Phương pháp nghiên cứu
-Là phương pháp nghiên cứu hồi cứu mô tả cắt ngang.
Các dữ liệu được phân tích bằng chương trình SPSS 12.0.
-Phẫu thuật cắt thanh quản được thực hiện bởi cùng nhóm các phẫu thuật viên
có tay nghề và có kinh nghiệm phẫu thuật cắt thanh quản toàn phần.
-Kỹ thuật đóng họng được thực hiện 2 lớp theo kiểu chữ T, chỉ khâu đóng
họng là chỉ Vycryl 3.0. hoặc PDS 3.0.
- Ống nuôi ăn mũi dạ dày được đặt trong khi ph ẫu thuật và được lưu giữ trong
th ời gian 9 ngày sau mổ. Không trường hợp nào cần mở dạ dày ra da.
-Nếu dò họng xuất hiện điều trị bảo tồn dùng kháng sinh phổ rộng, kháng
viêm, hút liên tục vết thương, nuôi ăn đường tĩnh mạch và qua ống mũi dạ dày.
Nếuphát hiện cổ bệnh nhân sưng nề, có dấu hiệu viêm hoặc tụ dịch thì chủ
động rạch da để dẫn lưu.
11 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2117 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu dò họng sau phẫu thuật cắt thanh quản toàn phần: tần suất, các yếu tố nguy cơ và hiệu quả điều trị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGHIÊN CỨU DÒ HỌNG SAU PHẪU THUẬT CẮT THANH QUẢN TOÀN
PHẦN: TẦN SUẤT, CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ VÀ HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ
TÓM TẮT
Mục tiêu: Ghi nhận tình hình dò họng sau mổ cắt thanh quản toàn phần, đánh
giá kết quả điều trị.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang . Thực hiện trên 41
ca dò họng trong tổng số 232 ca cắt thanh quản toàn phần:
Kết quả: Tỷ lệ dò họng sau phẫu thuật cắt thanh quản toàn phần là 18%. Tất cả
các ca dò đều tự lành.
Kết luận: Kỹ thuật phẫu thuật và theo dõi chăm sóc hậu phẫu cắt thanh quản
toàn phần đóng vai trò rất quan trọng trong phát hiện sớm và giảm tỷ lệ dò
họng sau mổ .
ABSTRACT
RESEARCH OF PHARYNGOCUTANEOUS FISTULA POST TOTAL
LARYNGECTOMY: INCIDENCE, PREDISPOSING FACTOR AND
TREATMENT
Tran Minh Truong * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 1
- 2009: 135 – 138
Objective: Evaluating the incidence, predisposing factors and treatment of
Pharyngocutaneous Fistula (PCF).
Materials and method: Cross-sectional study. We reviewed the data of 232
patients treated with total laryngectomy.
Result: 41 cases (18%) fistula after total laryngectomy. Treatment base on
cleanning the wound, antibiotic, drainage, hight calory nutrition and wait for
wound healing. 100% fistula close themselves after 1 month.
Conclusion: Surgery technicals and post – operating care play the leading roles
for decrease the PCF percentage.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Dò họng là một biến chứng thường gặp trong giai đoạn hậu phẫu sau mổ cắt
thanh quản toàn phần, việc này kéo dài thời gian nằm viện cũng như làm chậm
trễ điều trị xạ trị hoặc hóa trị cho bệnh nhân nếu có chỉ định(1,5,6). Nhiều nguyên
nhân đã được là những yếu tố thuận lợi gây dò họng như có xạ trị trước phẫu
thuật, kỹ thuật nạo vét hạch cổ, chỉ khâu, mở khí quản trước khi cắt thanh quản,
giai đoạn của u, khả năng của phẫu thuật viên, bệnh lý hệ thống hay tình trạng
dinh dưỡng của bệnh nhân(3,7,8)… Chúng tôi nghiên cứu 41 bệnh nhân bị dò
họng sau phẫu thuật tại khoa Tai Mũi Họng bệnh viện Chợ Rẫy với mục đích
đánh giá các yếu tố nguy cơ và kết quả của điều trị dò họng sau cắt thanh quản
toàn phần.
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu 232 hồ sơ cắt thanh quản toàn phần từ năm 2000 đến 5/2008 tại
khoa tai mũi họng bệnh viện Chợ Rẫy
Ghi nhận 41 ca bị dò họng trong thời gian hậu phẫu
Bảng 1:
Số ca phẫu
thuật
Số ca dò hậu
phẫu
Nam 223 38
Nữ 9 3
Ung thư thanh quản được phân loại theo tiêu chuẩn của hiệp hội quốc tế chống
ung thư UICC theo hệ thống TNM. Tất cả tổn thương là carcinoma với mức độ
nặng nhẹ khác nhau
Bảng 2: Phân loại TNM của 232 bệnh nhân
T2 T3 T4
N0 113 44 26
N1 4 15 13
N2 0 7 10
Phương pháp nghiên cứu
- Là phương pháp nghiên cứu hồi cứu mô tả cắt ngang.
Các dữ liệu được phân tích bằng chương trình SPSS 12.0.
- Phẫu thuật cắt thanh quản được thực hiện bởi cùng nhóm các phẫu thuật viên
có tay nghề và có kinh nghiệm phẫu thuật cắt thanh quản toàn phần.
- Kỹ thuật đóng họng được thực hiện 2 lớp theo kiểu chữ T, chỉ khâu đóng
họng là chỉ Vycryl 3.0. hoặc PDS 3.0.
- Ống nuôi ăn mũi dạ dày được đặt trong khi phẫu thuật và được lưu giữ trong
thời gian 9 ngày sau mổ. Không trường hợp nào cần mở dạ dày ra da.
- Nếu dò họng xuất hiện điều trị bảo tồn dùng kháng sinh phổ rộng, kháng
viêm, hút liên tục vết thương, nuôi ăn đường tĩnh mạch và qua ống mũi dạ dày.
Nếu phát hiện cổ bệnh nhân sưng nề, có dấu hiệu viêm hoặc tụ dịch thì chủ
động rạch da để dẫn lưu.
- Việc chăm sóc vết thương hàng ngày được thực hiện bằng cách hút liên tục
các chất dịch, cắt các mô hoại tử, thay băng giữ sạch chỗ dò và băng ép tại chỗ
và treo cằm. Có thể khâu niêm mạc khi đường dò gần đóng hoàn toàn.
KẾT QUẢ
Thống kê của chúng tôi gồm có 232 ca nghiên cứu, trong đó nam là 223 ca và
nữ là 9 ca, tuổi từ 27 đến 78.
Số bệnh nhân có các bệnh mãn tính chiếm tỷ lệ 37,5% gồm các bệnh như đái
tháo đường, bệnh lý cao huyết áp, thiếu máu cục bộ cơ tim hay bệnh lý thần
kinh. Bệnh nhân phải mở khí quản trước khi phẫu thuật do u lớn chèn ép gây
khó thở là 61 ca (26%).
Xạ trị trước mổ có 13 ca [bệnh nhân được xạ đủ liều điều trị (60-70Gy)],
thời gian trung bình từ 5 tháng- 4 năm trước khi phẫu thuật cắt thanh quản.
Khi phát hiện có dấu hiệu chuẩn bị dò họng chúng tôi chủ động chỉ định rạch
dẫn lưu là 7 ca.
41 ca dò họng giai đoạn hậu phẫu ở (18%).
Thời gian lành vết thương trung bình với theo dõi của chúng tôi là 20 ngày (từ
7 - 47 ngày).
Không có trường hợp nào sau đó hẹp thực quản được ghi nhận.
Các yếu tố liên quan gây dò họng (bảng 3)
Dò
(n=41)
Không dò
(n=191)
Nam (223) 39 184 Giới
Nữ (9) 2 7
Xạ trị trước mổ 0 13
Bệnh mãn tính 19 68
Có 35 169 Hút
thuốc
Không 6 22
Chức năng 11 132 Nạo vét
hạch
Tận gốc 6 13
Đơn thuần 30 163 Cắt
thanh
quản
Cắt rộng, tái
tạo
11 28
Mở khí quản trước 22 39
Liên quan giữa yếu tố nguy cơ và dò họng thực sự được ghi nhận (bảng 3) cho
thấy:
Bệnh mãn tính tỷ lệ bệnh nhân bị dò sau phẫu thuật ít hơn số bệnh nhân không
dò
Yếu tố hút thuốc: Bệnh nhân có hút thuốc bị dò tỷ lệ nhiều hơn bệnh nhân
không hút thuốc (P<0,05).
Nạo vét tận gốc số lượng bệnh nhân dò nhiều hơn bệnh nhân nạo vét chức năng
(P<0,05).
Cắt thanh quản đơn thuần tỷ lệ bệnh nhân dò ít hơn cắt thanh quản mở rộng (có
cắt đáy lưỡi và xoang lê 1 bên) (P<0,05).
BÀN LUẬN
Dò họng sau phẫu thuật cắt thanh quản toàn phần là một biến chứng không
mong muốn của cả thầy thuốc và bệnh nhân xảy ra với tỷ lệ khoảng từ 6 -
70%(3,5,6). Tại bệnh viện Chợ Rẫy tỷ lệ dò họng hậu phẫu 18% là chấp nhận
được. Đa số vị trí dò nằm ngay trên lỗ mở khí quản, các vị trí dò khác có thể ở
cao hơn ở cổ nơi tiếp giáp giữa niêm mạc họng và đáy lưỡi, khi nước bọt dò sẽ
gây ra nhiễm trùng mô xung quanh kèm hoại tử và mất chất.
Theo một số tác giả dò họng xuất hiện khoảng ngày thứ 10 sau mổ, triệu chứng
sốt (trên 38 độ) được coi như báo hiệu khả năng dò trong khoảng 48 giờ
sau(4,5,7). Chúng tôi ghi nhận dò họng xuất hiện từ ngày thứ 6 đến ngày 14 và
tập trung cao nhất trong khoảng ngày 7-9 sau mổ với các triệu chứng trước đó
da vùng cổ sậm màu, sung nề cứng, có dấu tụ dịch hay khí dưới da và cuối
cùng là dò chảy dịch và mủ chính vì vậy theo chúng tôi việc khâu đóng họng
không tốt, không kín là nguyên nhân chính của dò họng chứ không phải miệng
nối bị bung rồi gây nên dò thứ phát. Như vậy, nếu như rạch dẫn lưu sớm sẽ có
tác dụng giảm thương tổn da và mô xung quanh hơn và vết thương sẽ mau lành
hơn để tự dò ra da, trong những năm gần đây chúng tôi thực hiện chủ trương:
Sốt Kháng sinh
Đau Rạch dẫn lưu sớm Hút liên tục
Dấu hiệu tràn khí, Dinh dưỡng
dịch dưới da Băng ép
Trong đó ngoài yếu tố kháng sinh thì chế độ dinh dưỡng cho bệnh nhân rất
quan trọng cụ thể cho bệnh nhân ăn qua ống mũi dạ dày (sữa như Ensure,
Prosure…) kết hợp nuôi truyền tĩnh mạch cho thấy vết thương mau lành
hơn(2,3).
Khi đã bị dò họng có 2 cách để giải quyết: Sử dụng các vạt da – cơ như biện
pháp đầu tay để che phủ các khuyết hổng (vạt cân cơ ngực lớn, vạt cơ lưng
rộng …) hoặc chờ đường dò tự lành(5,6). Chúng tôi gặp đa số các dò kích thước
nhỏ 1-2 cm và đều tự lành sau thời gian trung bình là 25 ngày và không có
trường hợp nào bị hẹp họng thực quản, một số trường hợp khi đường dò đã bít
gần kín chúng tôi khâu lại lớp niêm mạc sau, theo dõi thấy vết thương lành
luôn, không cần vạt da cơ để đóng kín họng lại.
Ong dẫn lưu thường lưu 4 ngày, trên những bệnh nhân có nguy cơ dò hay đã bị
dò theo chúng tôi nên rút sớm hơn vì khả năng kích thích làm tình trạng dò
nặng hơn, cần thiết nhắc người bệnh nhân phải thường xuyên nhả nước bọt ra
ngoài tránh ứ đọng ở vùng hạ họng và không nên cho bệnh nhân được ăn sớm
bằng đường miệng vì dễ gây nên dò hạ họng.
Bệnh nhân xạ trị trước khi cắt thanh quản toàn phần là 13 ca (bằng máy gia tốc)
nhưng không có trường hợp nào bị dò hậu phẫu, các tác giả khác luôn ghi nhận
xạ trị trước phẫu thuật là một nguyên nhân quan trọng gây nên dò họng sau
mổ(3,4,7). Có thể số lượng của chúng tôi chưa nhiều cần tiếp tục theo dõi thêm
nhưng việc phẫu thuật cắt thanh quản trên những bệnh nhân đã xạ trị là hoàn
toàn có thể. Những điểm quan trọng khi chúng tôi phẫu thuật những bệnh nhân
này là: Cầm máu kỹ, hạn chế đốt điện, khâu đóng họng cẩn thận, băng ép đơn
giản nhưng phải hiệu quả(3).
Trên những bệnh nhân có các bệnh mãn tính cần hết sức chú ý và khám lâm
sàng cẩn thận trước khi mổ cũng như làm các xét nghiệm cận lâm sàng như
chụp x quang phổi, làm điện tim, siêu âm tim, đo hàm lượng Protein trong máu
(>3,5g/l)(1,2) v.v.
Yếu tố kỹ thuật cũng đóng vai trò quan trọng tuy nhiên do thường xuyên thực
hiện phẫu thuật cắt thanh quản nên các kíp phẫu thuật đều có những phẫu thuật
viên kinh nghiệm có thể xử trí tốt các tình huống lâm sàng. Nhiều tác giả đã đặt
vấn đề yếu tố chỉ khâu(6,7) nhưng từ khoảng năm 2000 chúng tôi đã không còn
dùng chromic nữa mà dùng Vycryl hay PDS cho thấy rất tốt vì ít gây sang
thương cho niêm mạc họng.
KẾT LUẬN
Báo cáo trên đây cho thấy dò họng sau phẫu thuật cắt thanh quản toàn phần là
một biến chứng thường gặp trong thời gian hậu phẫu và nguyên nhân cũng rất
phức tạp còn cần tiếp tục nghiên cứu.
Một số yếu tố như bệnh lý toàn thân, mở khí quản trước mổ cắt thanh quản, nạo
vét hạch cổ hay cắt bỏ khối u rộng, ung thư thanh quản giai đoạn nặng, yếu tố
dinh dưỡng .v.v. đóng vai trò lớn đến hậu quả dò họng sau khi mổ cắt thanh
quản. Yếu tố xạ trị trước phẫu thuật do số lượng thực hiện của chúng tôi còn ít
nên chưa thể có kết luận chính xác.
Với một tỷ lệ dò họng sau phẫu thuật là 18% và tất cả đều tự lành không cần
phải sử dụng các vạt da đóng họng thì hai chúng tôi cho rằng đây là một tỷ
lệ chấp nhận được, làm sạch vết thương, băng ép, kháng sinh, rạch dẫn lưu
khi cần thiết và chế độ dinh dưỡng cao thích hợp giúp cho hầu hết các vết
thương dò họng đều tự lành trong khoảng thời gian 1 tháng và bệnh nhân có
thể sớm tham gia các điều trị hỗ trợ khác như hóa trị hay xạ trị theo chỉ định
của chuyên môn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 65_6595.pdf