Quá Trình Phổ Biến Và Các Tác
Động Của Chương Trình Quản Lý
Trường Hợp Đến Kết Quả Điều Trị
Theo Brindis và Theidon (1997): trong khi việc
đưa phương pháp quản lý trường hợp vào quá
trình điều trị lạm dụng chất gây nghiện đang
trở thành xu hướng, vẫn còn một số thông tin
xung quanh kết quả áp dụng các phương pháp
can thiệp này trên bệnh nhân lạm dụng chất
gây nghiện, đặc biệt là những người có nhiễm
HIV/AIDS (theo Brindis và cộng sự, 1995). Các
nghiên cứu đã cho thấy: quản lý trường hợp có
thể cải thiện việc tiếp cận các chăm sóc sức khỏe
và việc cung cấp dịch vụ cho người tiêm chích
ma túy. Đồng thời, phương pháp này cũng có thể
làm giảm rủi ro nhiễm HIV đối với một người
tiêm chích ma túy và do đó kéo dài thời gian sống
cho họ (theo McCoy và cộng sự, 1992). Người
ta cũng chứng minh được: quản lý trường hợp có
thể giúp bệnh nhân tiếp cận được với quá trình
điều trị (theo Bokos và cộng sự, 1992).
Một nghiên cứu gần đây chứng minh rằng
những người tiêm chích ma túy khi được áp
dụng phương pháp quản lý trường hợp đã tiến
hành điều trị dễ dàng hơn so với những người
không áp dụng. Hơn thế nữa, những người này
duy trì quá trình điều trị trong một thời gian
dài hơn và cho thấy kết quả điều trị tốt hơn so
với các bệnh nhân còn lại (theo Mejta và cộng
sự, 1997). Trong một nghiên cứu về quản lý
trường hợp với những người nghiện rượu mãn
tính, bệnh nhân được điều trị bằng phương pháp
quản lý trường hợp có khả năng tăng thu nhập,
giảm số lần qua đêm ngoài đường, và tăng thời
gian sinh hoạt ở nhà. Rõ ràng còn nhiều dữ liệu
về kết quả cần được thu thập thêm trước khi kết
luận sâu rộng về hiệu quả của quản lý trường
hợp như là một cách can thiệp có thể được phổ
biến rộng rãi. Tuy nhiên, hoàn toàn thích đáng
khi lưu ý rằng trong nhiều trường hợp, quản lý
trường hợp đã có hiệu quả trong việc giúp đỡ
những bệnh nhân lạm dụng chất gây nghiện.
354 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 472 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nâng cao động lực để thay đổi trong điều trị lạm dụng chất gây nghiện - Phác đồ cải thiện điều trị Tip 37, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dục khác giới. Đây là một hình thức sợ
khác có quyền hành chính trị và xã hội, bằng
người đồng tính theo thể chế mà cho rằng
cách giữ riêng cho mình quyền lực đó.
mọi người nên quan hệ tình dục khác giới và
do đó bác bỏ những nhu cầu, mối quan tâm, • Quấy phá người đồng tính bao gồm những
và những trải nghiệm cuộc sống của người hành động hay lời nói ám chỉ hoặc khẳng
đồng tính và người ái nam ái nữ. định rằng sự có mặt của người đồng tính
làm tổn thương hay làm mất phẩm giá một
• Bộc lộ có thể là phần quan trọng nhất của
hệ thống xã hội. Mục đích là nhằm làm tổn
quá trình phát triển sự đồng tính. Đó là quá
Tư vấn cho khách hàng bị các chứng rối loạn lạm dụng chất gây nghiện và nhiễm HIV 139
thương, hạ thấp nhân phẩm, dọa nạt, hay • Theo kịp thông tin hiện có về những nguồn
kiểm soát và ngăn chặn xã hội thay đổi ý lực và trưng bày những thông tin này trong
kiến hoặc chấp nhận người đồng tính trong văn phòng của bạn. Hãy tham dự những buổi
hệ thống xã hội. tập huấn và hội thảo chuyên môn về việc tác
nghiệp với bệnh nhân đồng tính.
Những định nghĩa này có thể giúp nhà tư vấn
nhận thức được sự phân biệt đối xử với người Sợ bị lây nhiễm
đồng tính trong quá trình điều trị HIV/AIDS
và cai nghiện. Dưới đây là danh sách một số Nỗi sợ bị lây nhiễm là một trong những vấn đề
“Điều nên làm” cần phải nhớ khi làm việc thách thức nhất đối với các nhà tư vấn. Điều
với bệnh nhân đồng tính (được điều chỉnh từ quan trọng là nhà điều trị phải xem xét vấn đề
Storms, 1994). này mà không đổ lỗi hay phán xét bản thân
mình hay những người khác. Hầu hết các bác sĩ
• Nhận diện những sức mạnh của bệnh nhân
làm việc với những người nghiện dương tính với
đồng tính và chấp nhận chúng khi bạn tìm
HIV đều từng nghĩ đến việc bị lây nhiễm HIV,
thấy chúng.
viêm gan hay bệnh lao trong quá trình làm việc
• Lắng nghe một cách cảm thông và kiềm chế (Sherman và Ouellette, 1999). Một vài người
không phán xét về lối sống của bệnh nhân. sợ rằng các nhà khoa học không biết được
• Duy trì ý thức về quan điểm tình dục của những đường lây nhiễm mà có thể đưa nhà điều
bệnh nhân và những tác động có thể có của trị cùng gia đình của họ vào nguy cơ nhiễm
quan điểm này tới kinh nghiệm và triết lý bệnh cao (Montgomery và Lewis, 1995). Chìa
sống của bệnh nhân. khóa để giải quyết nỗi sợ này là thảo luận về
nó và thổ lộ những cảm giác đó với người nào
• Khám phá các hành vi tình dục của bệnh đó an toàn, đáng tin cậy và hiểu biết, và luôn
nhân với ý thức tìm kiếm hiện tượng dung luôn thực hiện những biện pháp phòng ngừa
nạp sự sợ người đồng tính. tiêu chuẩn toàn cầu.
• Ý thức về quan điểm của bạn về trông chừng
Ngoài ra, một điều quan trọng nữa là nhà điều
chứng sợ người đồng tính có thể xảy ra hay
trị phải thường xuyên được đào tạo chuyên
sự lộn xộn trong quan điểm tình dục của
môn với những cập nhật về kết quả nghiên cứu
chính bạn.
và dữ liệu mới nhất về việc phơi nhiễm và biện
• Trang bị kiến thức về hành vi tình dục bộc pháp điều trị HIV/AIDS, viêm gan và bệnh lao.
phát và các hoạt động tình dục trong cộng
đồng người đồng tính Những lưu ý đặc biệt cho các nhà
• Hỏi bệnh nhân đồng tính xem họ thích nói về tư vấn điều trị cho bệnh nhân
điều gì khi thảo luận về quan điểm tình dục nhiễm HIV
của mình và của người khác. Những thách thức và áp lực liên quan đến việc
• Khuyến khích sự tự tin, sự tăng nhận thức, tác nghiệp với người nhiễm HIV/AIDS trong
sự tham gia vào một cộng đồng người đồng một vài khía cạnh là đặc biệt. Việc nhà điều trị
tính. thường làm việc với những nỗi mất mát đa dạng
và thường xuyên và nhìn thấy bệnh nhân đau
• Khuyến khích chương trình của bạn công
đớn hàng ngày rõ ràng là có ảnh hưởng đến sức
khai thuê mướn những nhà tư vấn hay nhà
khỏe tâm lý của nhà điều trị. Trong những năm
điều trị đồng tính.
gần đây, các nhà liệu pháp đã bắt đầu kiểm tra
• Giáo dục người khác về dung nạp sự sợ và đánh giá những triệu chứng rối loạn căng
người đồng tính và chủ nghĩa tình dục khác thẳng sau chấn thương (PTSD) ở các nhà điều
giới. Hãy là người ủng hộ người đồng tính trị này.
thay vì chỉ chấp nhận người đồng tính.
140 Tư vấn cho khách hàng bị các chứng rối loạn lạm dụng chất gây nghiện và nhiễm HIV
Suy nhược thường được xem là “tổn thất quá đặc biệt dành cho những người đã mất vì bệnh
mức chịu đựng”. Một định nghĩa cho suy HIV/AIDS. Các cơ quan cũng có thể hỗ trợ
nhược là sự giảm thấp năng lượng, nhiệt huyết khối thông qua các hợp đồng với những nhà
và lý tưởng khi làm công việc, tức là, sự mất liệu pháp làm việc cho chương trình trợ giúp và
quan tâm đến những người được phục vụ và việc cung cấp một nhóm hỗ trợ trị liệu tại chỗ
đến công việc (Hayter, 1999). Không như mệt cho các thành viên trong khối nếu họ muốn.
mỏi, suy nhược không hồi phục lại được sau
một giai đoạn nghỉ ngơi và giải trí.
Xét nghiệm sàng lọc
Các kỹ thuật ngăn chặn suy nhược và kiểm soát
áp lực nên được sử dụng cả trong công việc lẫn Các nhu cầu cụ thể của bệnh nhân
trong cuộc sống riêng của nhà tư vấn. Làm việc
với những người nghiện bị nhiễm HIV đòi hỏi Một xét nghiệm dương tính với HIV thường dẫn
các cơ quan và các cá nhân phải sáng tạo và linh tới một sự chuyển giao cho đánh giá chính thức,
hoạt hơn trong việc tìm ra những phương thức thường là tới một dịch vụ kiểm soát HIV/AIDS.
mới và đa dạng để hỗ trợ và chăm lo cho các Thông thường, các chương trình cai nghiện cũng
nhà tư vấn nhằm ngăn ngừa chứng suy nhược. cung cấp những chuyển giao đến các dịch vụ
Các cơ quan đã và đang giải quyết thách thức chăm sóc HIV/AIDS. Các nhà điều trị sẽ muốn
này với sự liêm chính và cam kết đều đã được nhận diện các chương trình cai nghiện và các cơ
chứng kiến chức năng khối điều trị phát huy quan với những mạng lưới này. Ở mức tối thiểu,
hiệu quả cao ở mức tối đa trong nhiều năm. các dịch vụ nên bao gồm những nhu cầu sau của
bệnh nhân được xếp theo thứ tự ưu tiên:
Những đề nghị cho các phương thức các cơ
• Cai nghiện
quan có thể dùng để chăm lo cho các nhà tư
vấn trong công việc gồm: • Chăm sóc y khoa
• Giao những nhiệm vụ rõ ràng cụ thể • Nơi ở
• Có những ranh giới rõ ràng trong nhiệm vụ • Chăm sóc sức khỏe tinh thần
chuyên môn • Phục vụ dinh dưỡng
• Lập danh sách những người giúp đỡ tình • Chăm sóc răng miệng
nguyện từ các tổ chức cộng đồng
• Những công việc liên quan
• Cho phép các hoạt động “ngoài giờ”
• Các hệ thống hỗ trợ
• Đa dạng hóa các nhiệm vụ và trách nhiệm
Dưới đây là phần bàn về một số nhu cầu trên.
• Xây dựng những “ngày sức khỏe tinh thần”
• Cung cấp việc giáo dục thường xuyên Cai nghiện tạm thời cho những
• Tổ chức các liệu pháp khối (lên kế hoạch bệnh nhân trong danh sách đợi
những hoạt động vui tươi) Do số lượng các phòng cai nghiện không đủ,
• Tố chức các nhóm thảo luận, điều hành và nên các bệnh nhân thường phải đợi được điều
hỗ trợ trị. Tuy nhiên, những nỗ lực giảm thiểu nguy cơ
có thể được tiến hành trong lúc bệnh nhân chờ
• Triệu tập thường xuyên các buổi họp quản lý được cai nghiện.
khối/ đội
Nếu vẫn không có đủ phòng cai nghiện, các
Ngoài ra, điều quan trọng nữa là các cơ quan nhà tư vấn cai nghiện rượu và ma túy nên
phải cho thời gian thảo luận về cái chết và những chuyển những bệnh nhân cần được chăm sóc
mất mát mà khối phải đối mặt. Điều nó có thể y khoa đến các dịch vụ chăm sóc y tế sơ bộ.
có ý nghĩa là giúp đỡ những sự kiện tưởng nhớ Những bệnh nhân có những triệu chứng hay
Tư vấn cho khách hàng bị các chứng rối loạn lạm dụng chất gây nghiện và nhiễm HIV 141
bệnh trạng rõ ràng hơn có thể được chuyển nghiện đến cơ thể. Sự kết hợp này thường là kết
đến bộ phận cấp cứu. Tuy nhiên, thường thì bộ quả của việc ăn mất ngon, sụt cân (đặc biệt là
phận cấp cứu có khả năng hạn chế trong việc việc các cơ nhỏ đi), vệ sinh kém, ức chế miễn
chăm sóc vết thương và giám sát quá trình bổ dịch, thiếu protein, cạn kiệt vitamin và khoáng
sung dinh dưỡng. Những bệnh nhân không có chất, và thiếu máu. Ngoài ra, nhà điều trị cũng
triệu chứng hay bệnh trạng rõ rệt nhưng cần nên xác định xem sự thiếu dinh dưỡng rõ ràng
chăm sóc y tế nên được chuyển đến dịch vụ y có liên quan gì với bệnh về tiêu hóa hay giun
tế sơ bộ, hoặc chuyển đến bác sĩ của chính họ sán hay không.
hoặc chuyển đến các bệnh viện hay dịch vụ y
tế sơ bộ. Dinh dưỡng tốt là một phần quan trọng của
toàn thể quá trình chăm sóc y tế. Nó cải thiện
Chăm sóc y tế sơ bộ sức mạnh, năng lượng, tuổi thọ, và chất lượng
cuộc sống; tăng kích cỡ cơ bắp và trọng lượng
Chăm sóc y tế sơ bộ nên bao gồm một cuộc cơ thể; làm giảm khả năng và thời gian nằm
kiểm tra sức khỏe toàn diện, điều trị HIV/ viện, và làm chậm quá trình từ HIV chuyển
AIDS (ví dụ, liệu pháp kết hợp) và điều trị các sang AIDS.
bệnh nhiễm trùng cơ hội. Ví dụ, việc nghiện kéo
dài có thể dẫn đến sụt cân, ăn mất ngon, tiêu Không có chế độ dinh dưỡng thích hợp, những
hóa kém, bài tiết yếu, rối loạn chức năng gan bệnh nhân HIV/AIDS có thể dễ dàng trở nên
và thận, và chức năng hệ miễn dịch kém. Xem thiếu dinh dưỡng. Những nguyên nhân khác
Chương 2 để biết thêm thông tin về việc chăm nhau của việc suy dinh dưỡng và sụt cân bao gồm
sóc y tế cho bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS. • Ăn không đủ thức ăn
Chăm sóc sức khỏe tinh thần • Biếng ăn
• Hấp thụ thức ăn kém
Chẩn đoán cho thấy mắc bệnh tâm thần có thể
phán ánh những phản ứng cảm xúc và tâm trạng • Quá trình trao đổi chất thay đổi
của bệnh nhân đối với kết quả y khoa này, có • Phản ứng giữa thức ăn và thuốc
thể là kết quả của một quá trình tự dùng thuốc,
• Thiếu hormone nam
hay có thể phản ánh những biến chứng tâm
thần của HIV/AIDS, cũng như một rối loạn • Không có nơi nấu ăn
sức khỏe tâm thần có từ trước đó. Việc chăm • Thu nhập hạn chế
sóc sức khỏe tinh thần nên bao gồm cả một
cuộc kiểm tra tâm thần và các xét nghiệm tình • Phụ thuộc vào các chương trình lương thực
trạng sức khỏe tâm thần đầy đủ (xem Chương cộng đồng
3). Các nhà điều trị nên lưu ý và báo cho những Khi bị suy dinh dưỡng, bệnh nhân sụt cân và
bệnh nhân và các bác sĩ tâm thần biết rằng các trải qua một số thay đổi về cấu trúc cơ thể. Bị
biến chứng có thể xuất hiện khi dùng những đói lâu dài dẫn đến sự mất chất béo cơ thể và
thuốc được kê đơn để chữa các vấn đề về bệnh giảm kích cỡ cơ bắp. Hội chứng sụt cân gây ra
tâm thần và tương tác giữa lượng thuốc dư hiện tượng mất một khối lượng cơ thể lớn, đi
trong cơ thể với những thuốc chữa HIV/AIDS kèm tiêu chảy và sốt, và được xem là một triệu
cùng với các bệnh nhiễm trùng cơ hội. chứng giúp xác định AIDS từ năm 1987. Mức
độ gầy đi của cơ thể cho biết khoảng thời gian
Chăm sóc dinh dưỡng sống còn lại của bệnh nhân.
Những bệnh nhân nghiện chung sống với HIV/ Hội chứng loạn dưỡng lipid
AIDS thường có dinh dưỡng kém hoặc thiếu
dinh dưỡng vì những lối sống đường phố, Hội chứng loạn dưỡng lipid xảy ra vào đầu giai
ảnh hưởng của bệnh HIV, ảnh hưởng của việc đoạn cuối của AIDS và làm cấu trúc cơ thể bị
142 Tư vấn cho khách hàng bị các chứng rối loạn lạm dụng chất gây nghiện và nhiễm HIV
thay đổi cùng nhiều thay đổi về hormone và massage, yoga, xoa bóp, thuốc vi lượng đồng
sinh lý. Nguyên nhân của hội chứng này và căn, thuốc bổ trợ, dưỡng sinh, khí công và các
mối quan hệ của nó với HIV và thuốc kìm hãm hoạt động tôn giác khác.
proteaza vẫn chưa được biết. Do bản chất làm
biến dạng của một số triệu chứng, hội chứng Chăm sóc răng miệng
loạn dưỡng lipid có thể đặc biệt là nỗi khổ đối
Những bệnh nhân nghiện thường có tiền sử
với phụ nữ. Các triệu chứng bao gồm
chăm sóc răng miệng kém. Điều này có thể dẫn
• Tái phân bổ lại chất béo trong cơ thể đến việc bị đau đớn vô cùng và tàn tật. Những
• Tăng kích thước eo người chung sống với HIV/AIDS thường cần
phải được chăm sóc răng miệng thường xuyên,
• Cánh tay và cẳng chân gầy đi trong đó có thể bao gồm nhổ răng, tái tạo hàm
• Tăng nếp nhăn trên mặt dưới, và thay đĩa răng.
• Yếu đi và giảm kích thước cơ bắp Những công việc liên quan
• Các triệu chứng về dạ dày và ruột
Việc không ngừng gia tăng số phụ nữ chung
• Tăng triglyceride và cholesterol sống với HIV/AIDS đang tạo ra một nhu cầu
• Giảm testosterone lớn đối với các dịch vụ liên quan như chăm sóc
trẻ, nơi ở, và đi lại. Những gia đình cần có nơi
• Huyết áp cao
ở có thể phải ở trong danh sách đợi một thời
• Tiểu đường gian dài cho việc chuyển nhà ở mục 8 hoặc có
Để tìm ra những biến đổi cấu trúc cơ thể, khối thể nhận những chứng chỉ ở mục 8 chỉ để tìm
điều trị nên khuyến khích bệnh nhân làm xét thấy rất ít chủ nhà chấp nhận các khoản chi
nghiệm đo lường trên một máy phân tích trở phí lưu trú ở mục 8. Một mối quan tâm khác
kháng điện sinh. Loại máy không đụng chạm cho những người nghiện, dù là đang nghiện hay
vào thân thể này sản sinh ra một dòng điện yếu đang phục hồi, là những nơi nhà ở có giá thấp
qua các điện cực đặt trên bàn tay và bàn chân thì có khuynh hướng tập trung ở những nơi có
của bệnh nhân để đo lượng thể dịch, lượng tế hiện tượng mua bán ma túy và tội phạm cao.
bào máu, lượng ngoại bào, và lượng chất béo
trong cơ thể. Được lặp lại từ mỗi ba đến sáu Các vấn độ tiết lộ
tháng, thủ tục này có thể cung cấp một thước đo Các vấn đề tiết lộ là khó khăn đối với tất cả
chính xác về tình trạng sinh lý của bệnh nhân. những bệnh nhân nhiễm HIV. Đối với những
Nhà điều trị có thể chữa việc sụt cân và suy dinh bệnh nhân nghiện, những vấn đề này còn có
dưỡng bằng cách đưa ra một chế độ ăn giàu những thách thức khác. Ví dụ, việc tiết lộ tình
dinh dưỡng và cân bằng với nhiều thức uống và trạng dương tính với HIV có thể dẫn đến những
nhiều vitamin mỗi ngày nếu cần thiết. Việc bổ đe dọa hay thiệt hại cho cả bệnh nhân lẫn gia
sung protein và calorie được khuyến khích nếu đình. Gia đình một bệnh nhân có thể từ chối
bệnh nhân sụt cân. Bệnh nhân nên tránh các hợp tác với bệnh nhân đó nếu họ biết tình trạng
chất độc như rượu, thuốc lá và các thuốc gây HIV/AIDS của anh ta. Đặc biệt với những bệnh
hưng phấn và nên tập thể dục mỗi ngày với thời nhân sống trong nền văn hóa phản ánh cái tôi
lượng phù hợp. Các can thiệp về thuốc có thể trong cộng đồng hoặc cái tôi trong mối quan hệ
được yêu cầu bao gồm thuốc kích thích vị giác, nhóm (vì phản đối nhận dạng cá nhân), thì việc
thuốc giảm đau và hormone tăng trưởng. tách biệt khỏi cộng đồng có thể dẫn đến việc
sử dụng hoặc tái sử dụng các chất gây nghiện
Khối điều trị cũng nên thảo luận với bệnh nhân và những hành vi nguy hiểm liên quan đến
về các liệu pháp hỗ trợ. Những liệu pháp này tình dục. Do đó, nhà điều trị phải thận trọng
có thể bao gồm dược thảo, châm cứu, thiền, khi thông báo cho bệnh nhân về kết quả xét
Tư vấn cho khách hàng bị các chứng rối loạn lạm dụng chất gây nghiện và nhiễm HIV 143
nghiệm của họ và nên tuân theo những nguyên 1. Sự đa dạng về giá trị. Nhà tư vấn làm quen
tắc bảo mật thông tin bệnh nhân. Nhà điều trị với sự đa dạng khi họ chấp nhận rằng những
nên chuyển đến Chương 9 để xem hướng dẫn người họ phục vụ xuất thân từ những nguồn
trong lĩnh vực này. gốc rất khác nhau và có thể đưa ra những lựa
chọn khác nhau dựa trên văn hóa. Dù tất cả
Cũng như thế, trong suốt quá trình theo đuổi mọi người có chung những nhu cầu cơ bản,
liệu pháp nhóm, bệnh nhân thường cảm thấy nhưng có nhiều điều khác nhau trong cách
phải tiết lộ tình trạng HIV của họ cho những họ đáp ứng những nhu cầu đó. Việc chấp
người còn lại trong nhóm. Nhà tư vấn nên cảnh nhận rằng mỗi nền văn hóa quan niệm rằng
báo bệnh nhân về tác động của việc tiết lộ đó một số hành vi, hoạt động hay giá trị là quan
và cân nhắc việc khuyên bảo họ đừng làm thế. trọng hay đáng làm hơn các hành vi, hoạt
Những bệnh nhân có nguyện vọng tiết lộ tình động hay giá trị khác giúp cho nhà điều trị
trạng HIV của mình thường làm thế một cách tương tác thành công hơn với những người
thành thật và cởi mở trong quá trình điều trị và khác nhau.
không hoàn toàn nhận thức được hậu quả. Tất
nhiên, trong các cuộc trị liệu mà tất cả bệnh 2. Tự đánh giá về văn hóa. Khi nhà điều trị
nhân đều dương tính với HIV, thì không cần hiểu được các hệ thống chăm sóc được các
phải lo lắng về điều này. nền văn hóa lớn hình thành ra sao, thì có thể
dễ dàng hơn cho họ khi đánh giá cách những
hệ thống này giao với những nền văn hóa
HIV/AIDS – Những vấn khác. Nhờ đó những nhà điều trị có thể lựa
chọn các hoạt động làm giảm thiểu những
đề cụ thể về tư vấn cai rào cản về văn hóa.
nghiện 3. Động lực của sự khác biệt. Khi những hệ
thống văn hóa gặp nhau, thì cả hai phía (ví
Có nhiều vấn đề cụ thể về HIV/AIDS mà nhà
dụ, nhà điều trị và bệnh nhân) có thể đánh
điều trị nên làm quen khi điều trị cho những
giá sai hành động của nhau dựa trên quá khứ
bệnh nhân nghiện bị nhiễm HIV/AIDS
và những mong đợi đã được biết. Cả hai sẽ
mang lại động lực của sự khác biệt – những
Những vấn đề về năng lực văn hóa phương thức giao tiếp, xã giao và giải quyết
Văn hóa là một dạng hành vi con người bao vấn đề, cũng như các cảm xúc hiện có về việc
gồm những suy nghĩ, lời nói, hành động và đồ phục vụ và được phục vụ bởi một người khác
vật. Văn hóa phụ thuộc vào khả năng học hỏi và biệt. Việc kết hợp và thấu hiểu những động
truyền đạt kiến thức của con người đến những lực này cùng với nguồn gốc của chúng trong
thế hệ tiếp theo. Nó cũng bao gồm phong tục, hệ thống làm tăng cơ hội can thiệp có ích
niềm tin, quy tắc xã hội, và đặc tính vật chất của giữa hai nền văn hóa.
nhóm chủng tộc, nhóm tôn giáo hay nhóm xã 4. Sự chuẩn mực hóa kiến thức văn hóa. Nhà
hội. Với kiểu định nghĩa đó, rất dễ để nhận thấy điều trị phải có kiến thức và thông tin văn
cũng có một văn hóa nghiện, văn hóa nghèo hóa chuẩn xác hay có khả năng tiếp cận với
đói, văn hóa đồng tính, và thậm chí là văn hóa nguồn thông tin như thế. Họ cũng phải có
phục hồi. những liên hệ cộng đồng và những nhà tư
Cross và đồng nghiệp đưa ra một luận điểm vấn để trả lời những câu hỏi liên quan đến
toàn diện về những hệ thống năng lực văn hóa văn hóa.
trong quá trình chăm sóc. Năm yếu tố quan 5. Thích nghi với sự khác biệt. Bốn yếu tố trên
trọng góp phần hình thành năng lực văn hóa xây dựng một bối cảnh cho hệ thống năng lực
(Cross và khác, 1989, trang 19-21) được mô tả văn hóa khi chăm sóc và cung cấp dịch vụ.
vắn tắt sau đây là: Cả những cách tiếp cận của nhà điều trị lẫn
144 Tư vấn cho khách hàng bị các chứng rối loạn lạm dụng chất gây nghiện và nhiễm HIV
của hệ thống có thể được điều chỉnh để tạo Yếu tố thứ hai, mức độ tiếp biến văn hóa, là
nên sự thích ứng tốt hơn giữa nhu cầu của quan trọng và nên là một phần của quá trình
mọi người và các dịch vụ sẵn có. Ví dụ, các đánh giá. Gia đình và bệnh nhân có thể tiếp
thành viên của một nhóm chủng tộc nào đó biến hay tiếp thu văn hóa ra sao? Bệnh nhân là
thường xuyên nhận được những thông điệp thế hệ nào? Việc đánh giá điều này, và việc biết
tiêu cực từ truyền thông đại chúng về văn rằng một vài thế hệ với những giá trị và mức
hóa của họ. Những chương trình có thể được độ tiếp biến văn hóa khác nhau có thể cùng
phát triển để kết hợp những trải nghiệm mở chung sống trong một mái nhà, có thể kiểm tra
rộng văn hóa khác, phát triển các kỹ năng kỹ năng giao tiếp và kỹ năng tư vấn của những
giải quyết vấn đề, và dạy về nguồn gốc các nhà điều trị giỏi nhất. Khi bàn luận về việc tiếp
chuẩn mực và định kiến. Bằng cách tạo ra và biến văn hóa và những giá trị, nhà tư vấn nên
tiến hành những chương trình như thế, nhà nhớ rằng, nhìn chung, một gia đình sống ở
điều trị có thể chuẩn mực hóa các can thiệp Mỹ càng lâu, thì những giá trị của họ càng có
về văn hóa như một cách giúp đỡ hợp lệ. khuynh hướng ít truyền thống hơn. Do đó một
bệnh nhân người Mỹ gốc Hoa thế hệ thứ tư có
Cuối cùng, việc trở thành có năng lực về văn thể không nói tiếng Hoa và không giữ những
hóa là một quá trình phát triển đối với những giá trị Trung Hoa truyền thống. Việc biết được
nhà tư vấn. những giá trị và niềm tin của bệnh nhân là điều
Mọi việc không thay đổi vì ai đó đọc một cuốn cốt yếu để quyết định liệu pháp chữa trị có hiệu
sách, hay tham dự một hội thảo, hay làm một quả hay không.
thành viên của một nhóm thiểu số. Đó là một Nhà điều trị cũng phải giúp phát triển các hệ
quá trình được sinh ra từ một cam kết cung cấp thống năng lực văn hóa trong việc chăm sóc.
những dịch vụ chất lượng cho tất cả mọi người Một phần của công việc này là làm cho những
và một sự sẵn sàng mạo hiểm. dịch vụ dễ được tiếp cận hơn và thường được
nhóm dân cư mục tiêu có nguy cơ nhiễm bệnh
Đưa ra những quyết định có năng sử dụng. Các hệ thống năng lực văn hóa cũng
lực văn hóa nhìn nhận sự quan trọng của văn hóa, các mối
Nhà điều trị và nhà tư vấn phải xem xét hai quan hệ khác văn hóa, những dị biệt về văn hóa,
yếu tố quan trọng khi làm việc với những người và khả năng đáp ứng những nhu cầu độc đáo về
khác biệt về văn hóa, chủng tộc hay dân tộc: văn hóa. (Cross và khác, 1989).
tình trạng kinh tế - xã hội của bệnh nhân hay Bên cạnh việc đánh giá năng lực văn hóa bằng
nhóm và mức độ tiếp biến văn hóa của bệnh cách dùng năm yếu tố đã bàn ở trên, cũng sẽ
nhân. Nên phân biệt khi xem xét cả một nhóm có ích khi xem xét một vài cách mà nhà điều trị
cư dân và một phân khúc đặc biệt của nhóm cư có thể dùng để giảm thiểu những xung đột và
dân đó. Ví dụ, khi chữa bệnh cho một phụ nữ va chạm về văn hóa có thể có khi làm việc với
nghiện nhiễm HIV nói tiếng Tây Ban Nha, nhà bệnh nhân. Các chỉ dẫn được giới thiệu trong
tư vấn nên tập trung xem người phụ nữ như là hình 7-3 được điều chỉnh từ một dự án được
một cá nhân và tập trung vào những tình huống hướng dẫn bởi Đại học Hawaii, Dự Án Giáo
cụ thể của cuộc sống người đó, thay vì xem cô Dục AIDS.
ta như một đại diện trừu tượng của nền văn
hóa hay chủng tộc của cô ta. Thường gặp hơn, Một mối quan tâm trong việc cung cấp dịch vụ
nghèo đói là một vấn đề đáng để bàn luận, thay chăm sóc liên quan đến năng lực văn hóa là làm
vì một yếu tố nào đó của chủng tộc dân tộc. cách nào để thảo luận về giá trị và những khác
(Trung Tâm Kiểm Soát và Ngăn Ngừa Dịch biệt quanh giới tính và tình dục. Trong nhiều
Bệnh [CDC], 1998j). nền văn hóa, người ta tránh bàn luận về tình
Tư vấn cho khách hàng bị các chứng rối loạn lạm dụng chất gây nghiện và nhiễm HIV 145
Hình 7-3
Các chỉ dẫn để giảm thiểu xung đột văn hóa
1. Lên kế hoạch dành nhiều thời gian hơn cho các khách hàng có các giá trị khác với bạn. Mối
quan hệ này phức tạp hơn nên sẽ mất nhiều thời gian hơn để thiết lập sự tin tưởng.
2. Đề phòng trường hợp khách hàng tức giận, nghi ngờ và bực bội do trước kia từng khó chịu với
những nhà cung cấp dịch vụ thiếu nhạy cảm hoặc không phù hợp.
3. Thấu hiểu sự thất vọng trong quá khứ của họ.
4. Thấu hiểu sự khác biệt giữa trải nghiệm của bạn và của khách hàng.
5. Nhìn nhận sự việc theo từng người (thông điệp rõ ràng của tất cả các kế hoạch điều trị). Khách
hàng không chỉ là một người nghiện, một người Châu Á, hoặc người nhiễm HIV / AIDS. Hãy
nhìn nhận tổng thể về họ.
6. Khuyến khích sự bất đồng và thương lượng để đưa ra một kế hoạch khả thi.
7. Dự đoán các nhu cầu khác nhau: về y tế, pháp lý, xã hội và tâm lý.
8. Chuẩn bị tinh thần để ủng hộ cho các khách hàng không có nguồn lực, kiến thức, kinh nghiệm
để đàm phán với hệ thống dịch vụ điều trị lạm dụng chất gây nghiện và HIV / AIDS.
9. Hỗ trợ khách hàng tìm các nguồn lực khác.
10. Lôi kéo bạn bè và gia đình. Điều này sẽ giúp khách hàng nhận được các dịch vụ cần thiết khác.
11. Chú ý đến cách giao tiếp: ngôn ngữ không lời, phong cách biểu cảm, cách sử dụng từ và nghĩa
của từ.
12. Tận dụng các nhà cung cấp từ các nền văn hóa khác.
13. Tìm hiểu các thế mạnh của một nền văn hóa. Ví dụ, trong văn hóa Tây Ban Nha, giá trị của
“respeto”, tức là sự tôn trọng phù hợp về mặt xã hội, có thể hỗ trợ cho kế hoạch can thiệp.
14. Mong đợi sự khác biệt trong quan niệm về
o Hành vi tìm kiếm sự giúp đỡ
o Việc cho và nhận sự chăm sóc
o Nguyên nhân bệnh tật
o Quan hệ đồng giới/dị giới
o Chết và hấp hối
o Giao tiếp bằng mắt và các va chạm
Nguồn: Dự án đào tạo về AIDS của Đại học Hawaii.
dục vì họ nhận thấy những cuộc bàn luận như đối mặt là không được trò chuyện đủ thường
vậy là vô lễ. Đây là một lý do tại sao nhiều nền xuyên và trực tiếp về các hành vi tình dục an
văn hóa tránh bàn luận về vấn đề đồng tính. toàn, các hành vi có nguy cơ và vấn đề đồng
Một nhà tư vấn nên xem xét việc dùng một cách tính. Thậm chí trong văn hóa phục hồi ở một
tiếp cận ít trực tiếp hơn khi bắt đầu cuộc thảo số cơ sở điều trị, giới tính và tình dục vẫn bị
luận về những vấn đề liên quan tới tình dục và né tránh rõ ràng. Nhà điều trị cũng phải biết
quan điểm tình dục. Nhiều nhà điều trị tin rằng rằng ngoài bệnh nhân ra, chính họ cũng thường
một số vấn đề sức khỏe cộng đồn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nang_cao_dong_luc_de_thay_doi_trong_dieu_tri_lam_dung_chat_g.pdf