất phát từ khái niệm, bản chất pháp lý đã 
nêu và trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự hiện hành có liên quan đến 
hình phạt cảnh cáo, chúng tôi rút ra một số đặc điểm riêng nổi bật của hình phạt cảnh cáo 
như sau: 
Thứ nhất, hình phạt cảnh cáo cũng là một trong những hình phạt phản ánh rõ nét nhất 
nguyên tắc nhân đạo của chính sách hình sự nói chung và luật hình sự Việt Nam nói riêng. 
Thứ hai, hình phạt cảnh cáo là hình phạt chính trong hệ thống hình phạt được quy định 
trong Bộ luật hình sự nước ta. 
Thứ ba, việc áp dụng hình phạt cảnh cáo không buộc người bị kết án phải cách ly khỏi xã 
hội mà chỉ đem lại tổn thất nhất định về mặt tinh thần. 
Thứ tư, hình phạt cảnh cáo được áp dụng đối với người thực hiện tội phạm ít nghiêm 
trọng. 
Thứ năm, tội phạm mà người đó thực hiện phải có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm 
hình sự. 
Thứ sáu, tội phạm mà người đó thực hiện chưa đến mức được miễn hình phạt. 
Thứ bảy, tội mà người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có quy định hình phạt 
cảnh cáo trong Phần các tội phạm Bộ luật hình sự năm 1999 hoặc được Tòa án quyết định áp 
dụng căn cứ vào Điều 47 Bộ luật hình sự năm 1999. 
1.2. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của luật hình sự Việt Nam về hình 
phạt cảnh cáo từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến nay 
1.2.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến trước pháp điển hóa 
lần thứ nhất - Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 
Nghiên cứu các văn bản pháp luật trong giai đoạn này, chúng tôi thấy rằng các văn bản 
pháp luật hình sự đã ban hành đều là những văn bản pháp luật hình sự đơn hành. Nội dung 
của các văn bản pháp luật hình sự giai đoạn này thường chỉ đề cập đến một loại tội phạm nhất 
định, chưa có văn bản pháp luật hình sự nào quy định về hệ thống hình phạt. Cảnh cáo được 
quy định trong các văn bản pháp luật hình sự giai đoạn này vừa là biện pháp xử lý hành chính 
vừa là hình phạt trong luật hình sự. Tuy nhiên, từ khoảng những năm 1960 trở đi sự phân định 
này đã tương đối rõ ràng thông qua việc phân định rõ các văn bản pháp luật hình sự và các 
văn bản pháp luật hành chính. 
1.2.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 cho đến nay 
Bộ luật hình sự năm 1985 nước ta đã được kỳ họp thứ IX Quốc hội khóa VII thông qua 
ngày 27/06/1985, có hiệu lực từ ngày 01/01/1986. Lần đầu tiên Bộ luật hình sự đã quy định 
hình phạt cảnh cáo tại một điều riêng biệt (Điều 22 Phần chung Bộ luật hình sự). Ngoài ra, 
trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự, việc áp dụng hình phạt cảnh cáo với tính cách là 
hình phạt chính được quy định cụ thể trong các điều luật tương ứng với từng loại tội phạm. 
Đứng trước yêu cầu đổi mới mọi mặt đời sống đất nước đặt ra nhiệm vụ xem xét để sửa 
đổi, bổ sung Bộ luật hình sự năm 1985 - Bộ luật của thời kỳ tập trung quan liêu bao cấp. 
Quốc hội đã chính thức thông qua Bộ luật hình sự năm 1999. Hình phạt cảnh cáo trong Bộ 
luật hình sự năm 1999 được quy định tại Điều 29 (trước đây là Điều 22) và vẫn giữ nguyên 
quy định là hình phạt chính; bỏ việc áp dụng hình phạt cảnh cáo với tính cách là hình phạt 
chính tại một số điều luật: Điều 131, Điều 141; Điều 142; Điều 163; Điều 245; Điều 248; 
Điều 268; quy định mới việc áp dụng hình phạt cảnh cáo với tính cách là hình phạt chính tại 
một số điều luật sau: Điều 149; Điều 152; Điều 162; Điều 258; Điều 266. 
Mặc dù ngày 19/6/2009 Quốc hội khóa XII kỳ họp thứ 5 đã ban hành Luật số 
37/2009/QH12 về sửa đổi, bổ sung một số điều Bộ luật hình sự năm 1999, tuy nhiên, các quy 
định về hình phạt cảnh cáo trong Bộ luật hình sự năm 1999 vẫn không thay đổi so với quy định 
trong Bộ luật hình sự năm 1985. 
1.3. Phân biệt hình phạt cảnh cáo với một số chế định khác 
1.3.1. Phân biệt hình phạt cảnh cáo với miễn hình phạt 
* Những điểm giống nhau: (1) Cả hai đều phản ánh nguyên tắc nhân đạo của luật hình sự 
Việt Nam; (2) Chỉ được áp dụng khi có đầy đủ những điều kiện cụ thể do luật định; (3) Đối t-
ượng bị áp dụng là người bị kết án (người bị coi là có tội theo bản án kết tội có hiệu lực pháp 
luật của Tòa án) và; (4) Thẩm quyền áp dụng chúng chỉ và do duy nhất một cơ quan là Tòa án. 
* Những điểm khác nhau: 
Bảng 1.1: Những điểm khác nhau giữa hình phạt cảnh cáo và miễn hình phạt 
Tiêu chí Hình phạt cảnh cáo Miễn hình phạt 
Nội dung 
Người bị kết án bị Tòa án 
quyết định hình phạt. 
Người bị kết án không bị 
áp dụng bất kỳ hình phạt 
nào. 
Điều kiện 
áp dụng 
Hình phạt cảnh cáo áp 
dụng đối với người phạm 
tội ít nghiêm trọng và có 
nhiều tình tiết giảm nhẹ 
trách nhiệm hình sự, 
nhưng chưa đến mức 
miễn hình phạt. 
Được áp dụng đối với 
trường hợp phạm tội có 
nhiều tình tiết giảm nhẹ 
quy định tại khoản 1 
Điều 46 Bộ luật hình sự 
năm 1999, đáng được 
khoan hồng đặc biệt, 
nhưng chưa đến mức 
được miễn trách nhiệm 
hình sự. 
Việc quy định 
trong Bộ luật 
hình sự 
Hình phạt cảnh cáo được 
quy định trong Phần 
chung và quy định tại các 
điều luật cụ thể trong 
Phần các tội phạm của Bộ 
luật hình sự. 
Không được quy định 
tại các điều luật cụ thể 
trong Bộ luật hình sự 
ngoài Điều 54 và khoản 
3 Điều 314 Bộ luật hình 
sự. 
Về mức độ 
nguy hiểm 
của hành vi 
phạm tội và 
nhân thân 
người phạm 
tội 
Mức độ nguy hiểm cho xã 
hội của hành vi phạm tội 
cao hơn và nhân thân 
người phạm tội xấu hơn 
so với người phạm tội 
được miễn hình phạt. 
Mức độ nguy hiểm cho 
xã hội của hành vi 
phạm tội thấp hơn và 
nhân thân người phạm 
tội tốt hơn so với người 
phạm tội bị áp dụng 
hình phạt cảnh cáo. 
Hậu quả 
pháp lý 
Phải chịu án tích và mang 
án tích trong thời hạn một 
năm (điểm a khoản 2 
Điều 64 Bộ luật hình sự 
năm 1999). 
Người bị kết án đương 
nhiên được xóa án tích 
theo khoản 1 Điều 64 Bộ 
luật hình sự năm 1999. 
Nguồn: Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). 
1.3.2. Phân biệt hình phạt cảnh cáo với miễn trách nhiệm hình sự 
* Những điểm giống nhau: (1) Cả hai đều thể hiện rõ nguyên tắc nhân đạo trong luật hình 
sự Việt Nam nói riêng; (2) Chỉ có thể áp dụng đối với người nào bị coi là có lỗi trong việc 
thực hiện chính tội phạm đó; (3) Chỉ có thể áp dụng khi có đầy đủ những điều kiện cụ thể 
tương ứng trong từng trường hợp cụ thể do luật định; (4) Và, với việc áp dụng miễn trách 
nhiệm hình sự hoặc hình phạt cảnh cáo, Nhà nước không buộc cách ly khỏi xã hội những 
người đã phạm tội và như vậy, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho họ sớm trở lại cuộc sống bình 
thường trong cộng đồng xã hội, phấn đấu làm người lương thiện và có ích cho gia đình và xã 
hội. 
* Tuy nhiên, bên cạnh các điểm giống nhau đã nêu trên, giữa chúng còn có một số điểm 
khác nhau như sau: 
Bảng 1.2: Những điểm khác nhau giữa hình phạt cảnh cáo 
và miễn trách nhiệm hình sự 
Tiêu chí 
Hình phạt cảnh cáo Miễn trách nhiệm hình 
sự 
Nội dung 
Người bị kết án bị 
Tòa án quyết định 
hình phạt. 
Người được miễn trách 
nhiệm hình sự không bị áp 
dụng hình phạt. 
Về mức độ 
nguy hiểm cho 
xã hội của 
hành vi phạm 
tội và nhân 
thân người 
phạm tội 
Hành vi phạm tội và 
nhân thân người được 
áp dụng hình phạt cảnh 
cáo nguy hiểm hơn so 
với hành vi phạm tội 
và nhân thân của 
người được miễn trách 
nhiệm hình sự. 
Hành vi phạm tội và nhân 
thân người được miễn 
trách nhiệm hình sự ít 
nguy hiểm hơn so với 
hành vi phạm tội và nhân 
thân của người được áp 
dụng hình phạt cảnh cáo. 
Về thẩm quyền 
 áp dụng 
Chỉ có Tòa án. 
Ngoài Tòa án còn có thể do 
cơ quan Điều tra với sự phê 
chuẩn của Viện kiểm sát 
hoặc Viện kiểm sát áp dụng 
trước khi xét xử tùy thuộc 
vào giai đoạn tố tụng hình 
sự cụ thể tương ứng. 
Về chế tài 
áp dụng 
Người được áp dụng 
hình phạt cảnh cáo 
vẫn có thể bị áp dụng 
một hoặc một số hình 
phạt bổ sung theo quy 
định tại Điều 28 Bộ 
luật hình sự năm 1999. 
Người được miễn trách 
nhiệm hình sự đương nhiên 
không phải chịu các hậu quả 
pháp lý hình sự bất lợi của 
việc phạm tội do mình thực 
hiện, nhưng thực tiễn xét xử 
cho thấy, người họ vẫn có thể 
phải chịu một hoặc nhiều 
biện pháp tác động về mặt 
pháp lý thuộc các ngành 
luật tương ứng khác. 
Về hậu quả 
pháp lý 
Phải chịu án tích. Không phải chịu án tích. 
Nguồn: Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). 
1.3.3. Phân biệt hình phạt cảnh cáo với miễn chấp hành hình phạt 
* Những điểm giống nhau: (1) Cả hai đều thể hiện tính nhân đạo của luật hình sự Việt 
Nam; (2) Chỉ được áp dụng khi có đầy đủ căn cứ pháp lý và những điều kiện do luật định và; 
(3) Đối tượng bị áp dụng là người bị kết án (người bị coi là có tội theo bản án kết tội có hiệu 
lực pháp luật của Tòa án; (4) Người bị kết án bị mang án tích. 
* Ngoài ra, giữa chúng cũng có một số điểm khác nhau như sau: 
Bảng 1.3: Những điểm khác nhau giữa hình phạt cảnh cáo 
và miễn chấp hành hình phạt 
Tiêu chí 
Hình phạt cảnh cáo Miễn chấp hành hình 
phạt 
Nội dung 
Khi xét xử thì người bị 
kết án bị quyết định áp 
dụng hình phạt cảnh cáo 
với tính cách là hình 
phạt chính và một hoặc 
một số hình phạt bổ sung 
khác trong bản án kết 
tội có hiệu lực pháp luật 
của Tòa án. 
Khi xét xử người bị kết án 
đã bị Tòa án quyết định một 
hình phạt nào đó đối với họ 
trong bản án kết tội đã nêu. 
Về thẩm 
quyền 
áp dụng 
Hình phạt cảnh cáo do 
một cơ quan duy nhất 
có thẩm quyền áp dụng 
là Tòa án. 
Hình phạt cảnh cáo và miễn 
chấp hành hình phạt đều do 
một cơ quan duy nhất có 
thẩm quyền áp dụng là Tòa 
án, nhưng khác với hình 
phạt cảnh cáo, Bộ luật hình 
sự năm 1999 quy định có 
một số trường hợp phải 
theo đề nghị của Viện 
trưởng Viện kiểm sát 
(khoản 1, 3-4 Điều 57 Bộ 
luật hình sự năm 1999) 
hoặc theo đề nghị của chính 
quyền địa phương nơi 
người đó chấp hành hình 
phạt (khoản 5 Điều 57 Bộ 
luật hình sự năm 1999), thì 
Tòa án mới có cơ sở để 
quyết định miễn chấp hành 
hình phạt đối với người bị 
kết án. 
Nguồn: Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). 
1.3.4. Phân biệt hình phạt cảnh cáo trong luật hình sự với biện pháp cảnh cáo của 
luật hành chính 
Cảnh cáo với tính cách là hình phạt trong luật hình sự khác với cảnh cáo được áp dụng 
với tính cách là biện pháp xử lý hành chính ("biện pháp cảnh cáo") như sau: 
Bảng 1.4: Những điểm khác nhau giữa hình phạt cảnh cáo trong luật hình sự với biện pháp 
cảnh cáo trong luật hành chính 
Tiêu chí Hình phạt cảnh cáo Biện pháp cảnh cáo 
Chủ thể áp 
dụng 
Chỉ do Tòa án áp 
dụng đối với bị cáo. 
Được áp dụng với tính cách là 
biện pháp xử lý hành chính do 
cơ quan, người có thẩm quyền 
xử phạt hành chính khác nhau áp 
dụng theo quy định của Pháp 
lệnh xử lý vi phạm hành chính 
2002 và Pháp lệnh ngày 02/4/2008 
sửa đổi, bổ sung một số điều của 
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành 
chính. 
Hình thức 
thể hiện 
Hình phạt cảnh cáo 
được quyết định 
trong bản án có hiệu 
lực pháp luật của Tòa 
án. 
Biện pháp cảnh cáo được 
quyết định bằng văn bản của 
cơ quan, người có thẩm quyền 
xử phạt hành chính ban hành. 
Đối tượng 
áp dụng 
Được áp dụng với cá 
nhân người phạm tội. 
Được áp dụng đối với cá nhân, 
tổ chức vi phạm hành chính 
(Điều 12 Pháp lệnh ngày 
02/04/2008 sửa đổi, bổ sung 
một số điều của Pháp lệnh xử 
lý vi phạm hành chính). 
Về điều 
kiện áp 
dụng 
Hình phạt cảnh cáo 
được áp dụng đối với 
người phạm tội ít 
nghiêm trọng, có 
nhiều tình tiết giảm 
nhẹ và chưa đến mức 
miễn hình phạt. 
Biện pháp cảnh cáo được áp 
dụng đối với cá nhân, tổ chức 
vi phạm hành chính nhỏ, lần 
đầu, có tình tiết giảm nhẹ hoặc 
đối với mọi hành vi vi phạm 
hành chính do người chưa 
thành niên từ đủ 14 tuổi đến 
dưới 16 tuổi thực hiện. 
Về hậu quả 
pháp lý 
Phải mang án tích 
trong thời hạn một 
năm theo quy định 
tại Điều 64 Bộ luật 
hình sự năm 1999. 
Người vi phạm không phải 
mang án tích. 
Nguồn: Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). 
Chương 2 
CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999 VỀ HÌNH PHẠT 
CẢNH CÁO VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 
2.1. Các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 về hình phạt cảnh cáo 
2.1.1. Trong Phần chung Bộ luật hình sự 
Hình phạt cảnh cáo được quy định trong Phần chung Bộ luật hình sự năm 1999 tại các 
điều luật: 28, 29, 64, 71. Phân tích các quy định của Phần chung Bộ luật hình sự năm 1999 
cho thấy, quy định của Phần chung Bộ luật hình sự năm 1999 về hình phạt cảnh cáo cho thấy 
còn thiếu định nghĩa pháp lý của khái niệm hình phạt cảnh cáo. Điều 29 Bộ luật hình sự năm 
1999 chỉ quy định các điều kiện áp dụng hình phạt cảnh cáo, không hề có sự xác định nội 
dung hình phạt cảnh cáo là gì. Việc xác định nội dung của hình phạt thông qua quy định của 
pháp luật có ý nghĩa rất quan trọng, nó làm cho mọi người thấy được các dấu hiệu bắt buộc 
của hình phạt. 
Ngoài ra, xuất phát từ việc đánh giá khả năng tác động của hình phạt cảnh cáo đối với người 
phạm tội, chúng tôi cho rằng cần tăng cường tính nghiêm khắc của hình phạt này bằng cách bổ 
sung quy định của Bộ luật hình sự theo hướng bắt buộc các Tòa án sau khi tuyên án phải thông 
báo cho cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội nơi người bị kết án làm việc hoặc cư trú biết. Bởi vì, 
một mặt điều này nâng cao trách nhiệm cá nhân người bị kết án; mặt khác để các cơ quan, tổ 
chức đó biết và có trách nhiệm theo dõi, giám sát và giáo dục người bị kết án. 
2.1.2 Trong Phần các tội phạm Bộ luật hình sự 
Hình phạt cảnh cáo được quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999 chủ yếu tập trung vào 
một số nhóm tội sau: Nhóm các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm danh dự của 
con người; Nhóm các tội xâm phạm những quyền tự do, dân chủ của công dân; Nhóm các tội 
xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình; Nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính. 
Trong số các cấu thành tội phạm ít nghiêm trọng, số lượng cấu thành tội phạm trong Bộ 
luật hình sự hiện hành quy định hình phạt cảnh cáo không nhiều (37/165 cấu thành). Tuy 
nhiên, căn cứ vào Điều 47 Bộ luật hình sự năm 1999 Tòa án vẫn có thể tuyên phạt cảnh cáo 
đối với những người phạm các tội ít nghiêm trọng mà chế tài không quy định hình phạt này. 
2.2. Thực tiễn áp dụng hình phạt cảnh cáo 
2.2.1. Tình hình áp dụng hình phạt cảnh cáo 
Kết quả nghiên cứu số liệu thống kê của TANDTC cho thấy, mặc dù những năm gần đây 
TAND các cấp đã chú trọng hơn đến việc áp dụng hình phạt không phải là phạt tù trong những 
trường hợp được phép cân nhắc, lựa chọn áp dụng. Tuy nhiên, các Tòa án mới chỉ dừng lại ở việc 
lựa chọn án treo và cải tạo không giam giữ, còn hình phạt cảnh cáo rất ít khi được Tòa án dụng. 
Hình phạt cảnh cáo áp dụng chỉ chủ yếu đối với một số nhóm tội phạm, như nhóm tội xâm 
phạm sở hữu; nhóm tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng; nhóm các tội xâm 
phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm danh dự của con người. Đối với các nhóm tội phạm 
khác, như nhóm tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, hình phạt cảnh cáo được 
áp dụng rất ít. 
2.2.2. Một số hạn chế của việc áp dụng hình phạt cảnh cáo và các nguyên nhân cơ 
bản 
- Một số hạn chế của việc áp dụng hình phạt cảnh cáo 
Thứ nhất, hình phạt cảnh cáo được áp dụng chiếm tỷ lệ thấp. 
Thứ hai, việc áp dụng hình phạt cảnh cáo còn sai sót, chưa chính xác. 
Thứ ba, một số Tòa án không xem xét đầy đủ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội 
của hành vi phạm tội, dẫn đến tình trạng đáng lẽ người bị kết án không được áp dụng hình 
phạt cảnh cáo mà Tòa án vẫn áp dụng. 
Thứ tư, còn nhầm lẫn giữa hình phạt cảnh cáo và miễn hình phạt. 
Thứ năm, còn nhầm lẫn giữa hình phạt cảnh cáo và miễn trách nhiệm hình sự. 
Thứ sáu, việc thi hành hình phạt cảnh cáo còn nhiều hạn chế. Mặc dù không thuộc phạm 
vi nghiên cứu của đề tài này, xong qua nghiên cứu thực tiễn thi hành hình phạt này cho thấy: 
Đối với người bị áp dụng hình phạt cảnh cáo thì sau khi tòa tuyên án công khai cũng có nghĩa 
là họ đã chấp hành xong hình phạt cảnh cáo, hay nói cách khác là hình phạt cảnh cáo không 
có tổ chức thi hành. Do đó, các tổ chức xã hội, đơn vị công tác nơi người đó làm việc, hay ủy 
ban nhân dân xã, phường nơi người đó sinh sống khó có thể nắm được tình trạng của người bị 
kết án và dẫn đến hệ quả là không thể theo dõi, giúp đỡ, cải tạo người bị kết án trở thành 
công dân có ích cho xã hội. Đây chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến tâm lý ngại 
áp dụng, sợ bị để ý; sợ bị coi là tiêu cực, nhân nhượng cho bị cáo của Thẩm phán và Hội 
thẩm nhân dân về tác dụng của hình phạt cảnh cáo khi quyết định áp dụng hình phạt cảnh cáo 
trong từng vụ việc cụ thể. 
- Nguyên nhân chủ yếu của các hạn chế trong việc áp dụng hình phạt cảnh cáo thời gian 
qua 
Thứ nhất, nguyên nhân do các quy định của luật thực định 
Thứ hai, nguyên nhân từ công tác giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật; thanh tra, 
kiểm tra hoạt động áp dụng hình phạt nói chung và hình phạt cảnh cáo nói riêng của Tòa án 
các cấp. 
Thứ ba, nguyên nhân từ chủ thể áp dụng pháp luật hình sự 
Chương 3 
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP 
NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH 
CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ HÌNH PHẠT CẢNH CÁO 
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về hình 
phạt cảnh cáo 
3.1.1. Về phương diện thực tiễn 
Về phương diện thực tiễn, sự cần thiết của việc hoàn thiện các quy định của pháp luật 
hình sự Việt Nam về hình phạt cảnh cáo thể hiện ở chỗ: 
Thứ nhất, trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự vẫn còn có một số trường hợp áp 
dụng hình phạt cảnh cáo không đúng pháp luật và không có căn cứ pháp lý. 
Thứ hai, có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng áp dụng không đúng các quy định về 
hình phạt cảnh cáo, đó là nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan, mà cụ thể là: 1) 
Do chính các quy định về hình phạt cảnh cáo còn thiếu, ví dụ như ở Bộ luật hình sự năm 
1999 và Luật số 37/2009/QH12 ngày 19/06/2009 sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật 
hình sự năm 1999 đều không quy định về nội dung khái niệm hình phạt cảnh cáo; 2) Do tâm 
lý xét xử của người Thẩm phán; 3) Do năng lực, trình độ chuyên môn của Thẩm phán còn 
hạn chế... 
3.1.2. Về phương diện lập pháp 
Việc hoàn thiện các quy định về hình phạt cảnh cáo trong pháp luật hình sự góp phần 
giúp cho nhà làm luật nhận thấy những "kẽ hở", "lỗ hổng" của hình phạt này: 
Một là, trong Bộ luật hình sự năm 1985 cũng như Bộ luật hình sự năm 1999 đều chưa đưa ra 
định nghĩa pháp lý của khái niệm hình phạt cảnh cáo; điều kiện áp dụng hình phạt cảnh cáo 
chưa được quy định chặt chẽ và hợp lý. 
Hai là, nhà làm luật nước ta cần bổ sung quy định của Bộ luật hình sự với nội dung tăng 
tính cưỡng chế của hình phạt cảnh cáo và cần có văn bản hướng dẫn cụ thể về việc áp dụng 
hình phạt cảnh cáo. 
Ba là, giữa hình phạt cảnh cáo và chế định miễn hình phạt, miễn chấp hành hình phạt, 
miễn trách nhiệm hình sự còn chưa có sự phân biệt rõ ràng, cụ thể và tách biệt giữa các chế 
định này. 
Bốn là, các nhà làm luật nước ta cần bổ sung quy định của Bộ luật hình sự với nội dung 
mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt cảnh cáo đối với người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến 
dưới 16 tuổi phạm tội. 
Năm là, cần loại bỏ việc áp dụng hình phạt cảnh cáo đối với một số tội trong Phần các tội 
phạm Bộ luật hình sự có tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đang diễn biến phức tạp mà 
việc áp dụng hình phạt cảnh cáo chưa đủ sức ngăn chặn và giáo dục người bị kết án. 
Và sáu là, trong xu thế hội nhập khu vực và thế giới cũng đòi hỏi pháp luật hình sự của 
nước ta nói chung, hình phạt cảnh cáo nói riêng cũng cần phù hợp và có sự tham khảo, chọn 
lọc các quy định của pháp luật hình sự các nước (trong đó có những quy định về hình phạt 
cảnh cáo), cũng như góp phần nhân đạo hóa hơn nữa chính sách hình sự của Nhà nước nói 
chung và của pháp luật hình sự Việt Nam nói riêng. 
3.1.3. Về phương diện lý luận 
Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về hình phạt cảnh cáo có ý 
nghĩa về mặt lý luận thể hiện ở chỗ: 
Thứ nhất, nó góp phần giúp cho cán bộ nghiên cứu khoa học-giảng dạy, nghiên cứu sinh, 
học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành tư pháp hình sự có nhận thức đúng đắn và 
thống nhất về hình phạt cảnh cáo, về căn cứ và những điều kiện áp dụng của từng trường hợp 
tương ứng để phục vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy và học tập. 
Thứ hai, nó còn giúp cho những người có thẩm quyền trong cơ quan Tòa án nhận thức 
đầy đủ, đúng đắn và chính xác để từ đó ra các quyết định áp dụng hay không áp dụng hình 
phạt cảnh cáo đối với người phạm tội có căn cứ và đúng pháp luật, góp phần nâng cao hiệu 
quả công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm, qua đó bảo vệ các quyền và lợi ích hợp 
pháp không chỉ của xã hội, của công dân, mà còn cả của bị cáo. 
Thứ ba, hoàn thiện hình phạt cảnh cáo dưới góc độ này sẽ góp phần làm phong phú thêm 
kho tàng lý luận luật hình sự Việt Nam, cũng như là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích bổ 
sung vào khoa học luật hình sự nước ta về vấn đề hình phạt cảnh cáo. 
3.2. Nội dung sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về hình 
phạt cảnh cáo 
Dưới góc độ nhận thức -khoa học, chúng tôi xin đưa ra mô hình lý luận của các quy 
phạm về hình phạt cảnh cáo như sau: 
Điều... Hình phạt cảnh cáo (mới) 
1. Cảnh cáo là sự khiển trách công khai của Nhà nước đối với người bị kết án về tội 
phạm mà người đó đã thực hiện khi có đầy đủ những điều kiện theo quy định tại Điều 29 của 
Bộ luật này. 
2. Sự khiển trách công khai của Tòa án đối với người bị kết án được thực hiện tại phiên xét 
xử và được thông báo tới nơi họ sinh sống hoặc thông qua phương tiện truyền thông hoặc 
bằng hình thức khác do Tòa án quyết định. 
Điều 29. Những điều kiện áp dụng hình phạt cảnh cáo 
Cảnh cáo được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ 
trách nhiệm hình sự, nhưng chưa đến mức miễn hình phạt. 
Điều... Việc chuyển giao cho gia đình, cơ quan hoặc tổ chức giám sát, giáo dục người 
bị kết án 
Trong trường hợp cần thiết, sau khi khiển trách công khai người bị kết án, Tòa án có thể 
quyết định chuyển giao cho gia đình, cơ quan hoặc tổ chức có thẩm quyền tương ứng giám 
sát, giáo dục người đó để giúp họ trở thành người có ích cho xã hội. 
Điều 71. Các hình phạt được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội 
Các hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội là những biện pháp 
cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước do Tòa án áp dụng nhưng có mức độ nhẹ hơn so 
với người đã thành niên, để tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người chưa thành niên 
phạm tội, đồng thời với mục đích giáo dục, cải tạo nhằm tạo điều kiện tốt nhất để họ sửa 
chữa sai lầm, phấn đấu trở thành người có ích cho gia đình và xã hội. 
Người chưa thành niên phạm tội chỉ bị áp dụng một trong các hình phạt sau đây đối với 
mỗi tội phạm: 
1. Cảnh cáo; 
2. Phạt tiền; 
3. Cải tạo không giam giữ; 
4. Tù có thời hạn. 
Điều 71a. Cảnh cáo 
1. Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 00050000431_736_2009899.pdf 00050000431_736_2009899.pdf