3.2.1.1.Cần sửa đổi để thống nhất giữ phần chung và phần các tội phạm về tuổi chịu
trách nhiệm hình sự
3.2.1.2. Cần giải thích cụ thể và xác định độ tuổi các thuật ngữ liên quan đến xác định
độ tuổi như: trẻ em, người chưa thành niên, người già
Hiện nay các thuật ngữ này được dùng nhiều trong Bộ luật hình sự, tuy nhiên do sử
dụng không đồng nhất trong các điều luật nên nên cần phải giải thịch cụ thể.
3.2.1.3. Cần xác định cụ thể độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong một số tội phạm cụ thể
Hiện nay, trong một số tộ phạm cụ thể, do không quy định cụ thể độ tuổi chịu trách nhiệm
hình sự, nhưng trong các thông tư hướng dẫn lại đưa ra độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Xét
về nội dung là phù hợp, Nhưng xét về kỹ thuật lập pháp và giá trị pháp lý thì không bảo đảm.
3.2.1.4. Xem xét điều chỉnh loại và mức trách nhiệm hình sự cho các lứa tuổi
Hiện nay, do tình trạng người chưa thành niên phạm tội và thậm chí là người dưới 14
tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội diễn biến phức tạp, có chiều hướng gia tăng về
số lượng và tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi như đã phân tích trong phần thực trạng.
20 trang |
Chia sẻ: lanphuong92 | Lượt xem: 899 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những vấn đề lý luận và thực tiễn về tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo Luật Hình sự Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g đối hệ thống đầu tiên ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học phân tích và
làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về tuổi chịu TNHS trong luật hình sự Việt Nam.
Bên cạnh đó, luận văn còn phân tích chế định tuổi chịu TNHS trong sự so sánh với quy
định của một số nước trên thế giới, sự ảnh hưởng của lịch sử có dựa trên các điều kiện phát triển
kinh tế - xã hội và đặc điểm tâm sinh lý của con người qua từng thời kỳ. Đồng thời, đánh giá tiễn
áp dụng chế định tuổi chịu TNHS, những bất cập, vướng mắc và phân tích chúng qua các vụ án cụ
thể. Từ đó, luận văn đưa ra giải pháp khắc phục và kiến giải nhằm hoàn thiện chế định tuổi chịu
TNHS trong pháp luật hình sự Việt Nam dưới góc độ lập pháp hình sự và thực tiễn áp dụng.
Luận văn có giá trị là tư liệu tham khảo cho các nhà lập pháp-hoạch định chính sách, các
nhà tâm lý-xã hội học, các nhà khoa học-thực tiễn, sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh
chuyên ngành luật hình sự
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm ba chương
chính với nội dung:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam
Chương 2: Thực tiễn áp dụng các quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong hoạt động áp
dụng pháp luật hình sự ở Việt Nam trong thời gian qua
Chương 3: Những giải pháp hoàn thiện chế định tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong pháp luật
hình sự Việt Nam.
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ TUỔI CHỊU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm và các đặc điểm cơ bản của tuổi chịu TNHS
1.1.1. Khái niệm tuổi chịu TNHS
Theo Đại từ điển Tiếng Việt – NXB Văn hóa thông tin năm 1998 tr.1750 thì tuổi là: “Năm,
dùng làm đơn vị tính thời gian sống của người, là khoảng thời gian từ khi sinh ra đến thời điểm
xác định nào đó”.
6
Trách nhiệm hình sự là “trách nhiệm của người phạm tội phải chịu những hậu quả pháp lí
bất lợi về hành vi phạm tội của mình”
Tuổi chịu trách nhiệm hình sự là yếu tố không thể thiếu trong quá trình xem xét truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với một người.
Trên cơ sở phân tích về tuổi chịu trách nhiệm hình sự như trên, có thể rút ra định nghĩa về
tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau: Tuổi chịu trách nhiệm hình sự là độ tuổi được luật hình sự
quy định nhằm xác định khi một người phát triển đến độ tuổi đó mới có thể phải chịu trách nhiệm
hình sự hoặc loại trách nhiệm, mức trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội do mình gây ra
1.1.2. Các đặc điểm cơ bản của tuổi chịu TNHS
1.1.2.1. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự do luật hình sự quy định
Mỗi ngành luật có cách xác định khác nhau về dộ tuổi. Chính vì vậy, về nguyên tắc, khi xác
định tuổi chịu trách nhiệm hình sự, chúng ta cần căn cứ vào những quy định của luật hình sự mà
không viện dẫn các quy định của các ngành luật khác.
1.1.2.2. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự là tuổi tròn
Tại điều 12 Bộ luật hình sự 1999 quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự đều quy định:
“người từ đủ 16 tuổi...” và “người từ đủ 14 tuổi”. Cách tính tuổi tròn được xác định bằng cách lấy
ngày sinh nhật gần nhất của người đó để tính.
1.1.2.3. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự tính từ thời điểm người đó sinh ra đến thời điển
người đó thực hiện hành vi phạm tội
Thời điểm đầu để xác định tuổi của người phạm tội là ngày người đó được sinh ra.
Thời điểm sau để xác định độ tuổi đó là thời điểm hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện.
1.2. Cơ sở khoa học và thực tiễn của việc quy định tuổi chịu TNHS trong luật hình sự
Việt Nam
1.2.1. Cơ sở tâm sinh lý học
Triết học Mác-Lênin thừa nhận sự phát triển là quá trình biến đổi của sự vật từ thấp đến cao,
từ đơn giản đến phức tạp. Đó là một quá trình tích lũy dần về số lượng, dẫn đến sự thay đổi về
chất lượng, là quá trình nảy sinh cái mới trên cơ sở cái cũ do sự đấu tranh giữa các mặt đối lập
nằm ngay trong bản than các sự vật, hiện tương.
Nguyên lí này được vận dụng để xem xét sự phát triển tâm sinh lí cong người. Bản chất của
sự phát triển tâm sinh lý con người không phải chỉ là sự tăng hay giảm về số lượng mà là một quá
trình biến đổi về chất trong tâm sinh lý, sự thay đổi về lượng của các chức năng tâm lí dẫn đến sự
thay đổi về chất và đưa đến sự hình thành cái mới một cách nhảy vọt. Sự phát triển tâm lý gắn liền
với sự xuất hiện những những đặc điểm mới về chất - những cấu tạo tâm sinh lý mới ở những giai
đoạn lứa tuổi nhất định
Sự phát triển tâm sinh lý là một quá trình kế thừa. Bất cứ một mức độ nào của trình độ trước
cũng là sự chuẩn bị cho trình độ sau. Yếu tố tâm sinh lý lúc đầu ở vị trí thứ yếu, chuẩn bị cho tâm
sinh lý sau chuyển sang vị trí chủ yếu.
7
Căn cứ vào những thay đổi cơ bản trong điều kiện sống và hoạt động của con người, căn cứ
vào những thay đổi trong cấu trúc tâm lí và cả sự trưởng thành cơ thể của con người, người ta chia
ra một số thời kỳ chủ yếu trong sự phát triển tâm sinh lý của con người.
Mỗi thời kì có một vị trí, vai trò nhất định trong quá trình chuyển từ đứa trẻ mới sinh sang
một nhân cách trưởng thành. Một thời kì phát triển có nét tâm sinh lý đặc trưng của mình, mà đứa
trẻ phải trải qua. Sự chuyển từ thời kì này sang thời kì khác bao giờ cũng gắng với sự xuất hiện
những cấu tạo tâm sinh lý mới về chất.
Đến 18 tuổi thì các bộ phận và các hệ của con người cơ bản đã phát triển hoàn chính, con
người phát triển bình thường có thể hoàn toàn tự chủ trong việc thực hiện hành vi của mình cả về
lý trí, ý chí lẫn xử sự trên thực tế.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn
Thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm là cơ sở thực tiễn để xác định và quy định độ tuổi
chịu trách nhiệm hình sự.
Ở nước ta, trong các giai đoạn phát triển khác nhau, cũng xuất phát từ chính sách hình sự và
xác định khách thể bảo vệ khác nhau mà tuội chịu trách nhiệm hình sự cũng khác nhau.
Trong giai đoạn hiện nay, từ thực tiễn đấu tranh đối với những hành vi xâm phạm khác thể
bảo vệ luật hình sự cho thấy, người từ dưới 14 tuổi thực hiện hành vi xâm phạm vào quan hệ xã
hội được luật hình sự bảo vệ là rất ít. Từ thực tiễn đó cho nên luật hình sự Việt Nam hiện hành xác
định người dưới 14 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về bất kỳ hành vi nguy hiểm nào do
họ gây ra.
Lứa tuổi từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi là lứa tuổi đã hình thành cơ bàn về nhân cách, các xử sự
của họ đã thể hiện tính độc lập cao hơn rất nhiều so với lứa tuổi dưới 14. Vì vậy, trách nhiệm hình
sự đối với lứa tuổi này cũng chỉ được xác định trong những trường hợp nhất định.
Thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm cũng cho thấy những người từ 16 tuổi trở lên là
lứa tuổi phổ biến nhất thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm và các quan hệ xã hội
được luật hình sự bảo vệ. Vì vậy pháp lật hình sự nước ta mới xác định từ lứa tuổi này trở lên họ
phải chịu trách nhiệm về mọi tội phạm do họ gây ra.
Tóm lại để xác định các vấn đề liên quan đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong luạt hình
sự, các nhà làm luật cần phải căn cứ vào cả hai yếu tố là cơ sở tâm sinh lý học và cơ sở thực tiễn
công tác đấu tranh phòng chống tội phạm
1.2.3. Mối quan hệ giữa tuổi chịu TNHS với năng lực TNHS và với chủ thể của tội phạm
Năng lực trách nhiệm hình sự là điều kiện cần thiết để có thể xác định con người có lỗi khi
họ thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và năng lực trách nhiệm hình sự có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau.
Luật hình sự các quốc gia dựa trên cơ sở kết quả các công trình nghiên cứu, khảo sát tâm lí
cũng như căn cứ vào chính sách hình sự của mình đã quy định độ tuổi bắt đầu có năng lực chịu
8
trách nhiệm hình sự và độ tuổi có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ, mức tuổi cụ thể của tuổi
bắt đầu có năng lực trách nhiệm hình sự và tuổi có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ được xác
định ở mỗi quốc gia và có thể ở mỗi thời gian nhất định trong các quốc gia không giống nhau.
Chủ thể của tội phạm theo luật hình sự Việt Nam hiện hành chỉ có thể là con người cụ thể.
Nhưng không phải ai cũng có thể trở thành chủ thể của tội phạm khi thực hiện hành vi được quy
định trong luật hình sự.Một trong những điều kiện để có thể trở thành chủ thể của tội phạm là đạt
đến độ tuổi nhất định.
1.3. Những quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự qua các thời kỳ lịch sử Việt Nam
1.3.1. Thời kỳ phong kiến
Sự hình thành Nhà nước trong lịch sử Việt Nam được bắt đầu từ thời Hùng Vương xây dựng
Nhà nước Văn Lang - Âu Lạc. Cho đến Giai đoạn thời kỳ Nhà Hồ, do Giai đoạn Nhà minh đô hộ
nước ta, với chủ trương đồng hóa, Tất cả các tư liệu lịch sử của các triều đại phong kiến Việt Nam
trong giai đoạn này đều bị chúng đưa về Trung Quốc hoặc đốt tiêu hủy, nên không còn nhiều tài
liệu cho phép tìm hiểu cụ thể và đánh giá đầy đủ các quy định về tuổi liên quan đến trách nhiệm
hình sự trong giai đoạn này.
Thế kỷ XV, là thời kỳ nhà Lê, sau chiến thắng của Lê Lợi chống quân xâm lược nhà Minh,
Nhà nước Việt Nam thời kỳ đó phát triển thành Nhà nước phong kiến Trung ương tập quyền.
Trong lĩnh vực xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, bắt đầu từ thời Lê Thái Tổ, đến thời Lê
Thánh Tông đã xây xong Bộ Luật Hồng Đức, thường được gọi là Bộ Quốc Triều Hình Luật gồm 6
quyển, 13 chương với 722 điều luật.
Trong Bộ luật Hồng Đức chứa đựng nhiều quy định liên quan đến tuổi chịu trách nhiệm
hình sự, như có nhiều quy định bênh vực quyền lợi trẻ em, người già.
Từ thế kỷ thứ XVI đến thế kỷ thứ XVIII là thời kỳ nội chiến, thời kỳ phân chia cát cứ quản
lý Đàng trong, Đàng ngoài và thống nhất đất nước bằng cuộc khởi nghĩa Tây Sơn do ba anh em
nhà Nguyễn lập lên triều đại Tây Sơn của Hoàng đế Quang Trung - Nguyễn Huệ. Thời kỳ này, về
cơ bản Bộ Luật Hồng Đức vẫn được sử dụng nhất là phần hình sự, có bổ sung một số lĩnh vực
kinh tế, tài chính...
Trong thời gian thế kỷ XIX, Nhà Nguyễn ánh trị vì đất nước, việc xây dựng pháp luật được
quan tâm đặc biệt. Năm 1815, Bộ Hoàng Triều Luật lệ (thường được gọi là Bộ Luật Gia Long)
được xây dựng trên cơ sở Bộ Luật Hồng Đức và Luật lệ Đại Thanh (Trung Quốc). Trong Hoàng
Triều Luật lệ, phần hình sự được cấu tạo tương tự như Bộ Luật Hồng Đức. Nhưng diện trừng trị
của Hoàng Triều Luật lệ mở rộng hơn, đặc biệt là nguyên tắc tập thể chịu hình phạt được áp dụng
đối với tội quan trọng xâm phạm vào lợi ích Nhà nước, lợi ích của nhà vua.
Trong suốt thời gian từ 1858 đến 1945 thực dân Pháp đã thiết lập chính quyền thuộc địa ở
Việt Nam. Đây là thời kỳ, ở nước ta cùng lúc sử dụng hai loại Luật hình. Luật hình sự của Pháp áp
dụng cho người Pháp và người nước ngoài phạm tội ở Việt nam. Luật hình sự của Nhà Nguyễn áp
dụng cho người bản xứ.
9
1.3.2. Thời kỳ từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945 cho đến trước pháp điển hóa lần thứ
nhất - BLHS năm 1985
Sự hình thành và phát triển các quy phạm pháp luật hình sự Việt Nam về độ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự gắn liền với sự hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung
từ ngày thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (2/9/1945).
Trong những ngày đầu mới thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 47/SL ngày
10/10/1945 cho phép áp dụng một số văn bản pháp luật của đế quốc phong kiến, với điều kiện
không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể cộng hòa. Do ba vùng Bắc,
Trung, Nam áp dụng ba Bộ luật hình sự khác nhau cho nên việc xử lý tội phạm ở ba vùng cũng
không thống nhất. Điều này là không phù hợp với chính thể cộng hòa, chính vì vậy việc ban hành
các văn bản pháp luật là một đòi hỏi khách quan. Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa dã ban
hành nhiều văn bản pháp luật tay thế, trong đó có nhiều văn bản quy định liên quan đến tuổi chịu
trách nhiệm hình sự như Sắc lệnh số 97/SL ngày 22-5-1950, Nghị định 181/NV-6 ngày 12-6-1951
của Liên Bộ Nội vụ- Tư pháp, Chỉ thị số 46/TH ngày 14-1-1969 của Tòa án nhân dân tối cao...
Nhìn chung, pháp luật trong giai đoạn này còn thiếu nhiều, chủ yếu xét xử theo án lệ thông qua
công tác tổng kết và hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao. Thông qua sự hướng dẫn đó cũng đã
thống nhất được một số nội dung liên quan đến xác định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự: Về nguyên
tắc, từ 14 tuổi tròn trở lên coi là có trách nhiệm về mặt hình sự. Đối với lứa tuổi từ 14 đến 16 thì
chỉ nên truy tố, xét xử trong những trường hợp phạm các tội nghiêm trọng như giết người, cướp
của, hiếp dâm...
Ở các tỉnh phía Nam, Chính phủ Việt Nam cộng hòa (ngụy quyền Sài Gòn) đã ban hành
nhiều văn bản pháp luật, đặc biệt là Bộ hình luật ngày 20 tháng chạp năm 1972. Bộ luật đã quy
định cụ thể về tuổi chịu trách nhiệm hình sự cũng như chính sách áp dụng đối với người chưa
thành niên phạm tội.
Ngày 30-4-1975 miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, Để hàn gắn vết
thương chiến tranh, lập lại trật tự xã hội, việc thống nhất pháp luật cũ và xây dựng pháp luật mới
là nhiệm vụ cấp bách. Về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong giai đoạn này không có điểm gì
mới. Giai đoạn này, các nhà làm luật cũng đã tổng kết thực tiễn công tác đấu tranh phòng chống
tội phạm ở Việt Nam, tham khảo Bộ luật hình sự của các nước trên thế giới để dự thảo Bộ luật
hình sự năm 1985.
1.3.3. Những quy định BLHS năm 1985
Bộ luật hình sự năm 1985 ra đời và qua bốn lần sửa đổi, bổ sung vào các ngày 28-12-1989;
12-8-1991; 22-12-1992; 10-5-1997 là công cụ quan trọng góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
10
Trên cơ sở căn cứ khoa học cũng như từ thực tiễn công tác đấu tranh phòng chống tội phạm
có thể nói Bộ luật hình sự 1985 đã có một bước phát triển vượt bậc thể hiện trình độ cũng như kỹ
thuật lập pháp của nước ta. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 58:
“Tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
1- Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải trách nhiệm hình sự về những tội
phạm nghiêm trọng do cố ý.
2- Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.”
Thống nhất cách tính tuổi chịu trách nhiệm hình sự được hướng dẫn chi tiết tại nội dung A,
mục IX trong Nghị quyết 02/HĐTP ngày 05-01-1986 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao
hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự.
1.4. Những quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về tuổi chịu trách
nhiệm hình sự và thực tiễn áp dụng
1.4.1. Những quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong Phần chung BLHS năm 1999
Tiếp tục kế thừa, hoàn thiện và bổ sung những quy định trong BLHS 1985 kết hợp với thực
tiễn công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, theo đó tại Điều 12 BLHS 1999 quy định tuổi chịu
trách nhiệm hình sự như sau:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội
phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.”
Sau khi BLHS 1999 được ban hành trước khi chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể vẫn áp dụng
cách tính tuổi chịu trách nhiệm hình sự được hướng dẫn chi tiết tại nội dung A, mục IX trong
Nghị quyết 02/HĐTP ngày 05-01-1986 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp
dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự như đã trình bày ở phần trên.
Ngoài quy định tại Điều 12, trong phần chung BLHS 1999 còn chứa đựng những quy định
khác bao hàm nội dung tuổi chịu trách nhiệm hình sự, cụ thể về đường lối xử lý người chưa thành
niên phạm tội được quy định tại chương X của BLHS 1999.
Như vậy có thể phần chung của BLHS 1999 đã quy định cụ thể tuổi chịu trách nhiệm hình
sự, đồng thời quy định những vấn đề liên quan đến giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người từ
đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi.
1.4.2. Những quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong Phần các tội phạm BLHS
năm 1999
Phần tội phạm cụ thể trong BLHS 1999 bao gồm 276 điều luật với 272 điều luật quy định về các
tội phạm và 4 điều luật khác (Điều 92, Điều 277, Điều 292, Điều 315). Phần lớn các điều luật đều
không quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự cụ thể, tức là chỉ cần đạt độ tuổi theo theo quy định tại
phần chung, cụ thể tại điều 12: Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội
phạm và người từ đủ 14 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố
ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Trong BLHS 1999 có 104/272 điều luật quy định tội phạm cụ
11
thể mà chủ thể chỉ có thể là người từ đủ 16 tuổi trở lên, bên cạnh đó cũng có những tội danh mà người
thực hiện chỉ cần đủ 14 tuổi trở lên. Ngoài ra trong phần này, cũng cố mốt số nhóm tội hoặc tội phạm
cụ thể coa quy định riêng về tuổi chị trách nhiệm hình sự.
12
CHƢƠNG 2
THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ TUỔI CHỊU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
TRONG HOẠT ĐỘNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
2.1. Tình hình vi phạm pháp luật hình sự ở Việt Nam từ năm 2006 đến nay
2.1.1. Cơ cấu tội phạm xác định theo lứa tuổi của chủ thể tội phạm
Nghiên cứu tình hình tội phạm ở nước ta từ năm 2006 đến nay cho thấy, biên độ tuổi của
người phạm tội ngày càng rộng, tính chất tội phạm của những người dưới 16 tuổi và những
người trên 70 tuổi ngày càng nghiêm trọng. Nếu xét về cơ cấu độ tuổi, nghiên cứu thực tiễn từ
năm 2006 đến nay cho thấy, người phạm tội có độ tuổi từ 14 tuổi đến 82 tuổi.
Đối với người chưa thành niên, Tình hình phạm tội do những đối tượng này gây ra trong
thời gian gần đây có chiều hướng gia tăng về số lượng và phức tạp về tội danh và mực độ
nghiêm trọng cho xã hội.
Độ tuổi từ 18 tuổi đến dưới 70 tuổi là độ tuổi phổ biến của người phạm tội và chiếm 96%
tội phạm đã xảy ra từ năm 2006 đến nay cũng như hàng năm.
Độ tuổi tiếp theo chúng ta cần xem xét trên thực tiễn là người phạm tội từ 70 tuổi trở lên.
Trong những năm qua, tội phạm do người từ 70 tuổi trở lên thực hiện có chiều hướng gia tăng.
Các tội phạm do những người này thực hiện là các tội phạm có tính chất vụ lợi như trộm cắp tài
sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, đánh bạc. mua bán trái phép chất ma túy...
2.1.2. Tình hình vi phạm pháp luật xâm phạm các quan hệ xã hội được luật hình sự
bảo vệ nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự do tác động của yếu tố độ tuổi
Đối tượng mà tác giả đề cập đến ở đây chính là những người đã thực hiện các hành vi nguy
hiểm cho xã hội xâm phạm các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ nhưng hành vi của họ
không bị coi là tội phạm vì họ chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Xét về cơ cấu thì chúng ta phải đánh giá tình trạng của tất cả những người từ dưới 14 tuổi
thực hiện hành vi phạm phạm tội và nhưng người từ 14 đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi
phạm tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng do vô ý. Do không có số liệu
thống kê của các cơ quan chức năng nên không thể đánh giá hết mà tác giả chỉ có thể phân tích
thông qua số liệu các đối tượng bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã,
phường thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng do chưa đủ tuổi chịu TNHS. Nghiên cứu cho thấy,
sự trẻ hóa của hành vi phạm tội đã làm cho Nhà nước và cả xã hội quan tâm.
2.2. Thực trạng áp dụng các quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong thời gian qua
2.2.1. Về cách tính tuổi
Nhìn chung, từ khi luật hình sự được pháp điển hóa thành bộ luật đến nay, cách tính tuổi
đã có sự thống nhất theo quy định của Bộ luật hình sự. Nghiên cứu quá trình áp dụng pháp
luật hình sự từ năm 2006 đến nay cho thấy, các cơ qua tiến hành tố tụng hình sự, người tiến
hành tố tụng đã nhận thức rõ về các quy định tuổi trong Bộ luật hình sự, các quy định về độ
13
tuổi đã được thi hành cơ bản đúng yêu cầu. Tuy nhiên vẫn có những sai lầm nhất định. Mặc dù
không còn phổ biến, nhưng cách tính tuổi để xác định trách nhiệm hình sự vẫn còn những trường
hợp chưa thực hiện đúng quy định của BLHS và chưa đúng tinh thần có lợi cho đương sự.
2.2.2. Về thời điểm tính tuổi
Về nguyên tắc, xác định năng lực của chủ thể là xác định vào thời điểm thực hiện hành vi. Tuy
nhiên, xung quanh vấn đề này, trong thực tiễn xuất hiện các tình huống dẫn đến có các quan điểm
khác nhau khi xác định độ tuổi. Điều này đỏi hỏi phải có quan điểm thống nhất về vấn đề này.
2.2.3. Căn cứ xác định tuổi
Nghiên cứu cách tính tuổi của người phạm tội trong quá trình giải quyết vụ án hình sự cho
thấy, hiện nay vẫn chưa có sự thống nhất trong việc lấy căn cứ nào, ưu tiên căn cứ nào để xác định
tuổi. Hơn nữa thực tiễn xã hội Việt Nam cũng gây khó khăn không ít cho việc xác định tuổi trong
quá trình giải quyết các vụ án hình sự.
2.3. Đánh giá việc áp dụng các quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong thời gian qua
2.3.1. Thuận lợi
- Hệ thống pháp luật ngày càng được hoàn thiện
- Các cơ quan quản lý Nhà nước về hộ khẩu, hộ tịch đã từng bước chuẩn hóa trình tự, thủ tục và
căn cứ áp dụng .
- Các cơ quan tiến hành tố tụng ngày càng được hoàn thiện, các yêu cầu về mặt pháp lý của hồ
sơ các vụ án ngày các chặt chẽ.
- Người dân ngày càng nâng cao ý thức trong việc đăng ký hộ tịch, hộ khẩu, làm chứng minh
thư nhân dân.
- Công nghệ thông tin phát triển, giúp các cơ quan tiến hành tố tụng có thể nhanh chóng có được
thông tin để xác định độ tuổi.
2.3.2. Khó khăn
- Hệ thống pháp luật còn thiếu tính đồng bộ, tính phù hợp cũng như kỹ thuật lập pháp.
- Các cơ quan quản lý Nhà nước về hộ tịch, hộ khẩu nhiều nơi, đặc biệt là những vùng nông
thôn vẫn chưa nhận thức đầy đủ về giá trị của các loại giấy tờ mà mình có trách nhiệm cấp cho công
dân, dẫn đến việc cấp tùy tiện không theo đúng trình tự thủ tục, không có căn cứ.
- Trong hoạt động giải quyết các va hình sự, một số người tiến hành tố tụng chưa nhận thức đầy
đủ ý nghĩa của việc xác định tuổi với trách nhiệm hình sự họ phải gánh chịu nên xem nhẹ vấn đề xác
định tuổi.
- Một vấn đề khó khăn nữa là hiện nay vẫn tồn tại nhiều nơi là người dân không đăng ký khai
sinh, không đăng ký cứ trú, không làm chứng minh nhân dân nên họ hầu như không có bất kỳ loại
giấy tờ gì để chứng minh tuổi của họ.
2.3.3. Tác động xã hội của vấn đề tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong thời gian qua
Tình trạng tội phạm do các lứa tuổi khác nhau gây ra trong thời gian qua và trách nhiệm
hình sự họ phải gánh chịu có tác động rất lớn đến xã hội trong thời gian qua.
14
Trước hết là tội phạm do người chưa thành niên gây ra. Do sự không tương xứng giữa
hậu quả cho xã hội do họ gây ra và trách nhiệm hình sự họ phải gánh chịu nên xã hội đã có
những phản ứng với những quy định hiện hành của pháp luật hình sự nhà nước ta và đã đặt ra
vấn đề cần thay đổi chính sách hình sự đối với người chưa thành niên, nếu không sẽ tạo thành
một hiệu ứng tiêu cực trong xã hội đối với lứa tuổi này.
Bên cạnh đó, một bộ phận trong xã hội vẫn cho rằng việc người chưa thành niên phạm
tội vẫn là cá biệt, đặc biệt là lứa tuổi từ 14 đến dưới 15, thậm chí là dưới 16 vẫn chưa hoàn
chỉnh về phát triển nhân cách, tâm sinh lý và trình độ hiểu biết xã hội, cho nên cần có các biện
pháp để giáo dục họ mà không năng về trừng phạt như hiện nay.
CHƢƠNG 3
NHỮNG GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH TUỔI
CHỊU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
3.1. Dự báo tình hình có liên quan đến vấn đề tuổi chịu trách nhiệm hình sự
3.1.1. Xu hướng độ tuổi của những người thực hiện hành xâm phạm vào các quan
hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ trong thời gian tới
“Tội phạm được trẻ hóa” – đó là vấn đề được các phương tiện thông tin đại chúng đề
cập đến rất nhiều.
3.1.2. Xu hướng xác định tuổi chịu trách nhiệm hình sự của các nước trên thế giới.
Nhìn chung, trên thế giới đang có sự xung đột giữa vấn đề nhân quyền và vấn để đảm
bảo thực tiễn trật tự xã hội, nên vẫn đang có hai xu hướng là tăng tuổi chịu trách nhiệm hình
sự và giảm tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
3.1.3. Các yếu tố khác tác động đến vấn đề tuổi chịu trách nhiệm hình sự
Bên cạnh những yếu tố tác động đến nội dung của chế định tuổi chịu trách nhiệm hình
sự trong thời gian tới, một số yếu tố khác tác động đến luật hình thức trong vấn đề xác định
độ tuổi các yếu tố này bao gồm:
- Tình trạng một bộ phận dân cư không đăng ký hộ tịch, hộ khẩu, không làm chứng
minh nhân dân vẫn còn phổ biến; Người nước ngoài nhập cảnh vào Việt Nam ngày càng
tăng; Vẫn còn tồn tại một bộ phận các bộ công chức còn non kém về nghiệp vụ hoặc bị thoái
hóa sẽ làm sai lệch các thông tin tuổi của đương sự; khoa học công nghệ tiếp tục phát triển, là
điều kiện thuận lợi cho việc xác định chính xác độ tuổi.
3.2. Các kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện những quy định của PLHS Việt Nam hiện
hành về tuổi chịu TNHS
3.2.1. Sửa đổi, bổ sung BLHS Việt Nam năm 1999
Mặc dù mới có hiệu lực hơn 10 năm và dã được sửa dổi một lần vào năm 2009, nhưng
những thiếu sót của Bộ luật hình sự liên quan đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự chủ yếu xuất
15
phát từ kỹ thuật lập pháp, một số ít là do sự thay đổi của tình hình thực tiễn. Để hoàn thiện
tác giả đề xuất cần sửa đổi những vấn đề sau trong Bộ luật hình sự:
3.2.1.1.Cần sửa đ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 00050001850_0996_2009922.pdf