• Đặc điểm chu chuyển vốn sản xuất kinh doanh của DNXL
Các đơn vị xây lắp là các đơn vị ký hợp đồng với các Chủ đầu tư chịu trách nhiệm trong vấn đề xây dựng các công trình theo thiết kế của Chủ đầu tư. Điều này cho thấy các đơn vị xây lắp ngày càng giữ vai trò quan trọng không những đối với chất lượng công trình mà còn cả về phương diện tài chính.
Cũng như mọi doanh nghiệp khác, muốn tiến hành sản xuất kinh doanh cần có một số vốn thích đáng để đầu tư vào TSLĐ. Số tiền ứng trước về những tài sản đó được gọi là vốn lưu động của doanh nghiệp. Để quản lý vốn lưu động được tốt cần phải phân loại vốn lưu động. Với doanh nghiệp xây lắp, vốn lưu động cũng dựa trên các qui định chung và được chia thành:
- Vốn lưu động nằm trong quá trình dự trữ sản xuất.
- Vốn lưu động nằm trong quá trình trực tiếp sản xuất.
- Vốn lưu động nằm trong quá trình lưu thông.
67 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2358 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nâng cao chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp xây lắp tại Chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển Điện Biên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n. Ngược lại, nếu thẩm định dự án không tốt sẽ gây thiệt hại cho ngân hàng.
* Quy trình tín dụng
Quy trình tín dụng bao gồm những quy định phải thực hiện trong quá trình cho vay, thu nợ nhằm đảm bảo an toàn vốn tín dụng. Quy trình này bắt đầu từ việc tiếp nhận và chuẩn bị hồ sơ; thẩm định các điều kiện tín dụng của khách hàng; ký hợp đồng tín dụng; giải ngân, theo dõi, giám sát việc sử dụng vốn vay; thu nợ, lãi phí và các thủ tục phát sinh. Hoạt động tín dụng có được đảm bảo hay không tuỳ thuộc vào việc lập ra được một quy trình tín dụng đảm bảo logic, khoa học, thuận tiện cho cả khách hàng và ngân hàng.
* Chất lượng cán bộ
Nhân tố con người là nhân tố trọng tâm trong mọi hoạt động. Thực tế cho thấy 1 trong những vấn đề có tính quyết định đến chất lượng tín dụng cao hay thấp phụ thuộc nhiều từ việc hoạch định các chủ trương, chính sách, tới thẩm định dự án, xét duyệt hồ sơ, kiểm tra sử dụng vốn và trong đó nhân tố con người là không thể thiếu.
Một ngân hàng mà có đội ngũ cán bộ công nhân viên được đào tạo với chất lượng tốt, có trình độ nghiệp vụ chuyên môn cao thì việc thực hiện các nghiệp vụ của ngân hàng sẽ trở nên thuận tiện và đạt kết quả cao. Hơn nữa, nhân tố con người còn giúp cho ngân hàng tránh được rủi ro có thể xảy ra, nhờ đó nâng cao được chất lượng tín dụng.
* Công nghệ ngân hàng
Công nghệ thông tin, trang thiết bị kỹ thuật cũng là một yếu tố tác động tới chất lượng tín dụng ngân hàng, nhất là trong thời đại khoa học kỹ thuật đang phát triển như vũ bao hiện nay. Một ngân hàng với các phương tiện kĩ thuật chất lượng cao sẽ tạo điều kiện trong việc đơn giản thủ tục, rút ngắn thời gian giao dịch, giúp cán bộ tín dụng thực hiện các nghiệp vụ nhanh gọn, chính xác, đem lại sự thuận tiện cho khách hàng khi thực hiện giao dịch với ngân hàng. Đây là một yếu tố rất thuận lợi để ngân hàng nâng cao được chất lượng tín dụng.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP XÂY LẮP TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN ĐIỆN BIÊN
2.1 GIỚI THIỆU VỀ CHI NHÁNH NHĐT&PT ĐIỆN BIÊN VÀ DOANH NGHIỆP XÂY LẮP
2.1.1 Giới thiệu về Chi nhánh NHĐT&PT Điện Biên
2.1.1.1 Quá trình hình thành và phát triển
NHĐT&PT Điện Biên là Chi nhánh trực thuộc NHĐT&PT Việt Nam, ra đời và phát triển không chỉ gắn với quá trình hình thành và phát triển của NHĐT&PT Việt Nam mà còn gắn với công cuộc xây dựng tỉnh Điện Biên (Lai Châu cũ) sau ngày giải phóng. Quá trình hình thành và phát triển của NHĐT&PT Điện Biên trải qua các giai đoạn sau:
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, kết thúc chiến tranh, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng. Căn cứ và tình hình đặc điểm của nhân dân các dân tộc Tây Bắc, để phù hợp với giai đoạn cách mạng mới - Đảng ta chủ trưong thực hiện chính sách dân tộc lúc này là cấp bách, nhằm tăng cường khối đại đoàn kết, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau và thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc, đẩy mạnh sản xuất, ổn định đời sống, khắc phục hậu quả do chiến tranh để lại.
Ngày 29/4/1955, Hồ Chủ Tịch ký sắc lệnh số 230/SL thành lập Khu tự trị Thái – Mèo. Ngày 7/5/1955 Khu tự trị thái – Mèo chính thức ra mắt tại Châu Thuận Châu, bao gồm 2 tỉnh: Sơn La – Lai Châu và 2 huyện Văn Chấn, Than Uyên của tỉnh Yên Bái, huyện Phong Thổ của tỉnh Lào Cai.
Ngày 25/5/1955 NH Quốc Gia Việt Nam và Khu uỷ, thống nhất thành lập đại lý ngân hàng Khu tự trị Thái - Mèo. Theo chỉ đạo của Uỷ Ban hành Chính lâm thời tỉnh Lai Châu, chi nhánh ngân hàn tỉnh chính thức khai trương và bắt đầu hoạt động từ ngày 1/1/1963, chi điếm Mường Lay thành trụ sở của ngân hàng tỉnh.
Ngày 17/12/1982, Tổng Giám đốc NHNN Việt Nam ký quyết định số 109/NH-QG thành lập Chi nhánh ngân hàng Đầu tư & Xây dựng các huyện thị. Chi nhánh ngân hàng Đầu tư Phát triển tỉnh Lai Châu được thành lập theo quyết định số 116/QĐ-NH ngày 30/12/1982 của Tổng Giám đốc NHNN Việt Nam.
Thực hiện quyết định số 20/QĐ-TCCB ngày 29/3/1990 của Tổng Giám đốc NHNN Việt Nam: “Cho phép ngân hàng Đầu tư & Xây dựng Việt Nam được thành lập phòng Đầu tư Phát triển tại các tỉnh - để thực hiện nhiệm vụ về cấp phát và tín dụng, đầu tư xây dựng cơ bản thuộc phạm vi hoạt động của ngân hàng Đầu tư 7& Phát triển Việt Nam. Phòng Đầu tư & Xây dựng có nhiệm vụ: quản lý nguồn cấp phát về tín dụng, nhận gửi và huy động các nguồn vốn, thẩm định các dự án và các luận chứng kinh tế, thực hiện nhiệm vụ tín dụng, thanh toán và kế toán”.
Ngày 25/4/1990, tổng Giám đốc ngân hàng Đầu tư & Xây dựng Việt Nam ký Quyết định số 89/QĐ-TCCB về việc thành lập phòng đầu tư và phát triển tỉnh Lai Châu trực thuộc ngân hàng Đầu tư & Xây dựng Việt Nam.
Theo quyết định số 401- CH của Chủ tịch HĐBT nước Việt Nam ngày 14/11/1990, ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam được đổi thành ngân hàng ĐT&PT Việt Nam (BIDV). Ngày 26/11/1990, Thống đốc NHNN Việt Nam ký quyết định số 105/NH – QĐ về việc chuyển Chi nhánh ngân hàng Đầu tư và Xây dựng khu vực tỉnh – thành phố thành các chi nhánh NHĐT&PT tỉnh, thành phố, đồng thời chuyển các phòng Đầu tư & Xây dựng thành Chi nhánh NHĐT&PT có hiệu lực thi hành từ ngày 1/11/1991.
Thực hiện Quyết định này, phòng ĐT&PT tỉnh Lai Châu chuyển thành Chi nhánh NHĐT&PT tỉnh Lai Châu. Tổ ĐT&PT huyện chuyển thành phòng ĐT&PT, các tổ nghiệp vụ được chuyển thành các phòng.
Từ ngày 1/1/2004, thực hiện chủ trương chia tách tỉnh Lai Châu cũ thành 2 tỉnh: Lai Châu mới và Điện Biên, Chi nhánh NHĐT&PT Lai Châu cũ trở thành chi nhánh ngân hàng ĐT&PT Điện Biên và là chi nhánh cấp 1.
Đến nay, Chi nhánh NHĐT&PT Điện Biên là một NHTM Nhà nước trực thuộc NHĐT&PT Việt Nam – kinh doanh đa năng, lấy phục vụ đầu tư và phát triển làm chủ đạo.
2.1.1.2 Cơ cấu tổ chức
NHĐT&PT Điện Biên là chi nhánh trực thuộc NHĐT&PT Việt Nam, có địa bàn hoạt động chủ yếu trên địa bàn tỉnh Điện Biên. Tính đến thời điểm 31/12/2005, bộ máy tổ chức của toàn chi nhánh gồm:
- 01 chi nhánh cấp 1, với 9 phòng ban, cụ thể: phòng tín dụng, phòng thẩm định & quản lý tín dụng, phòng nguồn vốn, phòng tổ chức hành chính, phòng kế toán, phòng dịch vụ khách hàng, phòng tiền tệ kho quỹ, phòng kiểm soát, phòng tổ chức cán bộ.
01 phòng giao dịch ở Bản Phủ.
Điều hành Chi nhánh là ban Giám đốc, Giám đốc phụ trách kiêm công tác tổ chức cán bộ và công tác kiểm soát nội bộ. Các phó Giám đốc được phân công phụ trách các phòng ban cụ thể. Đứng đầu các phòng ban là các trưởng phòng, có nhiệm vụ lãnh đạo tổ chức chỉ đạo điều hành và thực hiện chức năng nhiệm vụ của phòng và chịu trách nhiệm trước giám đốc về các nghiệp vụ chuyên môn của phòng.
Tính đến thời điểm cuối tháng 3 năm 2006, tổng số cán bộ của NHĐT&PT Điện Biên là 57 người. Trong đó có tới 75% là trình độ đại học và trên đại học, còn lại là những cán bộ có trình độ cao đẳng, trung cấp hoặc đại học tại chức.
2.1.1.3 Chức năng và nhiệm vụ
NHĐT&PT Điện Biên có các chức năng nhiệm vụ như sau:
- Nhận tiền gửi bằng VNĐ và ngoại tệ, tiền gửi của các tổ chức kinh tế xã hội, tiền gửi của các tầng lớp dân cư dưới các hình thức gửi thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm.
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu với nhiều mức lãi suất hấp dẫn.
- Cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn bằng Việt nam đồng (VNĐ) và ngoại tệ đối với pháp nhân, cá nhân, hộ gia đình trong các lĩnh vự sản xuất kinh doanh, dịch vụ, tiêu dùng.
- Nhận cầm cố trái phiếu kho bạc Nhà nước, cầm cố sổ tiết kiệm, kỳ phiếu, các loại giấy tờ có giá khác do Ngân hàng đầu tư và phát triển Điện Biên và các TCTD khác phát hành.
- Cho vay các dự án đầu tư.
- Mở tài khoản tiền gửi thanh toán cho các tổ chức và cá nhân; Chuyển tiền điện tử và thanh toán trong phạm vi cả nước nhanh chóng, chính xác với công nghệ thông tin hiện đại; Thu hộ chi hộ theo yêu cầu của khách hàng; Thục hiện uyr nhiệm chi trả tiền lương cho các cơ quan doanh nghiệp.
- Thực hiện các dịch vụ bảo lãnh; Thực hiện các dịch vụ ngân quỹ; Đại lý bảo hiểm; Dịch vụ vấn tin số dư tài khoản qua điện thoại di động (BSMS)
Ngoài ra còn thực hiện một số chức năng nhiệm vụ khác.
2.1.2 Giới thiệu chung về doanh nghiệp xây lắp
2.1.2.1 Khái niệm về doanh nghiệp xây lắp (DNXL)
Theo Luật doanh nghiệp – Quốc hội thông qua ngày 12/6/1999 thì doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp là doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được thành lập theo quy định của pháp luật, có đăng ký kinh doanh về xây dựng.
Trách nhiệm của các Doanh nghiệp xây lắp:
- Đăng ký hoạt động xây dựng tại nơi các cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
- Chịu trách nhiệm trước pháp luật về các nội dung đã cam kết trong hợp đồng, bao gồm cả số lượng, chất lượng, tính chính xác của sản phẩm theo thời gian thực hiện hợp đồng, có quy định và hướng dẫn sử dụng công trình trước khi bàn giao công trình xây dựng, thực hiện bảo lãnh chất lượng sản phẩm xây dựng và công trình theo quy định.
- Thực hiện chế độ bảo hiểm công trình xây dựng, thực hiện an toàn lao động, bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình xây dựng. Thông tin rộng rãi về năng lực hoạt động của doanh nghiệp để chủ đầu tư biết và lựa chọn.
2.1.2.2 Đặc điểm Doanh nghiệp xây lắp
Trong quá trình đầu tư xây dựng cơ bản nhằm tạo ra cơ sở vật chất chủ yếu cho nền kinh tế quốc dân, các tổ chức xây lắp nhận thầu giữ vai trò quan trọng. Hiện nay, ở nước ta đang tồn tại các tổ chức xây lắp như: Tổng công ty, công ty, xí nghiệp, đội xây dựng... thuộc mọi thành phần kinh tế. Tuy các đơn vị này khác nhau về quy mô sản xuất, hình thức quản lý nhưng đều là những tổ chức nhận thầu xây lắp và mang những đặc điểm sau:
Về loại hình tổ chức sản xuất, ngành nghề hoạt động
XDCB là một ngành nghề kinh tế quốc dân tronglĩnh vực sản xuất vật chất có chức năng tái sản xuất, các TSCĐ có tính chất sản xuất và không có tính sản xuất của nền kinh tế quốc dân. Lĩnh vực hoạt động của xây lắp rất rộng và nhiệm vụ của nó rất lớn là xây dựng mới khôi phục và sửa chữa TSCĐ.
Công trình xây dựng được phân loại như sau:
- Công trình dân dụng: nhà ở, chung cư, công trình công cộng
- Công trình giao thông: công trình đường bộ, công trình đường sắt, cầu hầm...
- Công trình thuỷ lợi: hồ chứa nước, đập, cống, đường ống dẫn,...
- Công trình công nghiệp: công trình khai thác quặng, khai thác than...
- Công trình hạ tầng kỹ thuật: công trình cấp nước, thoát nước, nhà máy...
Đặc điểm của sản phẩm xây lắp
Sản phẩm xây lắp có đặc điểm riêng biệt khác với các ngành sản xuất khác, đó là:
- Sản phẩm xây lắp là những công trình xây dựng, vật kiến trúc... có quy mô lớn, kết cấu phức tạp mang tính đơn chiếc, thời gian sản xuất sản phẩm xây lắp lâu dài, chu kỳ sản xuất có biên độ dao động từ 3 tháng đến 3 năm. Chu kỳ sống của các công trình XDCB thông thường cũng từ 30 năm trở lên và côngảtình này có đặc tính bền vững trong không gian. Đặc điểm này đòi hỏi việc tổ chức quản lý và hoạch toán sản phẩm xây lắp nhất thiết phải lập dự toán. Quá trình sản xuất sản phẩm xây lắp phải so sánh với dự toán.
- Sản phẩm xây lắp được tiêu thụ theo giá dự toán hoặc giá thoả thuận với chủ đầu tư ( giá thầu), do đó tính chất hàng hóa của sản phẩm xây lắp không thể hiện rõ ( vì đã quy định giá cả, người mua, người bán sản phẩm xây lắp có từ khi xây dựng thông qua hợp đồng nhận thầu...).
- Sản phẩm xây lắp cố định tại nơi sản xuất, còn các điều kiện để sản xuất ( xe máy, thiết bị thi công, người lao động,...) phải di chuyển theo địa điểm đặt sản phẩm. Đặc điểm này làm cho công tác quản lý sử dụng, hoạch toán bán tài sản, vật tư rất phức tạp do ảnh hưởng của điều kiện thiên nhiên, thời tiết và dễ mất mát hư hỏng.
- Sản phẩm xây lắp từ khi khởi công cho đến khi hoàn thành công trình bàn giao đưa vào sử dụng thường kéo dài. Nó phụ thuộc vào quy mô, tính phức tạp về kỹ thuật của từng công trình. Quá trình thi công được chia thành nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn lại chia thành nhiều công việc khác nhau, các công việc thường diễn ra ngoài trời như nắng, mưa, lũ lụt... Đặc điểm này đòi hỏi việc tổ chức quản lý, giám sát chặt chẽ sao cho bảo đảm chất lượng công trình đúng như thiết kế, dự toán. Các nhà thầu phải có trách nhiệm bảo hành công trình.
- Quá trình sản xuất xây lắp phức tạp đòi hỏi các nhà tổ chức xây lắp phải có trình độ, tổ chức phối hợp cao trong sản xuất, phải phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức xây dựng tổng thầu hay thầu chính và các tổ chức thầu phụ.
Đặc điểm chu chuyển vốn sản xuất kinh doanh của DNXL
Các đơn vị xây lắp là các đơn vị ký hợp đồng với các Chủ đầu tư chịu trách nhiệm trong vấn đề xây dựng các công trình theo thiết kế của Chủ đầu tư. Điều này cho thấy các đơn vị xây lắp ngày càng giữ vai trò quan trọng không những đối với chất lượng công trình mà còn cả về phương diện tài chính.
Cũng như mọi doanh nghiệp khác, muốn tiến hành sản xuất kinh doanh cần có một số vốn thích đáng để đầu tư vào TSLĐ. Số tiền ứng trước về những tài sản đó được gọi là vốn lưu động của doanh nghiệp. Để quản lý vốn lưu động được tốt cần phải phân loại vốn lưu động. Với doanh nghiệp xây lắp, vốn lưu động cũng dựa trên các qui định chung và được chia thành:
- Vốn lưu động nằm trong quá trình dự trữ sản xuất.
- Vốn lưu động nằm trong quá trình trực tiếp sản xuất.
- Vốn lưu động nằm trong quá trình lưu thông.
Đối với Doanh nghiệp xây lắp, sản phẩm bao giờ cũng được thi công ngay tại chỗ, cho nên sản phẩm không phải nhập kho và không phải vận chuyển tới nơi tiêu thụ. Mặt khác, việc thi công xây lắp sản xuất theo đơn đặt hàng cho nên sản phẩm xây lắp không khó khăn gì trong việc tiêu thụ sản phẩm. Ngay sau khi hoàn thành, công trình sẽ được bàn giao cho người giao thầu. Như vậy, nhu cầu về vốn thành phẩm ở đây được xuất phát từ sản lượng xây lắp phải bàn giao kết toán trong kỳ kế hoạch và thời gian cần thiết để làm thủ tục và các giấy tờ thanh toán.
Với những nét đặc thù trên đây cho thấy, việc cho vay, đầu tư vào ngành xây lắp của các Ngân hàng là hết sức phức tạp, gặp nhiều khó khăn trong khâu nghiên cứu, thẩm định dự án đấu thầu, phương án sản xuất kinh doanh do các doanh nghiệp lập ra. Vì vậy, các NHTM nói chung và NHĐT&PT nói riêng cần quan tâm, nghiên cứu để có phương thức, biện pháp cho vay, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng mang lại hiệu của cho ngành kinh tế nói chung cũng như cho ngân hàng nói riêng.
2.1.2.3 Thực trạng hoạt động của Doanh nghiệp xây lắp trên địa bàn tỉnh
Điện Biên
Hiện nay, tỉnh Điện Biên đã và đang từng bước triển khai các chương trình kinh tế – xã hội trọng tâm đến năm 2006 theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Điện Biên lần thứ IX. Điện Biên đang tiếp tục tập trung triển khai các dự án quy hoạch đô thị, đầu tư xây dựng nhiều dự án nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển sản xuất công nghiệp địa phương. Triển khai thực hiện các chương trình hành động miền núi Tây nguyên; các dự án xây dựng thuỷ điện Sơn La và dự án tái định cư... Đồng thời, tỉnh cũng đẩy mạnh xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng như: hệ thống đường giao thông, cấp nước sạch, hiện đại hóa mạng lưới thông tin, tôn tạo khu di tích lịch sử...
Toàn tỉnh Điện Biên trong năm 2005 có khoảng 250 doanh nghiệp tăng 39% so với năm 2004, trong đó có 48 DNQD, còn lại là DNNQD. Các Doanh nghiệp này đang tiếp tục điều chỉnh và thực hiện phương án sắp xếp, ổn định và phát triển sản xuất. Tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp đang được triển khai thực hiện có kết quả, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đang phát triển.
Số doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp chiếm tới 60% tổng số doanh nghiệp. Khối các doanh nghiệp này đang tập trung đổi mới, bổ sung thiết bị thi công đồng bộ, tăng năng lực cạnh tranh trong đấu thầu, mở rộng thi công được nhiều công trình, đa dạng hoá sản phẩm. Nhiều đơn vị khai thác, mở rộng được các sản phẩm vật liệu xây dựng đáp ứng cho nhu cầu thi công.
Trong những năm qua, các DNXL hoạt động trên địa bàn tỉnh Điện Biên đã đạt được những kết quả đáng khích lệ sau:
- Thứ nhất, tỷ trọng đầu tư của các DNXL liên tục tăng và có gần 60% dư nợ tín dụng tập trung cho đầu tư xây dựng cơ bản. Đây cũng là nét đặc thù trong đầu tư tín dụng của tỉnh Điện Biên, vì phải tập trung vốn cho đầu tư xây dựng nâng cấp và tôn tạo nhiều công trình trọng điểm phục vụ kỷ niệm 50 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, nâng cấp mới một số tuyến đường giao thông nông thôn,...
- Thứ hai, sự phát triển của DNXL đóng góp tăng trưởng kinh tế của tỉnh. GDP của tỉnh Điện Biên liên tục tăng trong các năm, năm 2005 GDP đạt 10,2%. Để đạt được kết quả này có sự đóng góp rất lớn của các DNXL, các doanh nghiệp này hàng năm đóng góp khoảng 45% vào ngân sách của tỉnh.
- Thứ ba, sự phát triển của các DNXL góp phần tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Do đặc điểm của sản phẩm xây lắp có nhiều điểm khác biệt so với các ngành khác, cho nên các DNXL có thể sử dụng được lao động tại chỗ với giá rẻ và không tốn nhiều chi phí.
Nhự vậy, sự có mặt của các doanh nghiệp xây lắp đã góp phần quan trọng vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng cơ sở hạ tầng mang lại bộ mặt mới cho tỉnh Điện Biên đối với các du khách, góp phần tăng ngân sách của tỉnh, tạo công ăn việc làm... Việc các doanh nghiệp xây lắp làm ăn có hiệu quả sẽ giúp Chi nhánh NHĐT&PT Điện Biên tăng doanh số cho vay, hạn chế được rủi ro do khách hàng không trả được nợ, hiệu quả kinh doanh được nâng cao.
Tuy nhiên do tỉnh Điện Biên vẫn còn là một tỉnh nghèo, nền kinh tế chưa thực sự phát triển, thu nhập bình quân đầu người thấp, trình độ dân trí còn thấp, ngân sách của tỉnh còn hạn chế. Các tổng công ty và các ngành công nghiệp lớn chưa có, các doanh nghiệp trong tỉnh chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, làm ăn còn kém hiệu quả. Phần lớn các doanh nghiệp là hoạt động trong lĩnh vực xây lắp còn khó khăn về vốn, đa số các doanh nghiệp này có vốn tự có thấp, vốn hoạt động chủ yếu vay ngân hàng, tuy nhiên lại thiếu các điều kiện đảm bảo vốn vay nên số vốn vay được là rất không nhiều so với nhu cầu. Trình độ quản lý của các doanh nghiệp còn hạn chế, nhiều doanh nghiệp nhà nước chỉ lo chạy các dự án mới để có lợi cho mình còn việc xử lý những rủi ro, tổn thất của những dự án trước đó lại rất ít và ỉ lại rất nhiều vào nhà nước.
Do các doanh nghiệp xây lắp phần lớn khách chính của NHĐT&PT Điện Biên, cho nên để làm ăn có hiệu quả và tránh được rủi ro, Chi nhánh cần phải nắm do về tình hình hoạt động của các doanh nghiệp, thẩm định dự án vay vốn một cách chắc chắn, thường xuyên kiểm tra việc sử dụng các khoản vay và phải thu nợ kịp thời...
2.2 THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP XÂY LẮP TẠI CHI NHÁNH NHĐT&PT ĐIỆN BIÊN
2.2.1 Những quy định về tín dung đối với Doanh nghiệp xây lắp tại BIDV
Để chấn chỉnh hoạt động tín dụng trong lĩnh vực xây lắp nhằm nâng cao chất lượng dư nợ, khắc phục những vướng mắc cần được tháo gỡ và thống nhất như:
- Về nguồn vốn thanh toán: Nhiều hợp đồng thi công ký kết không đề cập rõ về nguồn vốn, lịch thanh toán,... Bên chủ đầu tư (bên A) không cung cấp tài liệu chứng minh về nguồn vốn nhưng hợp đồng nhận thầu đã ký thì vẫn phải thi công, trong khi đó chính BIDV có thể đã phát hành thư bảo lãnh.
- Về tài sản đảm bảo nợ vay: Hầu hết các Khách hàng vay vốn thi công xây lắp đều có nguồn vốn chủ sở hữu thấp nên giá trị tài sản đảm bảo là rất nhỏ, trong khi đó nhu cầu vay rất cao. Để đảm bảo an toàn vốn vay, BIDV đã hướng dẫn áp dụng giá trị khối lượng xây dựng cơ bản hoàn thành chờ thanh toán làm tìa sản đảm bảo nhưng nhiều Chi nhánh chưa kiên quyết yêu cầu, hướng dẫn và phối hợp khách hàng để thực hiện.
- Số liệu báo cáo tổng hợp để theo dõi về cho vay xây lắp chưa chính xác do tiêu thức báo cáo được người lập báo cáo và Chi nhánh hiểu chưa đồng nhất nên số liệu báo cáo có thể chỉ là dư nợ liên quan trực tiếp đến cho vay thi công xây lắp, có thể bao gồm dư nợ cho vay BT - BOT - Đầu tư hạ tầng, khu đô thi, cũng có thể là tổng dư nợ theo từng khách hàng hoạt động trong lĩnh vực xây lắp (trong đó có cả dư nợ cho lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác),... Do vậy số liệu tổng hợp chưa phản ánh đúng bản chất của vấn đề cho vay xây lắp.
Trước tình hình đó, NHĐT&PT Việt Nam đã ban hành công văn số 6676/CV - TD ngày 06/12/2005 với nội dung chỉ đạo “tiếp tục tăng cường chấn chỉnh công tác tín dụng trong lĩnh vực xây lắp” với những nội dung sau:
2.2.1.1 Những quy đinh chung
a) Khái niệm, đặc điểm
Cho vay phục vụ thi công xây lắp được hiểu là những khoản vay trực tiếp liên quan, phục vụ cho doanh nghiệp thực hiện các hợp đồng, thi công các công trình xây lắp. Dư nợ này bao gồm:
- Dư nợ cho vay ngắn hạn (VLĐ) để doanh nghiệp thanh toán chi trả tiền nguyên nhiên vật liệu, vật tư, nhân công, thuê máy móc thiết bị phương tiện thi công và các công trình hợp lý khác cấu thành trong giai đoạn công trình nhận xây lắp.
- Dư nợ cho vay trung, dài hạn để doanh nghiệp đầu tư mua sắm máy móc thiết bị, phương tiện thi công xây lắp.
Hoạt động thi công xây lắp có tính đặc thù nên nghiệp vụ cho vay phục vụ thi công xây lắp cũng có những đặc điểm riêng:
- Việc cho vay phải căn cứ trên cơ sở hợp đồng giao nhận thầu xây lắp đã được ký kết giữa khách hàng và chủ đầu tư, nguồn trả nợ ngân hàng thông thường là tiền được chủ đầu tư thanh toán cho khách hàng theo giá trị công trình đã hoàn thành. Khi cho vay, ngân hàng đã biết được vốn vay được đầu tư vào đối tượng cụ thể và nguồn thanh toán để thu nợ.
- Thời gian thi công, nghiệm thu, quyết toán và thanh toán của công trình thường kéo dài, do đó vòng quay VLĐ của doanh nghiệp thi công xây lắp thường chậm hơn vòng quay VLĐ của những lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác. Vì vậy, trong nghiệp vụ cho vay (ngắn hạn) phục vụ thi công xây lắp, thời gian thường dài hơn thời gian vay của các lĩnh vực khác.
- Nguồn thu để trả nợ vay là nguồn thanh toán giá trị hoàn thành công trình, do vậy trước khi cho vay, ngân hàng phải xác định rõ nguồn vốn thanh toán của công trình về loại nguồn, số lượng, thời gian thanh toán, điều kiện thanh toán... Sau khi cho vay phải theo dõi chặt chẽ tiến độ thi công, thanh toán để thu hồi nợ vay.
b) Mục đích cho vay:
Sản phẩm tín dụng này quy định về đặc điểm, các điều kiện áp dụng và quy trình thực hiện của nghiệp vụ cho vay ngắn hạn phục vụ hoạt động thi công xây lắp. Đây là một sản phẩm tín dụng truyền thống của NHĐT&PT Việt Nam. Mục đích của sản phẩm là:
- Đáp ứng kịp thời phần vốn thiếu hụt trong nhu cầu vốn cho các nhà thầu tham gia thi công các công trình đã nhận thầu đảm bảo đúng tiến độ, chất lượng và hiệu quả chính.
- Giúp quá trình cho vay diễn ra thống nhất, khoa học, hạn chế phòng ngừa rủi ro để không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng. Xác định rõ cho vay và trách nhiệm của người thực hiện.
2.2.1.2 Những quy định cụ thể về cho vay phục vụ thi công xây lắp
a) Về cho vay trung dài hạn:
- Chi nhánh chỉ xem xét cho vay đối với khách hàng tốt, có tín nhiệm, có đủ điều kiện tín dụng (kết quả kinh doanh có lãi, có đư vốn tự có tham gia dự án, có tài sản bảo đảm theo quy định hiện hành...).
- Khi thẩm định dự án phải quan tâm phân tích về khả năng phát huy hiệu quả tài sản đầu tư: Năng lực quản lý vận hành tài sản, sự hợp lý của chủng loại và chất lượng của tài sản đầu tư, khối lượng công việc có thể có để tài sản phát huy công suất theo dư kiến,...
b) Về cho vay ngắn hạn:
- Chi nhánh căn cứ vào năng lực tài chính, mức độ tín nhiệm, nhu cầu phát sinh khoản vay thường xuyên, tính ổn định và hiệu quả trong việc thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh của khách hàng để xác định và ký hợp đồng tín dụng hnạ mức có hiệu lực theo kế hoạch. Việc giải ngân thông qua từng hợp đồng tín dụng cụ thể được xem xét theo từng công trình, hợp đồng thi công xây lắp theo đúng quy định số 925/CV – TDDV1.
Đối với trường hợp khách hàng không đủ điều kiện cho vay theo hạn mức, Chi nhánh xem xét cho vay theo món theo quy định.
Chi nhánh làm việc trực tiếp và thông báo tới khách hàng biết điều kiện, cách thức cho vay hỗ trợ phục vụ thi công xây lắp của BIDV. Trong đó cần cụ thể hoá một số vấn đề, các điều kiện công trình nhận thầu cần đảm bảo: Giá trị hợp đồng, nguồn vốn thanh toán (xác định có căn cứ kèm theo và có thể tiếp tục bổ sung), thời gian (tiến độ) thực hiện thi công và thanh toán, phương thức thanh toán duy nhất là chuyển khoản về tài khoản của Doanh nghiệp mở tại Chi nhánh... Căn cứ để giải ngân theo từng công trình; Nội dung kiểm tra sử dụng vốn vay. Đồng thời bổ sung vào khoản 1 Điều 3 về “điều kiện rút vốn” của hợp đồng tín dụng hạn mức những nội dung yêu cầu trên.
- Về căn cứ nguồn vốn để cho vay: Tuỳ theo tính chất đảm bảo chắc chắn của nguồn vốn thanh toán công trình trong kỳ cho vay để Chi nhánh xem xét tính toán mức cho vay để dảm bảo khả năng thu hồi đầy đủ, đúng hạn nợ gốc và lãi. Doanh số cho vay không vượt quá 80% giá trị nguồn vốn thanh toán của công trình.
- Thực hiện cho vay theo từng công trình, Chi nhánh bám sát tình hình thi công của Doanh nghiệp để đôn đốc thanh toán ở diểm dừng kỹ thuật có khả năng nghiệm thu thanh toán, khống chế giá trị khối lượng dở dang ở mức hợp lý so với giá trị hợp đồng thi công, tránh để dở dang cao dẫn đến tồn đọng vốn.
- Để cho vay không trùng lặp và đảm bảo quản lý được ngu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nâng cao chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp xây lắp tại Chi nhánh NHĐT&PT Điện Biên.doc