Sau buổi giáo dục chuyên đềcủa nhóm chuyên gia, các thầy cô tại Làng đã chủ
trì tổchức sinh hoạt chuyên đềcho thiếu niên. Trong các buổi sinh hoạt chuyên đề, thầy
cô ôn lại những kiến thức vềtự đánh giá bằng các hình thức sinh động nhưthông qua
các câu chuyện, các tình huống thực tếhay các trò chơi Vềthực hành kỹnăng tự
đánh giá, các thầy cô sửdụng những bài tập mà nhóm chuyên gia đã sửdụng đểgiao
cho thiếu niên thực hiện nhưng tăng dần về độkhó qua từng buổi sinh hoạt. Bên cạnh
đó, giáo viên còn xây dựng các tình huống giả định đểcác em tập ứng xử. Qua đó, sẽ
kiểm tra được mức độkỹnăng tự đánh giá của thiếu niên và cũng giúp thiếu niên có thể
ứng dụng kỹnăng tự đánh giá vào các trường hợp cụthể. Bên cạnh đó, các thầy cô ở
Làng còn thường xuyên nhắc nhởthiếu niên phải thực hành tự đánh giá bản thân.
6 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1991 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nâng cao kỹ năng tự đánh giá của thiếu niên tại các trung tâm bảo trợ xã hội trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh bằng chương trình giáo dục ngoại khoá, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 2(43).2011
158
NÂNG CAO KỸ NĂNG TỰ ĐÁNH GIÁ CỦA THIẾU NIÊN TẠI
CÁC TRUNG TÂM BẢO TRỢ XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH BẰNG CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC NGOẠI KHOÁ
IMPROVEMENT OF TEENAGERS’ SELF-ASSESSMENT SKILLS IN
HO CHI MINH CITY’S SOCIAL SPONSOR CENTERS
Bùi Hồng Quân
Sở Lao động Thương binh và Xã hội TP HCM
Huỳnh Văn Sơn
Trường Đại học Sư phạm TP HCM
TÓM TẮT
Kết quả khảo sát trên 152 thiếu niên tại các trung tâm bảo trợ xã hội trên địa bàn thành
phố Hồ Chí Minh cho thấy, các em đã có kỹ năng tự đánh giá nhưng chỉ ở mức trung bình. Có
thể nâng cao kỹ năng này của thiếu niên thông qua các biện pháp tác động như: giáo dục
chuyên đề, sinh hoạt chuyên đề kết hợp với thường xuyên nhắc nhở các em thực hành tự đánh
giá. Sau khi thực nghiệm, nhận thức của thiếu niên về kỹ năng tự đánh giá được nâng lên đáng
kể, hầu hết thiếu niên ở nhóm thực nghiệm đã thực hiện đúng tuần tự bốn bước trong quy trình
tự đánh giá (ĐTB = 2,60). Nếu như ở nhóm đối chứng, các em chỉ thỉnh thoảng tự đánh giá bản
thân (ĐTB = 3,4) thì thiếu niên ở nhóm thực nghiệm đã thường xuyên thực hành kỹ năng tự
đánh giá (ĐTB = 4,1). Ngoài ra, đa phần thiếu niên ở nhóm thực nghiệm đã tự đánh giá phù
hợp với đánh giá của thầy cô và bạn bè (80,1%), chỉ còn lại 19,9% thiếu niên tự đánh giá không
phù hợp.
ABSTRACT
The results of the survey on 152 teenagers at the social sponsor centers in Ho Chi Minh
City showed that they had self-assessment skills but these skills were only at an average level.
Their skills can be improved through the impacts of such measures as special education and
special activities in conjunction with regularly reminding them to practice self-assessment skills.
After the experiment, the teenagers’ awareness of self-assessment was significantly improved.
Most of the teenagers in the experimental group complied with the sequence of four steps in the
process of self assessment (Average score = 2.60). While in the control group, they sometimes
assessed themselves (Average score = 3.4), the teenagers in the experimental group regularly
practiced self-assessment skills (Average score = 4.1). In addition, most of the teenagers in the
experimental group assessed themselves in line with their teachers’ and friends’ evaluation (80.
1%) and only 19.9% of the teenagers’ had inappropriate self-assessment.
1. Đặt vấn đề
Trong quá trình phát triển tâm lý cá nhân, đến tuổi thiếu niên (TN), sự phát triển
của tự ý thức, tự đánh giá (TĐG) là một trong những nét nổi bật của nhân cách. TN
thường tự phân tích nhân cách của mình và coi sự phân tích nhân cách đó như là một
phương tiện cần thiết để điều chỉnh, tổ chức những mối quan hệ đối với bạn bè, với
người lớn. Nhìn chung, TN thường TĐG mình cao hơn so với thực tế . Tuy nhiên, vấn
đề đặt ra là liệu có sự khác nhau về sự TĐG và kỹ năng (KN) TĐG giữa những TN có
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 2(43).2011
159
hoàn cảnh sống bình thường với những TN có hoàn cảnh đặc biệt – bị bỏ rơi, mồ côi,
lang thang…?
Hiện nay, trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh có mười ba trung tâm bảo trợ xã
hội, trong đó có 06 trung tâm thực hiện chức năng nuôi dưỡng, bảo trợ thanh thiếu niên
(03 trung tâm chuyên nuôi dưỡng thanh thiếu niên khuyết tật; 03 trung tâm còn lại nuôi
dưỡng, bảo trợ thanh thiếu niên phát triển bình thường về thể chất). Đối tượng được đưa
vào các trung tâm này là những thanh thiếu niên khuyết tật, bị bỏ rơi, mồ côi, không liên
lạc được với gia đình hay gia đình quá nghèo không có khả năng nuôi dưỡng phải đi
lang thang kiếm sống… Với hoàn cảnh xuất thân đặc biệt như vậy, các em đánh giá về
bản thân mình như thế nào – tích cực hay tiêu cực, khách quan hay chủ quan… bởi
TĐG là khâu quan trọng để các em chọn lựa cho mình một tương lai: hòa nhập, học tập,
học nghề, về gia đình hay tiếp tục lang thang và thậm chí là trở thành kẻ tội phạm. Quan
trọng hơn, KN TĐG của các em ở mức độ nào? Chỉ khi nào xác định được thực trạng
KN TĐG của các em mới có thể đề ra những biện pháp tác động nhằm nâng cao nó.
Trong phạm vi bài báo này, chúng tôi xác định: kỹ năng tự đánh giá là sự đánh giá
đúng đắn về mặt bên ngoài và những khả năng, năng lực, những phẩm chất nhân cách
của bản thân bằng cách vận dụng những tri thức, kinh nghiệm và thực hiện đúng các
thao tác của quá trình tự đánh giá.
2. Giải quyết vấn đề
Hoạt động thực nghiệm nâng cao kỹ năng tự đánh giá của thiếu niên được tiến
hành trong thời gian 04 tháng trên 40 thiếu niên của Làng thiếu niên Thủ Đức (Làng)
được chia thành hai nhóm: nhóm đối chứng gồm 20 thiếu niên và nhóm thực nghiệm
gồm 20 thiếu niên. Nội dung thực nghiệm bao gồm:
Thứ nhất, giáo dục chuyên đề về kỹ năng tự đánh giá nhằm giúp thiếu niên hiểu
được vai trò của tự đánh giá và các thao tác trong quy trình tự đánh giá do nhóm chuyên
gia về tâm lý thực hiện. Đồng thời, đưa ra các yêu cầu, các bài tập để thiếu niên tự đánh
giá bản thân và đặt ra các tình huống giả định có liên quan đến tự đánh giá để thiếu niên
ứng xử.
Thứ hai, tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên đề về kỹ năng tự đánh giá bao gồm
các nội dung: ôn lại những kiến thức về tự đánh giá, kỹ năng tự đánh giá; giao các bài
tập tự đánh giá cho thiếu niên thực hiện gắn với kiểm tra, đánh giá kết quả do các thầy
cô tại Làng thực hiện.
Thứ ba, các thầy cô tại Làng thường xuyên nhắc nhở thiếu niên thực hiện các bài
tập tự đánh giá cũng như thực hành kỹ năng tự đánh giá trong cuộc sống hàng ngày.
Quá trình thực nghiệm được chia thành ba giai đoạn: giai đoạn khảo sát trước
thực nghiệm và chuẩn bị tác động; giai đoạn tiến hành thực nghiệm; giai đoạn khảo sát,
đánh giá sau thực nghiệm.
Có bốn nhóm tiêu chí để đánh giá xem mức độ kỹ năng tự đánh giá của thiếu
niên đạt mức thấp, trung bình hay cao là: nhận thức (hiểu biết về vai trò tự đánh giá, về
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 2(43).2011
160
các bước trong quy trình tự đánh giá); thao tác (cách tiếp nhận thông tin về bản thân,
căn cứ khi tự đánh giá, thực hiện các bước trong quy trình tự đánh giá, mức độ thực
hành kỹ năng tự đánh giá); tính phù hợp (giữa tự đánh giá của thiếu niên với đánh giá
của thầy cô, bạn bè); thực hiện các bài tập tự đánh giá (kể ra ưu điểm và nhược điểm
của bản thân, xác định hình ảnh bản thân trong tương lai, ứng xử với các tình huống giả
định).
3. Kết quả nghiên cứu và bình luận
Kết quả khảo sát trước thực nghiệm cho thấy, không có sự khác biệt về mức độ
kỹ năng tự đánh giá giữa nhóm thực nghiệm với nhóm đối chứng. Cả hai nhóm đều có
kỹ năng tự đánh giá ở mức trung bình. Các em chưa hiểu hết vai trò của tự đánh giá
trong cuộc sống và chỉ biết một chút về kỹ năng tự đánh giá. Hầu hết thiếu niên thực
hiện không đúng các bước trong quy trình tự đánh giá; khi tiếp nhận thông tin nhận xét
của người khác, các em thường chỉ quan tâm, lắng nghe những gì mình thích và chỉ
thỉnh thoảng tự đánh giá bản thân. Các em đã kể được một số ưu, nhược điểm của bản
thân; xác định được cho mình hình ảnh sau 5, 10, 15 năm nữa và có cách ứng xử với các
tình huống giả định tương đối phù hợp. Phần lớn thiếu niên tự đánh giá bản thân cao
hơn so với đánh giá của thầy cô, bạn bè, hay nói cách khác, tính phù hợp giữa tự đánh
giá của thiếu niên với đánh giá của thầy cô, bạn bè ở mức thấp (chỉ có 32,36% thiếu
niên tự đánh giá phù hợp).
2.925 2.950
2.288 2.313
1.983 1.976
0.000
0.500
1.000
1.500
2.000
2.500
3.000
Nhận thức Thao tác Thực hiện bài tập
TĐG
Nhóm ĐC
Nhóm TNg
Biểu đồ 1.1. Mức độ kỹ năng tự đánh giá của thiếu niên ở nhóm đối chứng (ĐC)
và nhóm thực nghiệm trước thực nghiệm (TNG)
Trong quá trình thực nghiệm, khi tổ chức giáo dục chuyên đề về kỹ năng tự đánh
giá cho thiếu niên, các em tham gia hết sức nhiệt tình và hào hứng nhưng cũng đầy lạ
lẫm khi lần đầu tiên tiếp cận vấn đề này. Khi được hỏi về việc thực hiện các thao tác tự
đánh giá, có rất ít em có thể trả lời được. Đối với các bài tập về tự đánh giá như: hãy
cho biết, em là người như thế nào; em có ưu điểm và nhược điểm gì; ước mơ của em là
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 2(43).2011
161
gì; em thử hình dung sau 5 năm, 10 năm, 15 năm nữa mình sẽ như thế nào… lúc đầu khi
thực hiện, các em khá lúng túng và chưa thực hiện được hết các yêu cầu của bài tập.
Sau buổi giáo dục chuyên đề của nhóm chuyên gia, các thầy cô tại Làng đã chủ
trì tổ chức sinh hoạt chuyên đề cho thiếu niên. Trong các buổi sinh hoạt chuyên đề, thầy
cô ôn lại những kiến thức về tự đánh giá bằng các hình thức sinh động như thông qua
các câu chuyện, các tình huống thực tế hay các trò chơi… Về thực hành kỹ năng tự
đánh giá, các thầy cô sử dụng những bài tập mà nhóm chuyên gia đã sử dụng để giao
cho thiếu niên thực hiện nhưng tăng dần về độ khó qua từng buổi sinh hoạt. Bên cạnh
đó, giáo viên còn xây dựng các tình huống giả định để các em tập ứng xử. Qua đó, sẽ
kiểm tra được mức độ kỹ năng tự đánh giá của thiếu niên và cũng giúp thiếu niên có thể
ứng dụng kỹ năng tự đánh giá vào các trường hợp cụ thể. Bên cạnh đó, các thầy cô ở
Làng còn thường xuyên nhắc nhở thiếu niên phải thực hành tự đánh giá bản thân.
Sau khi tiến hành các hoạt động như trên, kết quả khảo sát sau thực nghiệm cho
thấy, mức độ kỹ năng tự đánh giá của thiếu niên ở nhóm thực nghiệm đã được cải thiện
rõ rệt.
2.975
4.150
2.288
2.975
1.983
2.671
0.000
0.500
1.000
1.500
2.000
2.500
3.000
3.500
4.000
4.500
Nhận thức Thao tác Thực hiện bài tập
TĐG
Nhóm ĐC
Nhóm TNg
Biểu đồ 1.2. Mức độ kỹ năng tự đánh giá của thiếu niên ở nhóm đối chứng
và nhóm thực nghiệm sau thực nghiệm
Về mặt nhận thức, kết quả khảo sát cho thấy, nếu như thiến niên nhóm đối
chứng cho rằng tự đánh giá có vai trò “bình thường” (ĐTB = 2,60) thì nhóm thực
nghiệm đã hiểu được rằng tự đánh giá có vai trò “quan trọng” (ĐTB = 4,15). Mức độ
hiểu biết của nhóm thực nghiệm về kỹ năng tự đánh giá là “biết nhiều” (ĐTB = 4,15) so
với “biết một chút” của nhóm đối chứng (ĐTB = 3,35). Điều này có thể khẳng định, qua
các hoạt động thực nghiệm, nhận thức của thiếu niên về vấn đề tự đánh giá đã được
nâng lên đáng kể.
Về kỹ thuật thao tác, đây là tiêu chí quan trọng nhất để đánh giá mức độ kỹ năng
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 2(43).2011
162
tự đánh giá của thiếu niên. Nếu như ở nhóm đối chứng, khi người khác nhận xét, đánh
giá về mình, đa phần thiếu niên thường chỉ lắng nghe những gì mình thích (ĐTB = 2,3)
thì các em ở nhóm thực nghiệm đã biết lắng nghe và tiếp thu tất cả những nhận xét,
đánh giá của người khác dù là nhận xét tích cực hay tiêu cực, đúng hay chưa đúng
(ĐTB = 2,7). Trong quá trình tự đánh giá, các em ở nhóm thực nghiệm đã biết kết hợp
những nhận xét, đánh giá của người khác với suy nghĩ chủ quan của mình, tức là kết
hợp yếu tố khách quan và chủ quan để có thể tự đánh giá một cách chính xác nhất (ĐTB
của tiểu thang đo này sau khi tiến hành thực nghiệm ở nhóm thực nghiệm là 2,50 so với
1,90 ở nhóm đối chứng).
Quan trọng nhất, sau khi tiến hành thực nghiệm, hầu hết thiếu niên ở nhóm thực
nghiệm đã thực hiện đúng tuần tự bốn bước trong quy trình tự đánh giá (ĐTB = 2,60).
Nếu như ở nhóm đối chứng, các em chỉ thỉnh thoảng tự đánh giá bản thân (ĐTB = 3,4)
thì thiếu niên ở nhóm thực nghiệm đã thường xuyên thực hành kỹ năng tự đánh giá
(ĐTB = 4,1).
Về kết quả thực hiện các bài tập tự đánh giá của thiếu niên ở nhóm thực nghiệm
cao hơn hẳn so với nhóm đối chứng sau khi tiến hành thực nghiệm. Hầu hết các em đã
kể ra được đủ 5 ưu điểm (ĐTB tăng từ 1,64 lên 2,70) cũng như nhược điểm của mình
(ĐTB tăng từ 1,43 lên 2,57). Đồng thời, các em cũng đã xác định được cho mình hình
ảnh sau 5, 10, 15 năm nữa một cách hết sức rõ ràng cùng với một “lộ trình” cụ thể để có
thể hiện thực hóa những hình ảnh đó (ĐTB tăng từ 1,59 lên 2,6). Cách ứng xử với các
tình huống giả định của thiếu niên ở nhóm thực nghiệm phù hợp hơn so với nhóm đối
chứng (ĐTB = 2,70 so với 2,24). Điều này chứng tỏ, các em đã nhận thức rõ hơn về các
giá trị bản thân, tự tin hơn, mạnh dạn hơn. Kết quả này cũng cho thấy, kỹ năng tự đánh
giá của thiếu niên đã được tăng lên đáng kể nên các em mới có thể có cách ứng xử phù
hợp, hợp lý trước các tình huống giả định.
Về tính phù hợp giữa tự đánh giá của thiếu niên với đánh giá của thầy cô, bạn bè
được tăng lên đáng kể. Ở nhóm đối chứng, đa phần thiếu niên tự đánh giá không phù
hợp và có xu hướng cao hơn so với đánh giá của thầy cô, chỉ có 32,36% thiếu niên tự
đánh giá phù hợp. Sau khi tiến hành thực nghiệm, đa phần thiếu niên ở nhóm thực
nghiệm đã tự đánh giá phù hợp với đánh giá của thầy cô và bạn bè (80,1%), chỉ còn lại
19,9% thiếu niên tự đánh giá không phù hợp.
4. Kết luận
Có thể kết luận các biện pháp áp dụng trong quá trình thực nghiệm đã có tác
dụng tích cực đối với việc nâng cao kỹ năng tự đánh giá của thiếu niên. Điều này cho
thấy rằng, hoàn toàn có thể nâng cao kỹ năng tự đánh giá của thiếu niên tại các trung
tâm bảo trợ xã hội thông qua các biện pháp giáo dục chuyên đề, sinh hoạt chuyên đề về
kỹ năng tự đánh giá kết hợp với thường xuyên nhắc nhở các em thực hành kỹ năng tự
đánh giá. Đây cũng là kinh nghiệm mà những nhà giáo dục, giáo dục viên tại các trung
tâm bảo trợ xã hội có thể quan tâm để có những áp dụng thử nghiệm tiếp theo để giúp
cho những học viên đang trưởng thành sẽ vững tin hơn bước vào cuộc sống.
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 2(43).2011
163
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Thanh Bình (2007), Giáo trình giáo dục kỹ năng sống, Nhà xuất bản Đại
học Sư phạm Hà Nội.
[2] Việt Hà (2000), Tìm hiểu bản thân tự hoàn thiện mình, Nhà xuất bản Tổng hợp,
Đồng Nai.
[3] Đào Lan Hương (2000), Nghiên cứu sự tự đánh giá thái độ học tập môn toán của
sinh viên Cao đẳng Sư phạm Hà Nội, Luận án Tiến sỹ Tâm lý học, Đại học Sư
phạm Hà Nội.
[4] Đỗ Ngọc Khanh (2005), Nghiên cứu sự tự đánh giá của học sinh trung học cơ sở ở
Hà Nội, Luận án Tiến sỹ Tâm lý học, Đại học Sư phạm Hà Nội.
[5] Huỳnh Văn Sơn (2009), Nhập môn kỹ năng sống, Nhà xuất bản Giáo dục.
[6] Huỳnh Văn Sơn (2010), Mô hình kỹ năng sống hiện đại, Trường Đội Lê Duẩn,
Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22-buihongquan-huynhvanson.pdf