Những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam

Mô hình lý luận và các kiến giải lập pháp về quyết định hình phạt trong trường

hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt

Thứ nhất, những quy định này, bảo đảm được những đòi hỏi trong thực tiễn xét xử, tuân

thủ các nguyên tắc trong QĐHP nói chung, vừa mang tính logic về mặt pháp lý, chặt chẽ về

kỹ thuật lập pháp của PLHS, cụ thể hóa TNHS đối với hai hành vi nêu trên.

Thứ hai, việc đưa ra mô hình lý luận sửa đổi, bổ sung cho các quy định QĐHP trong

trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt sẽ là căn cứ pháp lý Tòa án QĐHP bảo đảm

sự thống nhất, đồng bộ; Đồng thời tránh gây nên nhiều cách hiểu khác nhau trong cùng một

điều luật; Có sự cá thể hóa rõ ràng từng hành vi đối với các trường hợp về chuẩn bị phạm tội,

phạm tội chưa đạt, phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành, phạm tội chưa đạt đã hoàn thành và

phạm tội hoàn thành.

Thứ ba, trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên cơ sở về

các khái niệm về PLHS theo cách hiểu phổ biến hiện nay, bảo đảm tính thống nhất về mặt

khoa học, chặt chẽ về kỹ thuật lập pháp vì:

pdf19 trang | Chia sẻ: lanphuong92 | Lượt xem: 700 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phải căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội Dưới góc độ khoa học, theo chúng tôi: Tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội là những dấu hiệu (về chất) phản ánh sự khác nhau giữa tội phạm này với tội phạm khác. Còn mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi là dấu hiệu (định lượng) phản ánh mức độ nguy hiểm cụ thể của cùng một loại tội phạm được thực hiện trong các trường hợp khác nhau. 1.1.2.3. Căn cứ vào nhân thân người phạm tội Nhân thân người phạm tội là tổng hợp tất cả các đặc điểm có ảnh hưởng nhất định tới HVPT và khả năng cải tạo giáo dục của người đó. Nhân thân người phạm tội còn là cách xét tổng hợp giữa quan hệ của người đó với xã hội, gia đình và những người xung quanh, cũng như 6 các yếu tố khác bao gồm: Tuổi đời, nghề nghiệp, tình trạng sức khỏe, trình độ văn hóa, chuyên môn, ngành nghề công tác, thành tích, kỷ luật cá nhân, hoàn cảnh gia đình... của người phạm tội. Tất cả các yếu tố trên thuộc về cá nhân của người đó, mỗi người có một nhân thân khác nhau, cùng thực hiện một tội phạm, nên Tòa án phải xem xét, dựa vào nhân thân của từng bị cáo để có QĐHP có căn cứ và đúng pháp luật. 1.1.2.4. Căn cứ các tình tiết giảm nhẹ và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự Tình tiết tăng nặng giảm nhẹ TNHS là: Những tình tiết làm cho những trường hợp phạm tội cụ thể, mỗi tội phạm khác nhau về mức độ nguy hiểm cho xã hội. Những tình tiết này có ý nghĩa về mặt lượng hình, tăng nặng hoặc giảm nhẹ TNHS, hình phạt trong khung hình phạt nhất định. Có thể chia các căn cứ giảm nhẹ TNHS thành các nhóm: Một là; giảm nhẹ TNHS ảnh hưởng đến mức nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; Hai là; giảm nhẹ TNHS do có khả năng cải tạo giáo dục người phạm tội; Ba là; giảm nhẹ TNHS do hoàn cảnh đặc biệt của người phạm tội; Bốn là: giảm nhẹ TNHS do mức độ của hành vi phạm tội. 1.1.3. Ý nghĩa của việc quyết định hình phạt QĐHP là tiền đề, là điều kiện cho việc đạt được mục đích của hình phạt. Hiệu quả của hình phạt chính là mức độ đạt được mục đích của hình phạt khi áp dụng hình phạt đối với người bị kết án. Hiệu quả hình phạt phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như: Chính sách hình sự; QĐHP, chấp hành hình phạt, việc tuyên truyền giáo dục ý thức pháp luật trong xã hội Trong tất cả các yếu tố nêu trên chúng tôi nhận thấy rằng việc QĐHP có ý nghĩa quan trọng nhất. Việc chấp hành hình phạt có kết quả tốt, nếu Tòa án QĐHP đúng (đúng người, đúng tội, đúng với các quy định của pháp luật hình sự và áp dụng chính xác các căn cứ QĐHP). 1.2. Khái niệm, các căn cứ và ý nghĩa của việc quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt 1.2.1. Khái niệm quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt a. Khái niệm của việc quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội Theo quan điểm của chúng tôi có thể đưa ra định nghĩa khoa học của khái niệm này như sau: QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội là việc Tòa án xem xét QĐHP cho hành vi chuẩn bị phạm tội theo các điều của BLHS hiện hành về các tội phạm tương ứng, căn cứ trên tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và ý định phạm tội và những tình tiết khác khiến cho hành vi chuẩn bị phạm tội không thực hiện được tới cùng. b. Khái niệm của việc quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội chưa đạt Bằng việc phân tích trên đây, tác giả đưa ra định nghĩa khoa học của khái niệm này như sau: QĐHP trong trường hợp phạm tội chưa đạt là việc Tòa án dựa trên các quy định hình sự hiện hành, tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, ý chí chủ quan thể hiện mức độ của ý định phạm tội, và những tình tiết khách quan khác khiến cho tội phạm không thực hiện được tới cùng. Qua đó đưa ra mức hình phạt phù hợp với người phạm tội trong trường hợp phạm tội chưa đạt. 1.2.2. Ý nghĩa của việc quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt - QĐHP có giá trị cho việc phòng ngừa chung và phòng ngừa riêng, giúp người dân tôn trọng các giá trị và qui tắc đạo đức trong đời sống xã hội và ý nghĩa trong hoạt động đấu tranh phòng, chống, giáo dục, cải tạo. 1.2.3. Các đặc điểm quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt a. Đặc điểm quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội 7 Chuẩn bị phạm tội là hành vi cố ý, chuẩn bị cho các bước tiếp theo của quá trình phạm tội, đã thể hiện ra ngoài thế giới khách quan, bằng ý chí của chủ thể phạm tội. Thỏa mãn ý định phạm tội bằng hành vi tìm kiếm công cụ, phương tiện, hay các điều kiện khác để thực hiện ý định phạm tội của mình. Dựa trên những đặc trưng đánh giá về lượng nêu trên, việc QĐHP cho chuẩn bị phạm tội phải nhẹ hơn so với tội phạm hoàn thành trong điều luật tương ứng. Điều này thể hiện được nguyên tắc công bằng trong QĐHP nói chung và QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội nói riêng. Các căn cứ cho việc xác định "tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội" b. Đặc điểm của việc quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội chưa đạt QĐHP trong trường hợp phạm tội chưa đạt giống giai đoạn tố tụng đối với các tội phạm khác, nhưng người phạm tội được giảm nhẹ đặc biệt. Tòa án phải dựa theo các căn cứ chung về QĐHP xem xét yếu tố khách quan khác khiến cho tội phạm không thực hiện được đến cùng. QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội thì trong giai đoạn phạm tội chưa đạt phải chịu TNHS về tất cả các tội phạm thực hiện có trong luật hình sự hiện hành. 1.3. Khái quát sự hình thành và phát triển của các quy phạm về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay 1.3.1. Giai đoạn từ Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi pháp điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật hình sự năm 1985 Sự kiện Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công đánh dấu một bước quan trọng về mọi mặt của Nhà nước ta, trong đó pháp luật giai đoạn này cũng đánh dấu một thời kỳ mới. Thời gian này, bước đầu Nhà nước mới thành lập đã cho ra đời các qui định, pháp luật nhằm bảo vệ và duy trì ổn định một Nhà nước còn non trẻ, mang tính sáng tạo, nhân văn và đậm đà bản sắc dân tộc. Mặc dù vậy, trong hoàn cảnh đất nước vừa có chiến tranh vừa hòa bình thì không thể có điều kiện xây dựng BLHS điều chỉnh đầy đủ các hành vi xâm phạm nói trên được. Pháp luật trong giai đoạn này cũng đề cập tới trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt trong các các tội phạm cụ thể, tiêu biểu như các quy định sau: Sắc lệnh số 02/SLT ngày 18/06/1957 quy định về một trong những trường hợp khẩn mà cơ quan công an có thể bắt giữ trước khi có lệnh viết của cơ quan tư pháp từ cấp tỉnh hoặc thành phố trở lên hoặc của Tòa án binh khi có hành vi chuẩn bị làm việc phạm pháp, trên cơ sở quy phạm pháp luật này, thì bất kỳ người nào có hành vi, mục đích làm những việc phạm pháp xâm hại tới khách thể được Nhà nước bảo vệ như: Chính quyền nhân dân, tính mạng, sức khỏe và tài sản của cá nhân và tập thể thì dù chỉ là hành vi chuẩn bị công cụ phương tiện "phạm pháp" thì cũng bị bắt giữ, để điều tra và xử lý. Tòa án nhân dân tối cao, cũng có những văn bản hướng dẫn cho các Tòa án cấp dưới khi xét xử hay trong các báo cáo tổng kết hàng năm. 1.3.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến nay BLHS Việt Nam năm 1985 ra đời đánh dấu những bước chuyển đổi của nền kinh tế tập trung sang nền kinh kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Sự thay đổi hình thức quản lý kinh tế này đã ảnh hưởng và tác động to lớn tới sự ra đời của BLHS đầu tiên của nước ta năm 1985 được Quốc hội khóa VI, kỳ họp 9 thông qua và có hiệu lực ngày 01/01/1986. Qua các lần sửa đổi, bổ sung trong những năm 1989, 1991, 1992, và 1997, nhưng BLHS Việt Nam năm 1985 các quy định về QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt không thay đổi. Nhưng qua thực tiễn xét xử hơn mười năm từ 1985 - 1999 thấy rằng nhược điểm rõ ràng tại quy định trên về QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt. Tại kỳ họp Quốc hội 6, khóa X thông qua BLHS Việt Nam năm 199, có hiệu lực từ ngày 01/07/2000. 8 Được quy định tại các Điều 17, Điều 18 BLHS Việt Nam năm 1999 về chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt tại Điều 52 BLHS hiện hành tại chương về QĐHP. Chương 2 CÁC QUY PHẠM VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 2.1. Các quy phạm về quyết định hình phạttrong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt 2.1.1. Các quy phạm quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội Theo quy định tại Phần chung BLHS, việc chuẩn bị phạm tội chưa trực tiếp tác động tới quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ, chưa trực tiếp gây nguy hại cho khách thể của luật hình sự nhưng đây là giai đoạn đầu tiên và là tiền đề, là điều kiện cho việc thực hiện HVPT được diễn ra nhanh chóng, gọn nhẹ, rút ngắn thời gian thực hiện HVPT nhanh nhất Về cơ bản có các dạng sau: - Tìm kiếm công cụ, phương tiện thực hiện tội phạm - Sửa soạn công cụ phương tiện thực hiện tội phạm - Cố ý tạo ra các điều kiện cần thiết khác để thực hiện tội phạm Tóm lại, BLHS Việt Nam năm 1999 quy định việc QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội theo điều luật là phù hợp, bởi lẽ, Tòa án xem xét các căn cứ, tình tiết cụ thể của vụ án, để ra quyết định hình phạt trong trường hợp giảm nhẹ đặc biệt đối so với các trường hợp phạm tội chưa đạt và phạm tội hoàn thành, theo các điều tương ứng của Bộ luật hình sự. Tùy theo tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, mức độ thực hiện ý định phạm tội và các tình tiết khác khiến cho tội phạm không thực hiện được tới cùng. Mức cao nhất của khung hình phạt tù chung thân, tử hình thì không quá 20 năm tù; tù có thời hạn không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định. Điều kiện QĐHP với hành vi chuẩn bị phạm tội: Một là, người đó phải có năng lực TNHS, là chủ thể của TNHS. Người đó có khả năng nhận thức đầy đủ tính chất pháp lý của hành vi do mình thực, có khả năng điều khiển hành vi của mình. Hai là, người chuẩn bị phạm tội phải đủ tuổi chịu TNHS do luật hình sự quy định. Ba là, tại thời điểm thực hiện hành vi chuẩn bị phạm tội thì người đó phải có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi do mình thực hiện. Bốn là, hành vi chuẩn bị phạm tội đã thể hiện ra bên ngoài khách quan, là hành vi chuẩn bị phạm tội cho những tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Năm là, người chuẩn bị phạm tội phải có lỗi cố ý trong việc chuẩn bị phạm tội. Ý chí bên trong và ý chí bên ngoài. Sáu là, hành vi chuẩn bị phạm tội đối với những tội được quy định trong BLHS, xâm hại tới khách thể được luật hình sự bảo vệ. 2.1.2. Các quy phạm về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội chưa đạt Phạm tội chưa đạt: Là hành vi đã được miêu tả trong cấu thành tội phạm, nhưng hành vi đó không thực hiện được tới cùng, chưa có hậu quả xảy ra. Hoặc hậu quả đó không phù hợp với hậu quả được quy định trong cấu thành tội phạm. Có hậu quả xảy ra nhưng không phù hợp với mối quan hệ nhân quả, với hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm. Hoặc người đó mới thực hiện được một phần trong nhiều hành vi khách quan mô tả trong cấu thành tội phạm. Chúng tôi đồng nhất với quan điểm: Là người đó đã bắt tay vào việc thực hiện tội phạm (thực hành) hành vi này đã đầy đủ các dấu hiệu khách quan của của cấu thành tội phạm cụ 9 thể được quy định trong Phần các tội phạm cụ thể. Hành vi không thực hiện được đến cùng ngoài ý muốn của người phạm tội. Đó là hành vi đi liền trước hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm mà không tách ra được. Chúng tôi đưa ra định nghĩa khoa học về căn cứ QĐHP trong trường hợp phạm tội chưa đạt: là việc Tòa án xem xét lựa chọn mức hình phạt tương ứng với hành vi và mức độ phạm tội, ý định phạm tội, dựa trên các điều luật tương ứng của Bộ luật hình sự hiện hành. Chưa đạt chưa hoàn thành hoặc chưa đạt đã hoàn thành (vì kết quả mà người phạm tội dự định đạt được nhiều hơn ở giai đoạn chưa đạt đã hoàn thành). So sánh hai trường hợp này, hành vi chưa đạt đã hoàn thành gần với tội phạm hoàn thành nên mức hình phạt cho hành vi này trên thực tế thường cao hơn. Các trường hợp khách quan thường gặp là: - Sự việc xảy ra bất ngờ mà người phạm tội không nghĩ rằng sẽ xảy ra hoặc có xảy ra thì vẫn có thể ngăn cản được. - Người bị hại có khả năng chống cự được nên hậu quả không xảy ra như mong muốn ban đầu của người phạm tội. - Do các thể nhân khác đã phát hiện và kịp thời ngăn chặn - Khả năng và trình độ của chính người phạm tội kém nên hậu quả không xảy ra. - Do ngoại cảnh thiên nhiên bên ngoài ngăn cản 2.1.3. Văn bản hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 4/8/2000 về "Hướng dẫn áp dụng một số quy định trong Phần chung của Bộ luật hình năm 1999", trong đó có hướng dẫn về phạm tội chưa đạt trong Điều 18 như sau: Một là, theo quy định tại Điều 18, BLHS năm 1999 thì phạm tội chưa đạt là trường hợp đã bắt đầu cố ý thực hiện tội phạm, nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội. Hai là, trong trường hợp xác định được hành vi vi phạm mà người đó thực hiện không đạt vì những nguyên nhân ngoài ý muốn chủ quan của họ không có đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm hoặc trong trường hợp không thể xác định được hành vi vi phạm mà họ thực hiện. Ba là, khi QĐHP trong trường hợp phạm tội chưa đạt, ngoài việc phải áp dụng điểm, khoản, điều luật quy định về tội phạm đó, cần phải áp dụng Điều 18 và các khoản 1 và 3 Điều 52 BLHS năm 1999. 2.2. Tthực tiễn áp dụng các quy phạm của pháp luật hình sự trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt 2.2.1. Thực tiễn áp dụng các quy phạm của pháp luật hình về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội Số lượng các vụ án ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội được truy tố và đưa ra xét xử là không nhiều, chiếm tỷ rất nhỏ. Mặc dù phần lớn các tội phạm đều có hành vi chuẩn bị phạm tội. Qua thực tiễn xét xử hơn mười năm (2000 - 2011) chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các hành vi chuẩn bị phạm tội đối với các loại tội phạm với tính chất mức độ rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng về mặt khách quan đã biểu lộ ý chí, hành vi ra bên ngoài thì mới xem xét và bị truy cứu TNHS. Các loại tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia, hành vi chuẩn bị truyền đơn, tài liệu chống phá nhằm lật đổ chính quyền nhân dân tất cả các hành vi này dù chưa hoàn thành các yếu tố cấu thành tội phạm đều bị xét xử là tội phạm ở giai đoạn hoàn thành. Thực tiễn cho thấy số lượng về các vụ việc đưa ra xét xử tội phạm trong trường hợp chuẩn bị phạm tội chiếm tỷ lệ 0.01% trong tổng số các vụ án được thụ lý và đưa ra xét xử. 2.2.2. Thực tiễn áp dụng các quy phạm của pháp luật hình sự trong trường hợp phạm tội chưa đạt 10 Thực tiễn xét xử thấy ở giai đoạn chưa đạt tồn tại ở những loại như sau: Một là, phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành Đây là trường hợp chưa đạt về hậu quả, chưa hoàn thành về hành vi. Hai là, phạm tội chưa đạt đã hoàn thành Ba là, phạm tội chưa đạt vô hiệu là trường hợp "Ngoài hai trường hợp nêu ở trên khoa học luật hình sự cũng như sách báo pháp lý còn đưa ra trường hợp phạm tội chưa đạt do vô hiệu". Về ý chí thực hiện tội phạm là mong muốn thực hiện đến cùng như hai trường hợp nêu trên. Vì vậy, tính chất nguy hiểm cho xã hội phải đặt ra, như các hành vi: giết người nhưng người đó đã chết, ăn trộm nhưng là tiền giả, bắn người nhưng đạn hỏng Qua việc xem xét, điều tra những bản án đã được xét xử trong địa bàn của tỉnh Thái Bình, tỉnh Phú Thọ và huyện Giao Thủy tỉnh Nam Định, hành vi của các loại tội phạm chưa đạt chúng tôi nhận thấy: Thông thường các trường hợp phạm tội chưa đạt tập trung vào các loại tội phạm chủ yếu như sau: Tội giết người (Điều 93 BLHS Việt Nam năm 1999); Tội hiếp dâm (Điều 111 BLHS Việt Nam năm 1999); Tội trộm cắp tài sản (Điều 138 BLHS Việt Nam năm 1999); Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139 BLHS Việt Nam năm 1999). Chương 3 HOÀN THIỆN CÁC QUY PHẠM CỦA LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT 3.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện các quy phạm pháp luật hình sự về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt 3.1.1. Về phương diện lập pháp Về phương diện lập pháp, các quy định về QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội có những điểm thiếu hợp lý như sau: Một là, mặc dù, được quy định và ghi nhận thành các điều độc lập về hành vi chuẩn bị phạm tội trong BLHS, tuy nhiên, trong việc áp dụng thực tế xét xử gây ra nhiều cách hiểu khác nhau Hai là, Nghị quyết số 01/2000-NQHĐTP ngày 04/08/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định trong Phần chung BLHS năm 1999 cũng được coi là văn bản có tính chất pháp lý cho việc áp dụng. Những vận dụng, đối chiếu nhiều văn bản pháp lý như trên, tạo nên những khó khăn nhất định cho hoạt động xét xử của Tòa án. Hiện có các xu hướng sau: Xu hướng thứ nhất, nếu hành vi thỏa mãn khung hình phạt nào thì vận dụng khung hình phạt đó. Xu hướng thứ hai, nếu hành vi chưa thỏa mãn tình tiết tăng nặng định khung mà vận dụng khung tăng nặng điều đó có nghĩa là đồng nhất tính nguy hiểm cho xã hội của trường hợp chuẩn bị phạm tội với những trường hợp tăng nặng của tội phạm đã hoàn thành. 3.1.2. Về phương diện thực tiễn Việc quy định ở Điều 52 của BLHS không chỉ ra khung hình phạt để áp dụng, chỉ đưa ra mức quy định 1/2 và 3/4 như trên rất khó khăn cho việc xác định khung hình phạt áp dụng. Hiện nay có nhiều cách thức giải quyết vấn đề như sau: Cách thứ nhất cho rằng: hành vi thỏa mãn khung hình phạt nào thì vận dụng khung hình phạt đó để QĐHP đối với người phạm tội. Cách thứ hai cho rằng: thỏa mãn cấu thành tội phạm tăng nặng TNHS và vận dụng khung tăng nặng thì đồng nhất tính nguy hiểm cho xã hội của trường hợp tăng nặng của tội phạm đã hoàn thành. 3.1.3. Về phương diện lý luận 11 Về mặt lý luận, cần phải tuân thủ các quy định về QĐHP nói chung và các quy định đặc thù riêng của Điều 17, Điều 18, Điều 52 BLHS Việt Nam năm 1999. Tính chất MĐNH cho xã hội của hành vi chuẩn bị phạm tội, HVPT chưa đạt; Nhân thân người phạm tội: Qua nhìn nhận thực tiễn xét xử trong hơn 10 năm qua chúng tôi có một số nhận xét chung sau đây: Một là, chưa nhận thức đúng về các căn cứ QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt. Hai là, nhận thức chưa đúng về mức độ phải chịu TNHS. Cụ thể vận dụng mức 1/2 và 3/4 mức phạt tù mà điều luật quy định trong mỗi Tòa án khác nhau, điều này thiếu thống nhất và đồng bộ trong việc áp dụng cùng một điều luật. Ba là, chưa có sự phân biệt cụ thể về các trường hợp: Tội phạm hoàn thành, tội phạm chưa đạt; tội phạm chưa đạt chưa hoàn thành; tội phạm chưa đạt đã hoàn thành và tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. 3.2. Giải pháp cụ thể sửa đổi, bổ sung các quy phạm pháp luật hình sự về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt 3.2.1 Nhận xét các quy phạm pháp luật hình sự về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt Thứ nhất, các quy phạm QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội phạm tội chưa đạt là việc QĐHP trong trường hợp giảm nhẹ đặc biệt so với tội phạm hoàn thành. Việc Nhà nước quy định về TNHS cho trường hợp nêu trên đã giải quyết cho thực tiễn xét xử của các Tòa án trong thời gian qua, những quy định của pháp luật hình tại Điều 17, Điều 18 và Điều 52 BLHS hiện hành, đã góp phần cho cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm của Nhà nước ta. Thứ hai, qua hơn mười năm thực hiện (năm 1999 - 2011), qua thực tiễn xét xử thấy rằng các quy định hình sự nêu trên còn có nhiều điểm bất cập chưa phù hợp với thực tế. Thứ ba, các quy định trên về câu chữ còn gây nên cách hiểu chưa chính xác, dẫn tới các Tòa án áp dụng PLHS không đồng nhất. Trường hợp phạm tội chưa đạt đã hoàn thành tính chất MĐNH hơn, gần với phạm tội hoàn thành, nên cần QĐHP nặng hơn. Như vậy, mới đạt được nguyên tắc công bằng trong QĐHP nói chung và QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt nói riêng. Thứ tư, Điều 52 BLHS quy định một cách chung chung 3.2.2. Nội dung sửa đổi, bổ sung các quy phạm pháp luật hình sự về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt Thứ nhất, cần phải bổ sung vào BLHS hiện hành một cách khái quát và cơ bản về các trường hợp: Chuẩn bị phạm tội; phạm tội chưa đạt; tự ý nửa chừng chấm rứt việc phạm tội; phạm tội hoàn thành; phạm tội chưa đạt chưa đạt chưa hoàn thành; phạm tội chưa đạt đã hoàn thành. Cụ thể, Điều 18 BLHS nên sửa như sau" Phạm tội chưa đạt là hành vi cố ý thực hiện tội phạm nhưng tội phạm đã không được thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người phạm tội". Thứ hai, bổ sung vào khoản 1 Điều 52 BLHS: " điểm b, khung hình phạt áp dụng đối với phạm tội chưa đạt là khung mà HVPT thỏa mãn có thể là khung cơ bản, khung tăng nặng hay khung giảm nhẹ. Đối với chuẩn bị phạm tội, khung hình phạt được áp dụng là khung cơ bản". Thứ ba, khoản 2 và khoản 3 Điều 52 BLHS nên quy định là không quá 1/2 hoặc không quá 3/4 mức phạt tù cao nhất của điều luật tương ứng quy định Có thể bổ sung vào khoản 3 Điều 52 BLHS như sau: "Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình, thì chỉ có thể áp dụng các hình phạt này trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt nằm trong giới hạn ba phần tư mức tối thiểu và không quá ba phần tư mức tối đa của khung hình phạt mà điều luật tương ứng qui định". Khi người phạm tội vừa có tình tiết 12 tăng nặng, vừa có tình tiết giảm nhẹ TNHS thì Tòa án áp dụng khung hình phạt trong biên độ dao động nhỏ, nên sẽ bảo đảm tính chính xác cao. Thứ tư, không nên quy định QĐHP cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình đối với trường hợp phạm tội chưa đạt. QĐHP tù chung thân hoặc tử hình đối với các "trường hợp đặc biệt nghiêm trọng", tuy nhiên các nhà làm luật không đưa ra định nghĩa pháp lý về trường hợp đặc biệt nghiêm trọng. Điều này, gây nên những hiểu lầm khi QĐHP đối với các Tòa án khác nhau, khi áp dụng vào khoản 3, Điều 52 BLHS hiện hành, "thế nào là trường hợp đặc biệt nghiêm trọng", cần qui định cụ thể trong BLHS hiện hành. Thứ năm, nên thu hẹp phạm vi xử lý về hình sự đối với các tội phạm trong trường hợp hành vi ít nghiêm trọng và những loại tội phạm về kinh tế, các tội xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Thứ sáu, nên bổ sung thêm tại Phần chung của BLHS về nội dung "Cấu thành tội phạm của hành vi phạm tội chưa đạt". 3.2.3. Mô hình lý luận và các kiến giải lập pháp về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt Thứ nhất, những quy định này, bảo đảm được những đòi hỏi trong thực tiễn xét xử, tuân thủ các nguyên tắc trong QĐHP nói chung, vừa mang tính logic về mặt pháp lý, chặt chẽ về kỹ thuật lập pháp của PLHS, cụ thể hóa TNHS đối với hai hành vi nêu trên. Thứ hai, việc đưa ra mô hình lý luận sửa đổi, bổ sung cho các quy định QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt sẽ là căn cứ pháp lý Tòa án QĐHP bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ; Đồng thời tránh gây nên nhiều cách hiểu khác nhau trong cùng một điều luật; Có sự cá thể hóa rõ ràng từng hành vi đối với các trường hợp về chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành, phạm tội chưa đạt đã hoàn thành và phạm tội hoàn thành. Thứ ba, trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên cơ sở về các khái niệm về PLHS theo cách hiểu phổ biến hiện nay, bảo đảm tính thống nhất về mặt khoa học, chặt chẽ về kỹ thuật lập pháp vì: Chúng tôi đồng tình với những kiến giải lập pháp của GS.TSKH. Lê Văn Cảm bổ sung một điều luật ở Phần chung BLHS hiện hành như sau: Điều.... Tội phạm chưa hoàn thành (mới): 1. Tội phạm chưa hoàn thành là hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt. 2. Trách nhiệm hình sự đối với hành vi chuẩn bị phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng được xác định theo điều tương ứng về tội phạm hoàn thành trong Phần các tội phạm và Điều 17, Điều 52 3. Trách nhiệm hình sự đối với tội phạm chưa hoàn thành do HVPT chưa đạt được xác định theo điều tương ứng về tội phạm hoàn thành trong Phần các tội phạm đồng thời viện dẫn Điều 18 và Điều 52 BLHS năm 1999. Điều... Chuẩn bị phạm tội (Điều 17 BLHS năm 1999) 1. Chuẩn bị phạm tội là hành vi tìm kiếm hoặc sửa soạn công cụ hay phương tiện thực hiện tội phạm, cũng như tìm kiếm những người đồng phạm, cấu kết với nhau hoặc cố ý tạo ra những điều kiện

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf00050000660_7164_2009901.pdf
Tài liệu liên quan