Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam

Sự cần thiết hoàn thiện những quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về lỗi vô ý

Thứ nhất, sự thay đổi của tình hình kinh tế - xã hội làm cho các quan hệ quốc tế ngày

càng mở rộng.

Thứ hai, yêu cầu chung của công cuộc cải cách tư pháp đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung Bộ

luật hình sự hiện hành.

Thứ ba, từ thực tiễn xét xử cho thấy Bộ luật hình sự hiện hành còn nhiều bất cập trong

việc quy định các quy phạm liên quan đến lỗi vô ý.

4.1.1.2. Những yêu cầu của việc hoàn thiện những quy định của Bộ luật hình sự hiện

hành về lỗi vô ý

Thứ nhất, chỉ nên sửa đổi, bổ sung những nội dung cấp thiết, không còn phù hợp với sự

phát triển của tình hình kinh tế - xã hội, bảo đảm tính khả thi và sự thống nhất của Bộ luật

hình sự với các văn bản khác trong hệ thống pháp luật của Nhà nước.

Thứ hai, các quy định của Bộ luật hình sự liên quan đến lỗi vô ý phải được quán triệt và

thể chế hóa được đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về hoàn thiện hệ thống pháp

luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng.

Thứ ba, các quy định của Bộ luật hình sự liên quan đến lỗi vô ý phải đảm bảo được tính hiệu

quả trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm

pdf17 trang | Chia sẻ: lanphuong92 | Lượt xem: 533 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hạm tội có nghĩa vụ phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội có thể xảy ra. Nhưng người phạm tội đã không thấy vì cẩu thả, thiếu thận trọng trong khi lựa chọn, thực hiện hành vi. 1.2. Phân biệt lỗi vô ý với lỗi cố ý và sự kiện bất ngờ 1.2.1. Phân biệt lỗi vô ý với lỗi cố ý Lỗi cố ý là hình thức lỗi, trong đó chủ thể lựa chọn và thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mặc dù đã ý thức (nhận thức) được các đặc điểm thể hiện tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi đó. Ở lỗi vô ý, người phạm tội không nhận thức được hoặc nhận thức không đầy đủ đặc điểm thể hiện tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi khi quyết định thực hiện hành vi, không thấy được khả năng xảy ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Đây là sự khác nhau cơ bản giữa lỗi vô ý với lỗi cố ý, đối với lỗi cố ý về mặt ý chí chủ thể nhận thức rõ được các đặc điểm thể hiện tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Về mặt lý trí của lỗi vô ý vì quá tự tin và lỗi cố ý gián tiếp nói riêng và lỗi cố ý nói chung có sự giống nhau đó là đều thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Tuy nhiên, ở lỗi cỗ ý gián tiếp, khi lựa chọn thực hiện hành vi phạm tội chủ thể thấy trước được hậu quả nguy hiểm và đã chấp nhận khả năng hậu quả nguy hiểm sẽ xảy ra còn ở lỗi vô ý vì quá tự tin, chủ thể cũng thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi nhưng đã loại trừ khả năng đó, cho rằng khả năng đó không xảy ra hoặc sẽ ngăn ngừa được. 1.2.2. Phân biệt lỗi vô ý với sự kiện bất ngờ Sự khác nhau trực diện cơ bản giữa lỗi vô ý và sự kiện bất ngờ đó là sự khác nhau giữa việc gây hậu quả nguy hiểm trong trường hợp có lỗi (lỗi vô ý) và gây hậu quả nguy hiểm trong trường hợp không có lỗi (sự kiện bất ngờ). Xét về bản chất của các hình thức lỗi vô ý trong đó có lỗi vô ý do cẩu thả và sự kiện bất ngờ, bên cạnh những điểm giống nhau, giữa chúng còn tồn tại những điểm khác nhau cơ bản. Lỗi vô ý do cẩu thả giống với sự kiện bất ngờ ở chỗ: chủ thể thực hiện hành vi đều không thể thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra. Nhưng trong trường hợp vô ý do cẩu thả thì chủ thể không thấy trước hậu quả nguy hiểm là 6 do cẩu thả, còn trong sự kiện bất ngờ, chủ thể không thấy trước hậu quả là do hoàn cảnh khách quan hoặc do khả năng chủ quan. 1.3. Vai trò của lỗi vô ý trong vấn đề tội phạm và hình phạt 1.3.1. Vai trò của lỗi vô ý trong vấn đề tội phạm 1.3.1.1. Vai trò của lỗi vô ý trong việc xác định tội phạm Vai trò của lỗi còn được nâng lên thành nguyên tắc luật định, đó chính là nguyên tắc có lỗi. Có lỗi là cơ sở chủ quan để có thể buộc chủ thể phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và về hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi đó gây ra. Nếu không có lỗi thì chủ thể không phải chịu trách nhiệm hình sự, cho dù hành vi đó đã gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Trong nhiều trường hợp lỗi vô ý có vai trò trực tiếp xác định tội phạm, có nghĩa rằng lỗi vô ý là một yếu tố không thể thiếu được trong cấu thành tội phạm đó, chỉ với lỗi vô ý thì hành vi mới cấu thành tội phạm. Trong tổng số 272 cấu thành tội phạm tại Bộ luật hình sự hiện hành, có 20 cấu thành tội phạm thể hiện rõ dấu hiệu lỗi cố ý hay lỗi vô ý, trong đó có 8 cấu thành tội phạm được mô tả là lỗi vô ý. 1.3.1.2. Vai trò định tội danh của lỗi vô ý Quá trình định tội danh thường có ba giai đoạn, vai trò của lỗi vô ý trong từng giai đoạn này là khác nhau: - Đầu tiên, người tiến hành tố tụng phải làm sáng tỏ những dấu hiệu đặc trưng nhất của hành vi. Khi đó, vấn đề tiên quyết cần phải trả lời đó là: hành vi đang được xem xét có dấu hiệu tội phạm hay không? Vì vậy, dấu hiệu lỗi trong giai đoạn này đóng một vai trò quan trọng, đối với những hành vi thể hiện rõ ràng thái độ của người thực hiện là cố ý thì chúng ta chuyển sang giai đoạn thứ hai. Còn lại, chúng ta phải xác định rõ hành vi đó là cố ý hay vô ý, tránh nhầm lần giữa vô ý với không có lỗi, giữa lỗi hình sự với lỗi hành chính, lỗi dân sự. Từ đó kết luận hành vi đó có dấu hiệu của tội phạm hay chỉ là hành vi vi phạm pháp luật hành chính, pháp luật dân sự. - Nếu hành vi đó có dấu hiệu của tội phạm thì trong giai đoạn thứ hai, người tiến hành tố tụng phải xác định được hành vi thuộc loại tội nào trong bộ luật hình sự. Xác định rõ tội phạm này là tội do lỗi cố ý hay vô ý. - Trong giai đoạn thứ ba, người tiến hành tố tụng phải chỉ rõ cấu thành tội phạm nào được áp dụng đối với hành vi đang xem xét: cấu thành tội phạm cơ bản, tăng nặng hay đặc biệt tăng nặng của một điều luật, xác định xem có hậu quả nguy hiểm cho xã hội xảy ra không? người thực hiện hành vi cố ý hay vô ý gây ra hậu quả đó? Để từ đó xác định đúng cấu thành tội phạm cần áp dụng. 1.3.2. Vai trò của lỗi vô ý với vấn đề hình phạt 1.3.2.1. Vai trò của lỗi vô ý trong việc quy định hình phạt Vai trò của lỗi nói chung và của lỗi vô ý nói riêng đối với việc quy định hình phạt thể hiện trước hết ở phương diện lỗi nói chung và lỗi vô ý nói riêng, là cơ sở gián tiếp để quy định hình phạt trong luật hình sự, bởi lẽ như đã trình bày ở phần 1.3.1.1 lỗi nói chung và lỗi vô ý nói riêng là một yếu tố cấu thành tội phạm, tội phạm thì phải có lỗi, không có lỗi sẽ không có tội phạm. 1.1.3.2. Vai trò của lỗi vô ý trong việc quyết định hình phạt Nếu so sánh những hành vi phạm tội gây hậu quả giống nhau trong điều kiện, hoàn cảnh như nhau thì hành vi được thực hiện do lỗi cố ý thường được nhà làm luật quy định có tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội cao hơn hành vi do lỗi vô ý và hình phạt áp dụng đối với tội do lỗi cố ý cũng nghiêm khắc hơn. Các hình thức của lỗi vô ý cũng có vai trò trong việc quyết định hình phạt công bằng, hợp lý và đúng pháp luật. Thực tiễn xét xử cho thấy, trong các điều kiện giống nhau thì tội phạm được thực hiện do lỗi vô ý vì quá tự tin nguy hiểm hơn tội phạm được thực hiện do lỗi vô ý do 7 cẩu thả. Và hình phạt áp dụng đối với tội do lỗi vô ý vì quá tự tin sẽ nặng hơn tội do lỗi vô ý do cẩu thả. Chương 2 CÁC QUY ĐỊNH VỀ LỖI VÔ Ý TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 2.1. Lỗi vô ý trong quá trình phát triển của luật hình sự Việt Nam 2.1.1. Các quy định về lỗi vô ý trong pháp luật hình sự Việt Nam thời kỳ Nhà nước phong kiến (trước Cách mạng tháng Tám năm 1945) Pháp luật hình sự thời kỳ này có đề cập đến hình thức lỗi vô ý nhưng không nhắc đến khái niệm của nó và không quy định tội nào thực hiện với lỗi vô ý mà chỉ quy định về sự phân hóa trách nhiệm hình sự và hình phạt trong một số trường hợp phạm tội do lỗi vô ý, trong đó trách nhiệm hình sự đối với tội do lỗi cố ý nặng hơn so với lỗi vô ý. Tiếp đó là Bộ luật Hoàng Việt luật lệ hay còn gọi là Bộ luật Gia Long. Giống như pháp luật hình sự nhà Lê, pháp luật hình sự nhà Nguyễn cũng đề cập đến các loại tội với lỗi cố ý và vô ý, trách nhiệm hình sự đối với các loại tội do lỗi cố ý được quy định nặng hơn đối với các loại tội với lỗi vô ý. 2.1.2. Các quy định về lỗi vô ý trong pháp luật hình sự Việt Nam thời kỳ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước năm 1985 Định nghĩa pháp lý về lỗi, lỗi vô ý chưa được chính thức ghi nhận trong văn bản luật hình sự. Các quy định liên quan đến lỗi vô ý không được tập hợp một cách thống nhất, chúng nằm rải rác ở các văn bản pháp luật khác nhau, thậm chí cả ở văn bản pháp luật phi hình sự. Đáng chú ý là trong báo cáo tổng kết có tính chất hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ của ngành Tòa án đã có sự phân biệt vô ý vì quá tự tin và vô ý vì cẩu thả. 2.1.3. Các quy định về lỗi vô ý trong pháp luật hình sự Việt Nam kể từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 Định nghĩa pháp lý của các hình thức lỗi vô ý lần đầu tiên được chính thức ghi nhận tại Điều 10 Bộ luật hình sự năm 1985. Và với hơn 20 điều luật về tội phạm do lỗi vô ý ở Phần các tội phạm, Bộ luật hình sự năm 1985 đã phần nào thể hiện được một cách hệ thống các tội do lỗi vô ý cần được điều chỉnh tại thời điểm lúc bấy giờ. 2.2. Các quy định về lỗi vô ý trong Bộ luật hình sự hiện hành 2.2.1. Trong Phần chung của Bộ luật hình sự hiện hành Trước tiên các hình thức lỗi vô ý được quy định tại Điều 10 Bộ luật hình sự hiện hành. Theo đó, căn cứ vào yếu tố lý trí và ý chí, lỗi vô ý được chia thành hai hình thức lỗi vô ý vì quá tự tin (Khoản 1 Điều 10) và lỗi vô ý do cẩu thả (Khoản 2 Điều 10). Ngoài ra, lỗi vô ý còn được thể hiện trực tiếp hoặc gián tiếp ở các điều luật khác tại Phần chung của Bộ luật hình sự như: khái niệm tội phạm (Khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự); tuổi chịu trách nhiệm hình sự (Khoản 2 Điều 12); tái phạm, tái phạm nguy hiểm (Khoản 1 Điều 49); giai đoạn phạm tội (Điều 17); đồng phạm (Khoản 1 Điều 20); không tố giác tội phạm (Khoản 1 Điều 22); 2.2.2. Trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự hiện hành Thứ nhất, trong tổng số 24 chương trong phần các tội phạm của Bộ luật hình sự, chỉ có 7 chương quy định các tội phạm thực hiện bằng lỗi vô ý. Trong tổng số 272 điều luật về tội phạm thì cũng chỉ có 51 điều luật quy định tội phạm vô ý, chiếm tỷ lệ 18,8%. Thứ hai, tỷ lệ số khung hình phạt của tội phạm được thực hiện do lỗi vô ý trên tổng số khung hình phạt trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự chiếm tỷ lệ thấp là 20,4%, cao nhất vẫn là chương XIX quy định các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng (chiếm 55,6% của chương đó). 8 Thứ ba, nhìn chung Bộ luật hình sự hiện hành đã có những bước phát triển đáng kể về mặt lập pháp so với Bộ luật hình sự năm 1985 khi xây dựng các quy phạm có liên quan đến lỗi vô ý. Thứ tư, đa số cấu thành tội phạm cơ bản của các tội do lỗi vô ý trong Bộ luật hình sự hiện hành đều được xây dựng dưới dạng cấu thành tội phạm vật chất. Thứ năm, các tội do lỗi vô ý trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự quy định về dấu hiệu lỗi vô ý dưới nhiều cách thức khác nhau. Thứ sáu, hậu quả nguy hiểm cho xã hội được nêu trong tội do lỗi cố ý thường thấp hơn hậu quả được nêu trong tội do lỗi vô ý. Thứ bảy, dấu hiệu lỗi vô ý không những được thể hiện ở cấu thành tội phạm cơ bản mà nó còn được quy định trong các cấu thành tội phạm tăng nặng hoặc đặc biệt tăng nặng trách nhiệm hình sự và khoa học luật hình sự gọi là “hỗn hợp lỗi”. 2.3. Những tồn tại, hạn chế trong các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về lỗi vô ý Thứ nhất, hạn chế lớn nhất của Bộ luật hình sự là mới chỉ đề cập đến khái niệm của các hình thức lỗi vô ý mà chưa quy định được khái niệm chung về lỗi vô ý. Và quy định này cũng chỉ dừng lại ở việc mô tả các cấu trúc tâm lý của những trường hợp có lỗi vô ý mà không nêu được bản chất chung của chúng. Thứ hai, Phần chung Bộ luật hình sự không có quy phạm nào khẳng định rứt khoát về nguyên tắc phải có dấu hiệu lỗi vô ý trong cấu thành tội phạm được quy định trực tiếp trong Bộ luật hình sự thì hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện do lỗi vô ý tương ứng với các điều luật đó mới bị coi là tội phạm. Thứ ba, số lượng điều luật trong Phần các tội phạm Bộ luật hình sự có quy định trực tiếp, rõ ràng dấu hiệu lỗi vô ý trong cấu thành tội phạm là không nhiều. Thứ tư, Bộ luật hình sự hiện hành đang tồn tại tình trạng quy định ghép hai hình thức lỗi khác nhau vào trong một cấu thành tội phạm cơ bản của cùng một điều luật, cùng một khung hình phạt. Thứ năm, việc mô tả dấu hiệu lỗi vô ý trong cấu thành tội phạm của Bộ luật hình sự còn chung chung, không rõ ràng, không thống nhất theo một hình thức nhất định. Thứ sáu, một số tội danh do lỗi vô ý trong Phần các tội phạm đang có sự nhầm lẫn trong việc quy định dấu hiệu hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Cụ thể, trong vài trường hợp, dấu hiệu hậu quả của tội do lỗi vô ý lại được quy định với mức cao hơn dấu hiệu hậu quả của tội do lỗi cố ý. Thứ bảy, Bộ luật hình sự chưa có khái niệm “hỗn hợp lỗi”. Thứ tám, có những tội danh nhà làm luật chỉ quy định về hành vi được thực hiện đối với lỗi cố ý mà không quy định về lỗi vô ý. Chương 3 THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ LỖI VÔ Ý 3.1. Khái quát chung về thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về lỗi vô ý từ năm 2005 đến 2010 Về tổng số vụ án do lỗi vô ý được xét xử: trong sáu năm trở lại đây (2005 – 2010) tội phạm do lỗi vô ý được phát hiện và đưa ra xét xử chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số vụ án được đưa ra xét xử (chỉ chiếm khoảng 9,53%) và có xu hướng giảm dần nhưng không nhiều (năm 2005 có 5573 vụ, năm 2010 có 5513 vụ). 9 Về cấu trúc các loại tội phạm do vô ý bị đưa ra xét xử: chiếm đa số trong tổng các vụ án về tội do lỗi vô ý được đưa ra xét xử trong sáu năm vừa qua (2005 – 2010) là tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ (Điều 202) - chiếm 94,61%, tiếp đó là tội vô ý làm chết người (Điều 98) - chiếm 1,43%, tội vi phạm quy định về điểu khiển phương tiện giao thông đường thủy (Điều 212) - chiếm 1,32%, còn lại các tội vô ý khác chỉ chiếm 2,64%. Đối với việc chứng minh lỗi vô ý trong vụ án hình sự, trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử thường xảy ra nhầm lẫn giữa lỗi vô ý vì quá tự tin với lỗi vô ý do cẩu thả dẫn đến việc không thấy được tính nguy hiểm ở mức cao hơn do lỗi vô ý vì quá tự tin; nhầm lẫn giữa lỗi vô ý vì quá tự tin với lỗi cố ý gián tiếp dẫn đến việc định tội danh sai giữa tội do lỗi vô ý và tội do lỗi cố ý; hoặc nhầm lẫn giữa lỗi vô ý với trường hợp không có lỗi dẫn đến việc định tội danh oan cho người thực hiện hành vi. 3.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về lỗi vô ý đối với các loại tội phạm cụ thể 3.2.1. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về các tội vô ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người (Chương XII Bộ luật hình sự) Trong tổng số 368761 vụ án và 634874 bị cáo đưa ra xét xử, thì tổng số vụ án đưa ra xét xử về các tội vô ý trong Chương XII Bộ luật hình sự là 632 vụ (chiếm tỷ lệ 0,17%) và tổng số bị cáo là 722 bị cáo (chiếm tỷ lệ 0,11%). Tỷ lệ này cao nhất vào năm 2010 với 0,21% số vụ án và 0,14% số bị cáo. Trong đó, số vụ án và số bị cáo được đưa ra xét xử về tội vô ý làm chết người (Điều 98) là nhiều nhất, có 502 vụ và 584 bị cáo, đã xét xử 420 vụ và 481 bị cáo, trả lại hồ sơ cho Viện kiểm sát là 56 vụ và 72 bị cáo. Việc định tội danh của loại tội này thường có một số sự nhầm lẫn: Thứ nhất, nhầm lẫn giữa tội vô ý làm chết người với các tội gây hậu quả chết người nhưng lại vi phạm các quy tắc an toàn trong một số lĩnh vực cụ thể khác. Thứ hai, nhầm lẫn giữa tội vô ý làm chết người với tội do lỗi cố ý có cấu thành tội phạm tặng nặng với tình tiết “làm chết người”. 3.2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về các tội phạm vô ý xâm phạm sở hữu (Chương XIV Bộ luật hình sự) Trong tổng số 368761 vụ án và 634874 bị cáo đưa ra xét xử, thì tổng số vụ án đưa ra xét xử về tội do lỗi vô ý trong Chương XIV Bộ luật hình sự là 90 vụ (chiếm tỷ lệ 0,02%) và tổng số bị cáo là 177 bị cáo (chiếm tỷ lệ 0,03%). Số lượng vụ án cao nhất là năm 2006 với 23 vụ và 45 bị cáo, thấp nhất là năm 2007 với 9 vụ và 13 bị cáo. Trong đó, số vụ án và số bị cáo được đưa ra xét xử về tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước (Điều 144) là nhiều nhất, gồm 58 vụ, chiếm 64,44%, đã xét xử 33 vụ và 62 bị cáo, trả lại hồ sơ cho Viện kiểm sát là 18 vụ và 52 bị cáo. Trong thực tiễn áp dụng pháp luật, tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước còn tồn tại, đó là: người thực hiện hành vi đã làm hết trách nhiệm nhưng thiệt hại về tài sản vẫn xảy ra, khi đó họ vẫn bị coi là phạm tội này. 3.2.3. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về các tội phạm vô ý xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng (Chương XIX Bộ luật hình sự) Trong tổng số 368761 vụ án và 634874 bị cáo đưa ra xét xử trong giai đoạn năm 2005 - 2010, thì tổng số vụ án đưa ra xét xử về tội do lỗi vô ý trong Chương XIX Bộ luật hình sự là 34326 vụ (chiếm tỷ lệ 9,31%) và tổng số bị cáo là 35891 bị cáo (chiếm tỷ lệ 5,65%). Tỷ lệ này cao nhất vào năm 2007 với 10,12% số vụ án và 6,23% số bị cáo. Trong đó số vụ án và số bị cáo được đưa ra xét xử về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ (Điều 202) là nhiều nhất, gồm 33245 vụ, chiếm 96,85%. Ngược lại, trong sáu năm qua, một số tội quy định tại Điều 209, 216, 218, 226, 228, 237 không được áp dụng để xét xử 10 một hành vi khách quan nào. Hoặc có những điều luật có thực tiễn xét xử nhưng nhất rất ít như: Điều 219 được áp dụng một lần vào năm 2006; Điều 222, 234 được áp dụng một lần vào năm 2005, Điều 239 được áp dụng hai lần vào năm 2008; Từ đó cho thấy thực tiễn áp dụng pháp luật các tội do lỗi vô ý tại chương này không đều. Trong thực tiễn áp dụng pháp luật hay có sự nhầm lẫn giữa dấu hiệu của cấu thành tội phạm cơ bản tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của loại tội này, nhầm lẫn giữa vi phạm pháp luật hành chính với vi phạm pháp luật hình sự, nhầm lẫn giữa lỗi hành chính với lỗi hình sự. Ngoài ra, trong thực tiễn áp dụng còn tồn tại trường hợp “lỗi từ hai phía”- là khi xuất hiện hành vi vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ gây ra hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, nhưng hậu quả này xảy ra có một phần lỗi của người bị hại. 3.2.4. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về các tội phạm vô ý xâm phạm trật tự quản lý hành chính (Chương XX Bộ luật hình sự) Trong tổng số 368761 vụ án và 634874 bị cáo đưa ra xét xử từ năm 2005 đến 2010 chỉ có 1 vụ án (chiếm tỷ lệ 0,0003%) và 1 bị cáo (chiếm tỷ lệ 0,0002%) được đưa ra xét xử về tội do lỗi vô ý trong Chương XX Bộ luật hình sự (rất ít so với các Chương khác). Đó là vụ án được đưa ra xét xử với tội danh: vô ý làm lộ bí mật Nhà nước (Điều 264), chiếm tỷ lệ 0,0016% trên tổng số vụ án của năm 2007. Vụ án này đã được xét xử và không bị trả lại hồ sơ cho Viện kiểm sát. 3.2.5. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về các tội phạm về chức vụ được thực hiện do lỗi vô ý (Chương XXI Bộ luật hình sự) Tổng số 368761 vụ án và 634874 bị cáo đưa ra xét xử, thì có 124 vụ án (chiếm tỷ lệ 0,034%) và 321 bị cáo (chiếm tỷ lệ 0,051%) được đưa ra xét xử về tội do lỗi vô ý trong Chương XXI Bộ luật hình sự. Các vụ án đều được đưa ra xét xử với tội danh: thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 285), không có vụ nào được đưa ra xét xử với tội danh vô ý làm lộ bí mật công tác (Điều 285) hoặc tội làm mất tài liệu bí mật công tác (Điều 287). Trong thực tiễn áp dụng pháp luật, tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng hay bị nhầm lẫn với các tội danh khác như: tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước (Điều 144), tội thiếu trách nhiệm trong việc giữ vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 235), hoặc tội thiếu trách nhiệm để người bị giam, giữ trốn (Điều 301). 3.2.6. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về các tội phạm vô ý xâm phạm hoạt động tư pháp (Chương XXII Bộ luật hình sự) Trong tổng số 368761 vụ án và 634874 bị cáo đưa ra xét xử, thì chỉ có 6 vụ án (chiếm tỷ lệ 0,002%) và 8 bị cáo (chiếm tỷ lệ 0,001%) được đưa ra xét xử về tội do lỗi vô ý trong Chương XXII Bộ luật hình sự. Các vụ án này đều được đưa ra xét xử với tội danh: thiếu trách nhiệm để người giam, giữ bị trốn (Điều 301). Số lượng các vụ án này tăng giảm không đều. Năm 2006 và 2010 không có tội do lỗi vô ý nào thuộc chương này bị đưa ra xét xử. Điều 301 thực chất là quy định hai tội khác nhau xuất phát từ đối tượng tác động của hành vi khách quan, đó là: tội thiếu trách nhiệm để người bị giam trốn và tội thiếu trách nhiệm để người bị giữ trốn. Tuy nhiên, chủ thể áp dụng pháp luật thường hay nhầm lẫn về việc định tội danh: người phạm tội chỉ thực hiện một hành vi thiếu trách nhiệm để người bị giam trốn hoặc để người bị giữ trốn nhưng lại xác định tội danh của họ là phạm tội “thiếu trách nhiệm để người bị giam, giữ trốn”. 3.2.7. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về các tội do lỗi vô ý xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân (Chương XXIII Bộ luật hình sự) Trong tổng số 368761 vụ án và 634874 bị cáo đưa ra xét xử, thì chỉ có 4 vụ án (chiếm tỷ lệ 0,0003%) và 4 bị cáo (chiếm tỷ lệ 0,0002%) được đưa ra xét xử về tội do lỗi vô ý trong 11 Chương XXIII BLHS. Các vụ án này đều được đưa ra xét xử với tội danh: tội vi phạm các quy định về sử dụng vũ khí quân dụng (Điều 333 BLHS). Năm 2006 và 2007 không phải xét xử vụ nào thuộc chương này (xem phụ lục 13). 3.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn áp dụng các quy định về tội vô ý theo Bộ luật hình sự hiện hành Thứ nhất, do có sự chưa hoàn thiện của BLHS quy định về các tội phạm vô ý như đã trình bày ở Mục 2.3. của Chương 2. Thứ hai, việc giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật của cỏc cơ quan cú thẩm quyền cũn hạn chế, khụng kịp thời. Thứ ba, nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong hoạt động xét xử và áp dụng cỏc quy định về lỗi vụ ý trong BLHS, trước hết thuộc về đội ngũ thẩm phán những người có trách nhiệm chính trong công tác xét xử và giải quyết các vụ án. Thứ tư, điều kiện, phương tiện làm việc của các tòa án còn thiếu thốn nhiều, chế độ chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, công chức ngành Tòa án nhìn chung còn rất hạn hẹp. Chương 4 MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ LỖI VÔ Ý VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG 4.1. Các giải pháp hoàn thiện một số quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về lỗi vô ý 4.1.1. Sự cần thiết và những yêu cầu của việc hoàn thiện những quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về lỗi vô ý 4.1.1.1. Sự cần thiết hoàn thiện những quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về lỗi vô ý Thứ nhất, sự thay đổi của tình hình kinh tế - xã hội làm cho các quan hệ quốc tế ngày càng mở rộng. Thứ hai, yêu cầu chung của công cuộc cải cách tư pháp đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự hiện hành. Thứ ba, từ thực tiễn xét xử cho thấy Bộ luật hình sự hiện hành còn nhiều bất cập trong việc quy định các quy phạm liên quan đến lỗi vô ý. 4.1.1.2. Những yêu cầu của việc hoàn thiện những quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về lỗi vô ý Thứ nhất, chỉ nên sửa đổi, bổ sung những nội dung cấp thiết, không còn phù hợp với sự phát triển của tình hình kinh tế - xã hội, bảo đảm tính khả thi và sự thống nhất của Bộ luật hình sự với các văn bản khác trong hệ thống pháp luật của Nhà nước. Thứ hai, các quy định của Bộ luật hình sự liên quan đến lỗi vô ý phải được quán triệt và thể chế hóa được đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng. Thứ ba, các quy định của Bộ luật hình sự liên quan đến lỗi vô ý phải đảm bảo được tính hiệu quả trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. 4.1.2. Giải pháp tiếp tục hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về lỗi vô ý Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung Điều 10 Bộ luật hình sự hiện hành. Thứ hai, khi một số tội danh không được quy định hình thức lỗi vô ý trong điều luật nhưng thực tiễn xét xử vẫn đang áp dụng nó như là tội do lỗi vô ý thì chúng tôi kiến nghị cần 12 phải quy định rõ ngay trong tên gọi và trong cấu thành tội phạm của tội đó để tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng Bộ luật hình sự trên thực tế. Thứ ba, trường hợp một số điều luật trong Bộ luật hình sự quy định hai dấu hiệu lỗi khác nhau vào cùng một cấu thành tội phạm cơ bản thì nhà làm luật nên tách thành hai tội độc lập, mỗi tội tương ứng với một dấu hiệu lỗi, đồng thời quy định mức hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của từng hành vi phạm tội. Thứ tư, những tội danh quy định chung chung, trừu tượng, không cụ thể dấu hiệu lỗi vô ý trong cấu thành tội phạm hoặc giữa các cấu thành tội phạm chưa có sự thống nhất về cách mô tả dấu hiệu lỗi này của hành vi khách quan thì nhà làm luật nên quy định thật rõ ràng, thống nhất các hình thức lỗi trong từng điều luật. Thứ năm, khi hậu quả của tội do cố ý lại lớn hơn hậu quả của tội do vô ý, chúng tôi kiến nghị rằng nên thay đổi mức thiệt hại của một trong hai loại tội sao cho hành vi nào có tính chất nguy hiểm hơn thì phải quy định mức độ thiệt hại thấp hơn. Thứ sáu, về “hỗn hợp lỗi” thì nhà làm luật nên chăng xây dựng thêm một điều luật về khái niệm, trách nhiệm hình sự liên quan đến vấn đề này. Thứ bảy, một số tội trong Bộ luật hình sự chỉ được quy định với hình thức lỗi cố ý mà không quy định hình thức lỗi vô ý. Chúng tôi kiến nghị rằng nên bổ sung quy định hành vi này được thực hiện do lỗi vô ý cũng phải chịu trách nhiệm hình sự. 4.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hì

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf00050000928_9399_2009391.pdf
Tài liệu liên quan