Về phương diện thực tiễn, sự cần thiết của việc hoàn thiện các quy định của pháp luật
hình sự Việt Nam về hình phạt cảnh cáo thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự vẫn còn có một số trường hợp áp
dụng hình phạt cảnh cáo không đúng pháp luật và không có căn cứ pháp lý.
Thứ hai, có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng áp dụng không đúng các quy định về
hình phạt cảnh cáo, đó là nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan, mà cụ thể là: 1)
Do chính các quy định về hình phạt cảnh cáo còn thiếu, ví dụ như ở Bộ luật hình sự năm
1999 và Luật số 37/2009/QH12 ngày 19/06/2009 sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật
hình sự năm 1999 đều không quy định về nội dung khái niệm hình phạt cảnh cáo; 2) Do tâm
lý xét xử của người Thẩm phán; 3) Do năng lực, trình độ chuyên môn của Thẩm phán còn
hạn chế.
18 trang |
Chia sẻ: lanphuong92 | Lượt xem: 657 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hình phạt cảnh cáo theo luật hình sự Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CẢNH CÁO THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm và các đặc điểm cơ bản của hình phạt cảnh cáo theo luật hình sự Việt
Nam
1.1.1. Khái niệm hình phạt và mục đích của hình phạt
Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những quan điểm của các học giả trong và ngoài nước về
khái niệm hình phạt và phân tích tính chất, đặc điểm, nội dung của hình phạt chúng tôi có thể
nêu một cách khái quát định nghĩa về khái niệm hình phạt như sau: Hình phạt là biện pháp
cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước, được quyết định trong bản án kết tội có hiệu lực pháp
luật của Tòa án đối với chính người đã thực hiện hành vi phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn
chế những quyền, tự do của người bị kết án hoặc đặt ra những nghĩa vụ pháp lý nhất định đối
với họ theo quy định của pháp luật hình sự.
1.1.2. Khái niệm hình phạt cảnh cáo
Để đưa ra một khái niệm đầy đủ và chính xác về nội dung, ngắn gọn và nhất quán về mặt
pháp lý, đồng thời phù hợp với thực tiễn xét xử và chính sách nhân đạo của Nhà nước, theo
chúng tôi, khái niệm hình phạt cảnh cáo phải bao gồm các nội dung như: Thứ nhất, bản chất
pháp lý của hình phạt cảnh cáo; thứ hai, hình thức thể hiện; thứ ba, cơ quan có thẩm quyền
nào áp dụng; thứ tư, đối tượng bị áp dụng; và, thứ năm, căn cứ pháp lý và những điều kiện áp
dụng.
Do đó, trên cơ sở xem xét các quan điểm khoa học đã nêu, kết hợp với việc phân tích
các quy định của pháp luật có liên quan, dưới góc độ khoa học luật hình sự, theo chúng
tôi khái niệm hình phạt cảnh cáo có thể được định nghĩa như sau: Hình phạt cảnh cáo là
một trong các biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước do Bộ luật hình sự Việt
Nam quy định, thể hiện sự khiển trách công khai của Tòa án đối với người bị kết án phạm tội
ít nghiêm trọng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhưng chưa đến mức miễn
hình phạt, góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và cải tạo,
giáo dục người phạm tội.
1.1.3. Các đặc điểm cơ bản của hình phạt cảnh cáo
Ngoài các đặc điểm của hình phạt nói chung, xuất phát từ khái niệm, bản chất pháp lý đã
nêu và trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự hiện hành có liên quan đến
hình phạt cảnh cáo, chúng tôi rút ra một số đặc điểm riêng nổi bật của hình phạt cảnh cáo
như sau:
Thứ nhất, hình phạt cảnh cáo cũng là một trong những hình phạt phản ánh rõ nét nhất
nguyên tắc nhân đạo của chính sách hình sự nói chung và luật hình sự Việt Nam nói riêng.
Thứ hai, hình phạt cảnh cáo là hình phạt chính trong hệ thống hình phạt được quy định
trong Bộ luật hình sự nước ta.
Thứ ba, việc áp dụng hình phạt cảnh cáo không buộc người bị kết án phải cách ly khỏi xã
hội mà chỉ đem lại tổn thất nhất định về mặt tinh thần.
Thứ tư, hình phạt cảnh cáo được áp dụng đối với người thực hiện tội phạm ít nghiêm
trọng.
Thứ năm, tội phạm mà người đó thực hiện phải có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự.
Thứ sáu, tội phạm mà người đó thực hiện chưa đến mức được miễn hình phạt.
Thứ bảy, tội mà người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có quy định hình phạt
cảnh cáo trong Phần các tội phạm Bộ luật hình sự năm 1999 hoặc được Tòa án quyết định áp
dụng căn cứ vào Điều 47 Bộ luật hình sự năm 1999.
1.2. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của luật hình sự Việt Nam về hình
phạt cảnh cáo từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến nay
1.2.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến trước pháp điển hóa
lần thứ nhất - Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985
Nghiên cứu các văn bản pháp luật trong giai đoạn này, chúng tôi thấy rằng các văn bản
pháp luật hình sự đã ban hành đều là những văn bản pháp luật hình sự đơn hành. Nội dung
của các văn bản pháp luật hình sự giai đoạn này thường chỉ đề cập đến một loại tội phạm nhất
định, chưa có văn bản pháp luật hình sự nào quy định về hệ thống hình phạt. Cảnh cáo được
quy định trong các văn bản pháp luật hình sự giai đoạn này vừa là biện pháp xử lý hành chính
vừa là hình phạt trong luật hình sự. Tuy nhiên, từ khoảng những năm 1960 trở đi sự phân định
này đã tương đối rõ ràng thông qua việc phân định rõ các văn bản pháp luật hình sự và các
văn bản pháp luật hành chính.
1.2.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 cho đến nay
Bộ luật hình sự năm 1985 nước ta đã được kỳ họp thứ IX Quốc hội khóa VII thông qua
ngày 27/06/1985, có hiệu lực từ ngày 01/01/1986. Lần đầu tiên Bộ luật hình sự đã quy định
hình phạt cảnh cáo tại một điều riêng biệt (Điều 22 Phần chung Bộ luật hình sự). Ngoài ra,
trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự, việc áp dụng hình phạt cảnh cáo với tính cách là
hình phạt chính được quy định cụ thể trong các điều luật tương ứng với từng loại tội phạm.
Đứng trước yêu cầu đổi mới mọi mặt đời sống đất nước đặt ra nhiệm vụ xem xét để sửa
đổi, bổ sung Bộ luật hình sự năm 1985 - Bộ luật của thời kỳ tập trung quan liêu bao cấp.
Quốc hội đã chính thức thông qua Bộ luật hình sự năm 1999. Hình phạt cảnh cáo trong Bộ
luật hình sự năm 1999 được quy định tại Điều 29 (trước đây là Điều 22) và vẫn giữ nguyên
quy định là hình phạt chính; bỏ việc áp dụng hình phạt cảnh cáo với tính cách là hình phạt
chính tại một số điều luật: Điều 131, Điều 141; Điều 142; Điều 163; Điều 245; Điều 248;
Điều 268; quy định mới việc áp dụng hình phạt cảnh cáo với tính cách là hình phạt chính tại
một số điều luật sau: Điều 149; Điều 152; Điều 162; Điều 258; Điều 266.
Mặc dù ngày 19/6/2009 Quốc hội khóa XII kỳ họp thứ 5 đã ban hành Luật số
37/2009/QH12 về sửa đổi, bổ sung một số điều Bộ luật hình sự năm 1999, tuy nhiên, các quy
định về hình phạt cảnh cáo trong Bộ luật hình sự năm 1999 vẫn không thay đổi so với quy định
trong Bộ luật hình sự năm 1985.
1.3. Phân biệt hình phạt cảnh cáo với một số chế định khác
1.3.1. Phân biệt hình phạt cảnh cáo với miễn hình phạt
* Những điểm giống nhau: (1) Cả hai đều phản ánh nguyên tắc nhân đạo của luật hình sự
Việt Nam; (2) Chỉ được áp dụng khi có đầy đủ những điều kiện cụ thể do luật định; (3) Đối t-
ượng bị áp dụng là người bị kết án (người bị coi là có tội theo bản án kết tội có hiệu lực pháp
luật của Tòa án) và; (4) Thẩm quyền áp dụng chúng chỉ và do duy nhất một cơ quan là Tòa án.
* Những điểm khác nhau:
Bảng 1.1: Những điểm khác nhau giữa hình phạt cảnh cáo và miễn hình phạt
Tiêu chí Hình phạt cảnh cáo Miễn hình phạt
Nội dung
Người bị kết án bị Tòa án
quyết định hình phạt.
Người bị kết án không bị
áp dụng bất kỳ hình phạt
nào.
Điều kiện
áp dụng
Hình phạt cảnh cáo áp
dụng đối với người phạm
tội ít nghiêm trọng và có
nhiều tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự,
nhưng chưa đến mức
miễn hình phạt.
Được áp dụng đối với
trường hợp phạm tội có
nhiều tình tiết giảm nhẹ
quy định tại khoản 1
Điều 46 Bộ luật hình sự
năm 1999, đáng được
khoan hồng đặc biệt,
nhưng chưa đến mức
được miễn trách nhiệm
hình sự.
Việc quy định
trong Bộ luật
hình sự
Hình phạt cảnh cáo được
quy định trong Phần
chung và quy định tại các
điều luật cụ thể trong
Phần các tội phạm của Bộ
luật hình sự.
Không được quy định
tại các điều luật cụ thể
trong Bộ luật hình sự
ngoài Điều 54 và khoản
3 Điều 314 Bộ luật hình
sự.
Về mức độ
nguy hiểm
của hành vi
phạm tội và
nhân thân
người phạm
tội
Mức độ nguy hiểm cho xã
hội của hành vi phạm tội
cao hơn và nhân thân
người phạm tội xấu hơn
so với người phạm tội
được miễn hình phạt.
Mức độ nguy hiểm cho
xã hội của hành vi
phạm tội thấp hơn và
nhân thân người phạm
tội tốt hơn so với người
phạm tội bị áp dụng
hình phạt cảnh cáo.
Hậu quả
pháp lý
Phải chịu án tích và mang
án tích trong thời hạn một
năm (điểm a khoản 2
Điều 64 Bộ luật hình sự
năm 1999).
Người bị kết án đương
nhiên được xóa án tích
theo khoản 1 Điều 64 Bộ
luật hình sự năm 1999.
Nguồn: Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).
1.3.2. Phân biệt hình phạt cảnh cáo với miễn trách nhiệm hình sự
* Những điểm giống nhau: (1) Cả hai đều thể hiện rõ nguyên tắc nhân đạo trong luật hình
sự Việt Nam nói riêng; (2) Chỉ có thể áp dụng đối với người nào bị coi là có lỗi trong việc
thực hiện chính tội phạm đó; (3) Chỉ có thể áp dụng khi có đầy đủ những điều kiện cụ thể
tương ứng trong từng trường hợp cụ thể do luật định; (4) Và, với việc áp dụng miễn trách
nhiệm hình sự hoặc hình phạt cảnh cáo, Nhà nước không buộc cách ly khỏi xã hội những
người đã phạm tội và như vậy, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho họ sớm trở lại cuộc sống bình
thường trong cộng đồng xã hội, phấn đấu làm người lương thiện và có ích cho gia đình và xã
hội.
* Tuy nhiên, bên cạnh các điểm giống nhau đã nêu trên, giữa chúng còn có một số điểm
khác nhau như sau:
Bảng 1.2: Những điểm khác nhau giữa hình phạt cảnh cáo
và miễn trách nhiệm hình sự
Tiêu chí
Hình phạt cảnh cáo Miễn trách nhiệm hình
sự
Nội dung
Người bị kết án bị
Tòa án quyết định
hình phạt.
Người được miễn trách
nhiệm hình sự không bị áp
dụng hình phạt.
Về mức độ
nguy hiểm cho
xã hội của
hành vi phạm
tội và nhân
thân người
phạm tội
Hành vi phạm tội và
nhân thân người được
áp dụng hình phạt cảnh
cáo nguy hiểm hơn so
với hành vi phạm tội
và nhân thân của
người được miễn trách
nhiệm hình sự.
Hành vi phạm tội và nhân
thân người được miễn
trách nhiệm hình sự ít
nguy hiểm hơn so với
hành vi phạm tội và nhân
thân của người được áp
dụng hình phạt cảnh cáo.
Về thẩm quyền
áp dụng
Chỉ có Tòa án.
Ngoài Tòa án còn có thể do
cơ quan Điều tra với sự phê
chuẩn của Viện kiểm sát
hoặc Viện kiểm sát áp dụng
trước khi xét xử tùy thuộc
vào giai đoạn tố tụng hình
sự cụ thể tương ứng.
Về chế tài
áp dụng
Người được áp dụng
hình phạt cảnh cáo
vẫn có thể bị áp dụng
một hoặc một số hình
phạt bổ sung theo quy
định tại Điều 28 Bộ
luật hình sự năm 1999.
Người được miễn trách
nhiệm hình sự đương nhiên
không phải chịu các hậu quả
pháp lý hình sự bất lợi của
việc phạm tội do mình thực
hiện, nhưng thực tiễn xét xử
cho thấy, người họ vẫn có thể
phải chịu một hoặc nhiều
biện pháp tác động về mặt
pháp lý thuộc các ngành
luật tương ứng khác.
Về hậu quả
pháp lý
Phải chịu án tích. Không phải chịu án tích.
Nguồn: Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).
1.3.3. Phân biệt hình phạt cảnh cáo với miễn chấp hành hình phạt
* Những điểm giống nhau: (1) Cả hai đều thể hiện tính nhân đạo của luật hình sự Việt
Nam; (2) Chỉ được áp dụng khi có đầy đủ căn cứ pháp lý và những điều kiện do luật định và;
(3) Đối tượng bị áp dụng là người bị kết án (người bị coi là có tội theo bản án kết tội có hiệu
lực pháp luật của Tòa án; (4) Người bị kết án bị mang án tích.
* Ngoài ra, giữa chúng cũng có một số điểm khác nhau như sau:
Bảng 1.3: Những điểm khác nhau giữa hình phạt cảnh cáo
và miễn chấp hành hình phạt
Tiêu chí
Hình phạt cảnh cáo Miễn chấp hành hình
phạt
Nội dung
Khi xét xử thì người bị
kết án bị quyết định áp
dụng hình phạt cảnh cáo
với tính cách là hình
phạt chính và một hoặc
một số hình phạt bổ sung
khác trong bản án kết
tội có hiệu lực pháp luật
của Tòa án.
Khi xét xử người bị kết án
đã bị Tòa án quyết định một
hình phạt nào đó đối với họ
trong bản án kết tội đã nêu.
Về thẩm
quyền
áp dụng
Hình phạt cảnh cáo do
một cơ quan duy nhất
có thẩm quyền áp dụng
là Tòa án.
Hình phạt cảnh cáo và miễn
chấp hành hình phạt đều do
một cơ quan duy nhất có
thẩm quyền áp dụng là Tòa
án, nhưng khác với hình
phạt cảnh cáo, Bộ luật hình
sự năm 1999 quy định có
một số trường hợp phải
theo đề nghị của Viện
trưởng Viện kiểm sát
(khoản 1, 3-4 Điều 57 Bộ
luật hình sự năm 1999)
hoặc theo đề nghị của chính
quyền địa phương nơi
người đó chấp hành hình
phạt (khoản 5 Điều 57 Bộ
luật hình sự năm 1999), thì
Tòa án mới có cơ sở để
quyết định miễn chấp hành
hình phạt đối với người bị
kết án.
Nguồn: Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).
1.3.4. Phân biệt hình phạt cảnh cáo trong luật hình sự với biện pháp cảnh cáo của
luật hành chính
Cảnh cáo với tính cách là hình phạt trong luật hình sự khác với cảnh cáo được áp dụng
với tính cách là biện pháp xử lý hành chính ("biện pháp cảnh cáo") như sau:
Bảng 1.4: Những điểm khác nhau giữa hình phạt cảnh cáo trong luật hình sự với biện pháp
cảnh cáo trong luật hành chính
Tiêu chí Hình phạt cảnh cáo Biện pháp cảnh cáo
Chủ thể áp
dụng
Chỉ do Tòa án áp
dụng đối với bị cáo.
Được áp dụng với tính cách là
biện pháp xử lý hành chính do
cơ quan, người có thẩm quyền
xử phạt hành chính khác nhau áp
dụng theo quy định của Pháp
lệnh xử lý vi phạm hành chính
2002 và Pháp lệnh ngày 02/4/2008
sửa đổi, bổ sung một số điều của
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành
chính.
Hình thức
thể hiện
Hình phạt cảnh cáo
được quyết định
trong bản án có hiệu
lực pháp luật của Tòa
án.
Biện pháp cảnh cáo được
quyết định bằng văn bản của
cơ quan, người có thẩm quyền
xử phạt hành chính ban hành.
Đối tượng
áp dụng
Được áp dụng với cá
nhân người phạm tội.
Được áp dụng đối với cá nhân,
tổ chức vi phạm hành chính
(Điều 12 Pháp lệnh ngày
02/04/2008 sửa đổi, bổ sung
một số điều của Pháp lệnh xử
lý vi phạm hành chính).
Về điều
kiện áp
dụng
Hình phạt cảnh cáo
được áp dụng đối với
người phạm tội ít
nghiêm trọng, có
nhiều tình tiết giảm
nhẹ và chưa đến mức
miễn hình phạt.
Biện pháp cảnh cáo được áp
dụng đối với cá nhân, tổ chức
vi phạm hành chính nhỏ, lần
đầu, có tình tiết giảm nhẹ hoặc
đối với mọi hành vi vi phạm
hành chính do người chưa
thành niên từ đủ 14 tuổi đến
dưới 16 tuổi thực hiện.
Về hậu quả
pháp lý
Phải mang án tích
trong thời hạn một
năm theo quy định
tại Điều 64 Bộ luật
hình sự năm 1999.
Người vi phạm không phải
mang án tích.
Nguồn: Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).
Chương 2
CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999 VỀ HÌNH PHẠT
CẢNH CÁO VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
2.1. Các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 về hình phạt cảnh cáo
2.1.1. Trong Phần chung Bộ luật hình sự
Hình phạt cảnh cáo được quy định trong Phần chung Bộ luật hình sự năm 1999 tại các
điều luật: 28, 29, 64, 71. Phân tích các quy định của Phần chung Bộ luật hình sự năm 1999
cho thấy, quy định của Phần chung Bộ luật hình sự năm 1999 về hình phạt cảnh cáo cho thấy
còn thiếu định nghĩa pháp lý của khái niệm hình phạt cảnh cáo. Điều 29 Bộ luật hình sự năm
1999 chỉ quy định các điều kiện áp dụng hình phạt cảnh cáo, không hề có sự xác định nội
dung hình phạt cảnh cáo là gì. Việc xác định nội dung của hình phạt thông qua quy định của
pháp luật có ý nghĩa rất quan trọng, nó làm cho mọi người thấy được các dấu hiệu bắt buộc
của hình phạt.
Ngoài ra, xuất phát từ việc đánh giá khả năng tác động của hình phạt cảnh cáo đối với người
phạm tội, chúng tôi cho rằng cần tăng cường tính nghiêm khắc của hình phạt này bằng cách bổ
sung quy định của Bộ luật hình sự theo hướng bắt buộc các Tòa án sau khi tuyên án phải thông
báo cho cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội nơi người bị kết án làm việc hoặc cư trú biết. Bởi vì,
một mặt điều này nâng cao trách nhiệm cá nhân người bị kết án; mặt khác để các cơ quan, tổ
chức đó biết và có trách nhiệm theo dõi, giám sát và giáo dục người bị kết án.
2.1.2 Trong Phần các tội phạm Bộ luật hình sự
Hình phạt cảnh cáo được quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999 chủ yếu tập trung vào
một số nhóm tội sau: Nhóm các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm danh dự của
con người; Nhóm các tội xâm phạm những quyền tự do, dân chủ của công dân; Nhóm các tội
xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình; Nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính.
Trong số các cấu thành tội phạm ít nghiêm trọng, số lượng cấu thành tội phạm trong Bộ
luật hình sự hiện hành quy định hình phạt cảnh cáo không nhiều (37/165 cấu thành). Tuy
nhiên, căn cứ vào Điều 47 Bộ luật hình sự năm 1999 Tòa án vẫn có thể tuyên phạt cảnh cáo
đối với những người phạm các tội ít nghiêm trọng mà chế tài không quy định hình phạt này.
2.2. Thực tiễn áp dụng hình phạt cảnh cáo
2.2.1. Tình hình áp dụng hình phạt cảnh cáo
Kết quả nghiên cứu số liệu thống kê của TANDTC cho thấy, mặc dù những năm gần đây
TAND các cấp đã chú trọng hơn đến việc áp dụng hình phạt không phải là phạt tù trong những
trường hợp được phép cân nhắc, lựa chọn áp dụng. Tuy nhiên, các Tòa án mới chỉ dừng lại ở việc
lựa chọn án treo và cải tạo không giam giữ, còn hình phạt cảnh cáo rất ít khi được Tòa án dụng.
Hình phạt cảnh cáo áp dụng chỉ chủ yếu đối với một số nhóm tội phạm, như nhóm tội xâm
phạm sở hữu; nhóm tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng; nhóm các tội xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm danh dự của con người. Đối với các nhóm tội phạm
khác, như nhóm tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, hình phạt cảnh cáo được
áp dụng rất ít.
2.2.2. Một số hạn chế của việc áp dụng hình phạt cảnh cáo và các nguyên nhân cơ
bản
- Một số hạn chế của việc áp dụng hình phạt cảnh cáo
Thứ nhất, hình phạt cảnh cáo được áp dụng chiếm tỷ lệ thấp.
Thứ hai, việc áp dụng hình phạt cảnh cáo còn sai sót, chưa chính xác.
Thứ ba, một số Tòa án không xem xét đầy đủ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội, dẫn đến tình trạng đáng lẽ người bị kết án không được áp dụng hình
phạt cảnh cáo mà Tòa án vẫn áp dụng.
Thứ tư, còn nhầm lẫn giữa hình phạt cảnh cáo và miễn hình phạt.
Thứ năm, còn nhầm lẫn giữa hình phạt cảnh cáo và miễn trách nhiệm hình sự.
Thứ sáu, việc thi hành hình phạt cảnh cáo còn nhiều hạn chế. Mặc dù không thuộc phạm
vi nghiên cứu của đề tài này, xong qua nghiên cứu thực tiễn thi hành hình phạt này cho thấy:
Đối với người bị áp dụng hình phạt cảnh cáo thì sau khi tòa tuyên án công khai cũng có nghĩa
là họ đã chấp hành xong hình phạt cảnh cáo, hay nói cách khác là hình phạt cảnh cáo không
có tổ chức thi hành. Do đó, các tổ chức xã hội, đơn vị công tác nơi người đó làm việc, hay ủy
ban nhân dân xã, phường nơi người đó sinh sống khó có thể nắm được tình trạng của người bị
kết án và dẫn đến hệ quả là không thể theo dõi, giúp đỡ, cải tạo người bị kết án trở thành
công dân có ích cho xã hội. Đây chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến tâm lý ngại
áp dụng, sợ bị để ý; sợ bị coi là tiêu cực, nhân nhượng cho bị cáo của Thẩm phán và Hội
thẩm nhân dân về tác dụng của hình phạt cảnh cáo khi quyết định áp dụng hình phạt cảnh cáo
trong từng vụ việc cụ thể.
- Nguyên nhân chủ yếu của các hạn chế trong việc áp dụng hình phạt cảnh cáo thời gian
qua
Thứ nhất, nguyên nhân do các quy định của luật thực định
Thứ hai, nguyên nhân từ công tác giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật; thanh tra,
kiểm tra hoạt động áp dụng hình phạt nói chung và hình phạt cảnh cáo nói riêng của Tòa án
các cấp.
Thứ ba, nguyên nhân từ chủ thể áp dụng pháp luật hình sự
Chương 3
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP
NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH
CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ HÌNH PHẠT CẢNH CÁO
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về hình
phạt cảnh cáo
3.1.1. Về phương diện thực tiễn
Về phương diện thực tiễn, sự cần thiết của việc hoàn thiện các quy định của pháp luật
hình sự Việt Nam về hình phạt cảnh cáo thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự vẫn còn có một số trường hợp áp
dụng hình phạt cảnh cáo không đúng pháp luật và không có căn cứ pháp lý.
Thứ hai, có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng áp dụng không đúng các quy định về
hình phạt cảnh cáo, đó là nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan, mà cụ thể là: 1)
Do chính các quy định về hình phạt cảnh cáo còn thiếu, ví dụ như ở Bộ luật hình sự năm
1999 và Luật số 37/2009/QH12 ngày 19/06/2009 sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật
hình sự năm 1999 đều không quy định về nội dung khái niệm hình phạt cảnh cáo; 2) Do tâm
lý xét xử của người Thẩm phán; 3) Do năng lực, trình độ chuyên môn của Thẩm phán còn
hạn chế...
3.1.2. Về phương diện lập pháp
Việc hoàn thiện các quy định về hình phạt cảnh cáo trong pháp luật hình sự góp phần
giúp cho nhà làm luật nhận thấy những "kẽ hở", "lỗ hổng" của hình phạt này:
Một là, trong Bộ luật hình sự năm 1985 cũng như Bộ luật hình sự năm 1999 đều chưa đưa ra
định nghĩa pháp lý của khái niệm hình phạt cảnh cáo; điều kiện áp dụng hình phạt cảnh cáo
chưa được quy định chặt chẽ và hợp lý.
Hai là, nhà làm luật nước ta cần bổ sung quy định của Bộ luật hình sự với nội dung tăng
tính cưỡng chế của hình phạt cảnh cáo và cần có văn bản hướng dẫn cụ thể về việc áp dụng
hình phạt cảnh cáo.
Ba là, giữa hình phạt cảnh cáo và chế định miễn hình phạt, miễn chấp hành hình phạt,
miễn trách nhiệm hình sự còn chưa có sự phân biệt rõ ràng, cụ thể và tách biệt giữa các chế
định này.
Bốn là, các nhà làm luật nước ta cần bổ sung quy định của Bộ luật hình sự với nội dung
mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt cảnh cáo đối với người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến
dưới 16 tuổi phạm tội.
Năm là, cần loại bỏ việc áp dụng hình phạt cảnh cáo đối với một số tội trong Phần các tội
phạm Bộ luật hình sự có tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đang diễn biến phức tạp mà
việc áp dụng hình phạt cảnh cáo chưa đủ sức ngăn chặn và giáo dục người bị kết án.
Và sáu là, trong xu thế hội nhập khu vực và thế giới cũng đòi hỏi pháp luật hình sự của
nước ta nói chung, hình phạt cảnh cáo nói riêng cũng cần phù hợp và có sự tham khảo, chọn
lọc các quy định của pháp luật hình sự các nước (trong đó có những quy định về hình phạt
cảnh cáo), cũng như góp phần nhân đạo hóa hơn nữa chính sách hình sự của Nhà nước nói
chung và của pháp luật hình sự Việt Nam nói riêng.
3.1.3. Về phương diện lý luận
Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về hình phạt cảnh cáo có ý
nghĩa về mặt lý luận thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, nó góp phần giúp cho cán bộ nghiên cứu khoa học-giảng dạy, nghiên cứu sinh,
học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành tư pháp hình sự có nhận thức đúng đắn và
thống nhất về hình phạt cảnh cáo, về căn cứ và những điều kiện áp dụng của từng trường hợp
tương ứng để phục vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy và học tập.
Thứ hai, nó còn giúp cho những người có thẩm quyền trong cơ quan Tòa án nhận thức
đầy đủ, đúng đắn và chính xác để từ đó ra các quyết định áp dụng hay không áp dụng hình
phạt cảnh cáo đối với người phạm tội có căn cứ và đúng pháp luật, góp phần nâng cao hiệu
quả công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm, qua đó bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp không chỉ của xã hội, của công dân, mà còn cả của bị cáo.
Thứ ba, hoàn thiện hình phạt cảnh cáo dưới góc độ này sẽ góp phần làm phong phú thêm
kho tàng lý luận luật hình sự Việt Nam, cũng như là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích bổ
sung vào khoa học luật hình sự nước ta về vấn đề hình phạt cảnh cáo.
3.2. Nội dung sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về hình
phạt cảnh cáo
Dưới góc độ nhận thức -khoa học, chúng tôi xin đưa ra mô hình lý luận của các quy
phạm về hình phạt cảnh cáo như sau:
Điều... Hình phạt cảnh cáo (mới)
1. Cảnh cáo là sự khiển trách công khai của Nhà nước đối với người bị kết án về tội
phạm mà người đó đã thực hiện khi có đầy đủ những điều kiện theo quy định tại Điều 29 của
Bộ luật này.
2. Sự khiển trách công khai của Tòa án đối với người bị kết án được thực hiện tại phiên xét
xử và được thông báo tới nơi họ sinh sống hoặc thông qua phương tiện truyền thông hoặc
bằng hình thức khác do Tòa án quyết định.
Điều 29. Những điều kiện áp dụng hình phạt cảnh cáo
Cảnh cáo được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự, nhưng chưa đến mức miễn hình phạt.
Điều... Việc chuyển giao cho gia đình, cơ quan hoặc tổ chức giám sát, giáo dục người
bị kết án
Trong trường hợp cần thiết, sau khi khiển trách công khai người bị kết án, Tòa án có thể
quyết định chuyển giao cho gia đình, cơ quan hoặc tổ chức có thẩm quyền tương ứng giám
sát, giáo dục người đó để giúp họ trở thành người có ích cho xã hội.
Điều 71. Các hình phạt được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội
Các hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội là những biện pháp
cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước do Tòa án áp dụng nhưng có mức độ nhẹ hơn so
với người đã thành niên, để tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người chưa thành niên
phạm tội, đồng thời với mục đích giáo dục, cải tạo nhằm tạo điều kiện tốt nhất để họ sửa
chữa sai lầm, phấn đấu trở thành người có ích cho gia đình và xã hội.
Người chưa thành niên phạm tội chỉ bị áp dụng một trong các hình phạt sau đây đối với
mỗi tội phạm:
1. Cảnh cáo;
2. Phạt tiền;
3. Cải tạo không giam giữ;
4. Tù có thời hạn.
Điều 71a. Cảnh cáo
1. Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 00050000431_736_2009899.pdf