Bắt đầu từ ngày 11/4, giá các loại xăng và dầu hoả tăng đồng loạt 500 đồng/lít; tương ứng với mức 11.500 đồng/lít xăng tăng lên thành 12.000 đồng/lít đối với xăng A92 và từ 11.000 đồng/lít tăng lên thành 11.500 đồng/lít đối với dầu hoả. Chưa đầy một tháng sau, ngày 8/5/2009, các DN tiếp tục tăng giá đối với tất cả các mặt hàng xăng dầu với mức tăng tương ứng từ 500 đồng - 550 đồng/lít. Theo đó, xăng A92 có giá bán mới là 12.500 đồng/lít. Dầu hoả là 12.000 đồng/lít; diesel 0,05S có giá mới là 10.500 đồng/lít và madút 3S là 9.100 đồng/kg.
Cũng chỉ 1 tháng sau đó, ngày 10/6 giá các mặt hàng xăng dầu được đồng loạt tăng 1.000 đồng/lít (kg). Mức tăng này đẩy giá bán xăng A92 lên 13.500 đồng/lít; dầu hoả là 13.000 đồng/lít; diesel là 11.500 đồng/lít, và madút là 10.100 đồng/kg. 20 ngày sau tức là ngày 1.7, giá mặt hàng xăng lại tăng thêm 700 đồng/lít, diesel tăng 600 đồng/lít, dầu hoả tăng 650 đồng/lít và madut tăng 500 đồng/lít. Đến ngày 9.8, mặt hàng xăng tiếp tục tăng thêm 500 đồng/lít; madut tăng thêm 1.000 đồng/lít và chỉ có dầu hoả giảm 500 đồng/lít.
28 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1953 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển thị trường xăng dầu ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
8
14950
16000
18/10/2008
14450
15500
31/10/2008
13950
15000
8/11/2008
12950
14000
15/11/2008
12950
13000
02/12/2008
11950
12000
11/12/2008
10950
11000
Tuy nhiên, càng về cuối năm, giá xăng dầu lại có nhiều diễn biến tích cực hơn cho người tiêu dùng. Từ ngày 02/12/2008, giá bán lẻ xăng A92 trên thị trường còn 12.000 đồng/lít. Tương tự, xăng A95 giảm xuống còn 12.500 đồng/lít. Các loại dầu diezel cũng có mức giảm tương tự, dầu hỏa giảm 500 đồng/lít. Với lần điều chỉnh này, giá xăng bán lẻ đã tương đương với thời điểm cách đây hơn hai năm, ngày 9/8/2006, khi giá xăng A92 được điều chỉnh lên mức 12.000 đồng/lít. Lần giảm giá xăng này diễn ra trong bối cảnh giá dầu thô thế giới suốt một thời gian khá dài dao động quanh mức 50 USD/thùng. Và nếu tính từ 21/7/2008 - thời điểm tăng giá xăng gần nhất - đây đã là lần giá xăng trong nước giảm lần thứ 9 liên tiếp. Năm 2008 còn ghi nhận một đợt giảm giá kỉ lục cuối cùng nữa, khi giá xăng A92 được các doanh nghiệp đầu mối giảm tiếp 1.000 đồng, xuống còn 11.000 đồng/lít kể từ ngày 11/12/2008. Lần giảm giá xăng này diễn ra trong bối cảnh giá dầu thô thế giới hạ xuống mức rất thấp còn 40 USD/thùng. Thậm chí, tại Singapore, nhà cung cấp xăng dầu lớn nhất cho thị trường Việt nam, giá xăng R92 chỉ còn 35,21 USD/thùng, dầu diezen 0,25S còn 59,51 USD/thùng và dầu mazút còn 224,52 USD/tấn.
Năm 2009, thị trường xăng dầu thế giới tiếp tục diễn biến hết sức phức tạp và khó dự báo. Thế giới tiếp tục phải đương đầu với nhiều khó khăn, thách thức từ hậu quả nặng nề của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế. Đối lập với bối cảnh thị trường năm 2008, giá xăng dầu năm 2009 có xu hướng tăng là chủ đạo. Mặc dù biên độ điều chỉnh ở mỗi thời điểm quyết định tăng giá xăng dầu đều ở mức vừa phải, dao động từ 500 đồng đến 1000 đồng/ lít, nhưng người tiêu dùng vẫn có thể cảm nhận được sự chênh lệch quá rõ ràng của giá nhiên liệu ở thời điểm đầu và cuối năm. Điều này là hiển nhiên bởi sự chênh lệch này lên tới hơn 45%.
Ngày
Diesel (đ/lít)
Mogas 92 (đồng/lít)
09/02/2009
10450
11000
19/03/2009
9.950
11000
02/04/2009
9.950
11.500
11/04/2009
9.950
12.000
08/05/2009
10.450
12.500
10/06/2009
11.450
13.500
01/07/2009
12.050
14.200
09/08/2009
12.050
14.700
30/08/2009
13.050
15.700
01/10/2009
12.750
15.200
24/10/2009
13.250
15.500
20/11/2009
14.250
16.300
15/12/2009
14.550
15.950
Nhìn vào bảng thống kê trên, chúng ta có thể thấy rõ khoàng thời gian từ tháng 4 đến tháng 11/2009, sau 7 tháng trôi qua, giá xăng dầu có tới 9 lần điều chỉnh, trong đó chỉ có 1 lần giảm giá còn lại có tới 8 lần tăng giá. Có thể nói: Mặt hàng xăng dầu trong năm 2009 đã phải chịu quá nhiều biến động về giá cả. Ngày 11/4/2009 được đánh dấu là ngày bắt đầu cho "chuỗi sự kiện" tăng giá xăng bán lẻ trong nước được thực hiện... liên tục.
Biểu đồ giá xăng, dầu điều chỉnh năm 2009
Bắt đầu từ ngày 11/4, giá các loại xăng và dầu hoả tăng đồng loạt 500 đồng/lít; tương ứng với mức 11.500 đồng/lít xăng tăng lên thành 12.000 đồng/lít đối với xăng A92 và từ 11.000 đồng/lít tăng lên thành 11.500 đồng/lít đối với dầu hoả. Chưa đầy một tháng sau, ngày 8/5/2009, các DN tiếp tục tăng giá đối với tất cả các mặt hàng xăng dầu với mức tăng tương ứng từ 500 đồng - 550 đồng/lít. Theo đó, xăng A92 có giá bán mới là 12.500 đồng/lít. Dầu hoả là 12.000 đồng/lít; diesel 0,05S có giá mới là 10.500 đồng/lít và madút 3S là 9.100 đồng/kg.
Cũng chỉ 1 tháng sau đó, ngày 10/6 giá các mặt hàng xăng dầu được đồng loạt tăng 1.000 đồng/lít (kg). Mức tăng này đẩy giá bán xăng A92 lên 13.500 đồng/lít; dầu hoả là 13.000 đồng/lít; diesel là 11.500 đồng/lít, và madút là 10.100 đồng/kg. 20 ngày sau tức là ngày 1.7, giá mặt hàng xăng lại tăng thêm 700 đồng/lít, diesel tăng 600 đồng/lít, dầu hoả tăng 650 đồng/lít và madut tăng 500 đồng/lít. Đến ngày 9.8, mặt hàng xăng tiếp tục tăng thêm 500 đồng/lít; madut tăng thêm 1.000 đồng/lít và chỉ có dầu hoả giảm 500 đồng/lít.
Cũng chỉ 20 ngày sau, ngày 30/8, Liên Bộ Tài chính - Công thương một lần nữa cho phép DN tăng giá bán lẻ xăng và diesel với mức tăng 1.000 đồng/lít; dầu hoả tăng 850 đồng/lít và madút tăng 300 đồng/kg. Lúc này, xăng A92 đã có giá 15.700 đồng/lít.
Lần giảm giá duy nhất được các DN thực hiện từ ngày 1/10. Tuy nhiên, mức giảm đối với xăng và dầu hoả chỉ là 500 đồng/lít; diesel giảm 300 đồng/lít. Sau lần này, ngày 24/10 và ngày 20/11 vừa qua, mặt hàng xăng đã tăng 2 lần. Theo đó, xăng A92 tăng 1.100 đồng/lít; diesel tăng thêm 1.500 đồng/lít; dầu hoả tăng 1.700 đồng/lít và madut tăng 800 đồng/lít.
Như vậy chỉ từ tháng 4/2009 đến nay, sau 7 tháng thì giá xăng A92 đã tăng từ 11.500 đồng lên thành 16.300 đồng/lít. Các mặt hàng diesel, dầu hoả và madut cũng tăng cao hơn 4.000 đồng/lít.
Điều đáng nói là trong khoản tiền tăng mà người tiêu dùng phải gánh chịu thì thực chất lại không phải là chi phí thực tế vào giá; mà lại bao gồm cả các khoản tiền "chia sẻ" gánh nặng đối với Nhà nước và doanh nghiệp. Ngoài việc “bù lỗ” cho các doanh nghiệp, việc tăng giá liên tiếp trong năm 2009 còn phản ánh sức ép của thị trường xăng dầu thế giới đã tăng trở lại.
Những tác động khiến giá xăng dầu leo thang năm 2009:
Khủng hoảng kinh tế gây ra sự giảm giá của đồng USD và do đó ảnh hưởng lớn tới giá dầu của thế giới. Sự phục hồi dần dần của đồng đôla Mỹ vào tháng 10/2009 đã giúp đẩy giá dầu lên cao. Đồng đôla lấy lại vị thế của nó trên thị trường khiến cho tình hình đảm bảo ngoại tệ cho nhập khẩu xăng dầu cũng gặp nhiều khó khăn, với chênh lệch khá cao giữa tỷ giá thị trường liên ngân hàng và tỷ giá giao dịch thực tế đã ảnh hưởng đến khả năng huy động ngoại tệ của các ngân hàng thương mại, không đủ nguồn cung
Dự báo thời tiết tại Mỹ giá lạnh bất thường do vậy khiến nhu cầu sử dụng các loại nhiên liệu này tăng vọt (khoảng 6,7%). Giá dầu thô được giao dịch ở mức 78,47 USD/thùng trên sàn hàng hoá New York.
Mặc dù nhu cầu của người dân tăng cao nhưng dự báo OPEC không thay đổi sản lượng. Số liệu của bộ Năng lượng Mỹ cho biết, dự trữ dầu chưng cất, bao gồm dầu sưởi và dầu diesel của nước này giảm 1,8% xuống 161,3 triệu thùng trong cuối tháng 12 và dự trữ dầu thô cũng giảm xuống còn 327,5 triệu thùng.
Trước và trong năm 2009, cơ chế bù lỗ cho giá xăng dầu mà Nhà nước ta áp dụng đã bộc lộ sự bất công bằng và rất phức tạp, ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống và thói quen tiêu dùng của nhân dân. Do đó, một yêu cầu đặt ra là thị trường xăng dầu cần được vận hành theo cơ chế thị trường. Vì vậy, ngày 15/10/2009, Chính phủ đã ban hành Nghị định 84/2009/NĐ-CP. Với Nghị định này, việc kinh doanh xăng, dầu được vận hành theo cơ chế mới, doanh nghiệp được quyền quyết định giá bán lẻ khi giá xăng, dầu thành phẩm thị trường thế giới có biến động, là cơ sở để các thương nhân đầu mối vận hành giá bán xăng dầu theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước. Đây là bước chuyển mình làm thay đổi về chất của hoạt động quản lý kinh doanh xăng dầu và năm 2010, được xem là một cơ hội đối với ngành Xăng dầu vì đây là năm đầu tiên Nghị định 84 thực sự được “đi vào cuộc sống”.
Ngày
Diesel (đ/lít)
Mogas 92 (đồng/lít)
14/01/2010
14.850
16.400
21/02/2010
14.850
16.990
03/03/2010
14.550
16.990
27/05/2010
14.550
16.490
08/06/2010
14.350
15.990
09/08/2010
14.700
16.400
Theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công Thương đã gửi báo cáo Thủ tướng việc kiểm tra làm rõ về tình hình kinh doanh xăng dầu những tháng đầu năm 2010 và đánh giá thực hiện Nghị định 84/2009/NĐ-CP (Nghị định 84) về kinh doanh xăng dầu theo cơ chế mới.
Theo kiểm tra của Tổ giám sát giá xăng dầu về tần suất điều chỉnh trong 5 tháng (từ tháng 10/2009 đến hết tháng 2/2010) như sau: Trước ngày 15/12/2009: có 2 lần điều chỉnh, mỗi lần cách nhau tối thiểu 20 ngày, đúng theo quy định của Nghị định 55/2007/NĐ-CP (thời điểm này Nghị định 55 còn hiệu lực). Sau ngày 15/12/2009 đến hết tháng 2/2020, mặt hàng xăng điều chỉnh 3 lần (1 lần giảm, 2 lần tăng); dầu diezel và mazut 3 lần tăng; dầu hỏa 1 lần tăng. Khoảng cách điều chỉnh đều trên 30 ngày, trong khi Nghị định 84 cho phép điều chỉnh trong vòng 10 ngày.
So sánh với số lần điều chỉnh giá bán xăng dầu trong năm 2008 là 15 lần (tần suất 1,25 lần/tháng) và 9 tháng đầu năm 2009 là 13 lần (1,44 lần/tháng), Bộ Công Thương đánh giá tần suất điều chỉnh giá trong thời gian qua là bình thường, chỉ 1 lần/tháng. Thậm chí, giá xăng còn được giữ ổn định ở mức 16.400 đồng/ lít đến đầu năm 2011.
Đánh giá về mức điều chỉnh giá xăng dầu, Bộ Công Thương cho biết: mức điều chỉnh giá mỗi lần không lớn như những năm 2008 và đầu năm 2009, nhất là từ khi thực hiện theo Nghị định 84. Tỷ lệ thực tế điều chỉnh đều trong phạm vi cho phép quy định của Nghị định 84. Ví dụ đối với mặt hàng xăng, trước đây mức điều chỉnh mỗi lần thường thấp nhất là 500 đồng/lít và cao nhất lên tới 4.500 đồng/lít. Nhưng kể từ khi thực hiện Nghị định 84, doanh nghiệp chỉ điều chỉnh ở mức rất thấp, từ 450 đến 590 đồng/lít.
Biểu đồ giá xăng, dầu điều chỉnh năm 2010
Rõ ràng, sự biến động mạnh của giá xăng dầu về ngắn hạn có thể dẫn đến những tác động tiêu cực tới nền kinh tế như xáo trộn tâm lý, sức ép tăng giá, gây sốc trên thị trường chứng khoán, bất lợi trong khu vực kinh doanh...
Xăng dầu đóng vai trò là nhiên liệu không thể thiếu được trong đời sống của người dân. Có thể thấy rõ, việc tăng giá xăng dầu hàm chứa nhiều yếu tố tiêu cực trước mắt là xáo trộn về tâm lý tiêu dùng. Những biến động trong giá xăng dầu chủ yếu xuất phát từ nguyên nhân thiếu hụt nguồn cung nhập khẩu. Tuy nhiên, giai đoạn 2008-2010, việc tăng giá xăng dầu ban đầu lại xuất phát từ độc quyền trong xăng dầu với 65% thị phần xăng dầu của cả nước cho Petrolimex nắm giữ. Có thể do tâm lý lo sợ thiếu hụt xăng dầu hoặc nhằm mục tiêu tăng lợi nhuận trong tương lai mà các doanh nghiệp cung cấp đã hạn chế cung ứng xăng dầu như một hình thức đầu cơ tích trữ. Kết quả là chính người tiêu dùng trực tiếp chịu thiệt thòi do mức giá tăng vô lý.
Mã
Các nhóm hàng và dịch vụ
Quyền số (%)
C
Tổng chi cho tiêu dùng cuối cùng
100,00
01
I. Hàng ăn và dịch vụ ăn uống
39,93
011
1. Lương thực
8,18
012
2. Thực phẩm
24,35
013
3. Ăn uống ngoài gia đình
7,40
02
II. Đồ uống và thuốc lá
4,03
03
III. May mặc, mũ nón, giày dép
7,28
04
IV. Nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng
10,01
05
V. Thiết bị và đồ dùng gia đình
8,65
06
VI. Thuốc và dịch vụ y tế
5,61
07
VII. Giao thông
8,87
08
VIII. Bưu chính viễn thông
2,73
09
IX. Giáo dục
5,72
10
X. Văn hoá, giải trí và du lịch
3,83
11
XI. Hàng hoá và dịch vụ khác
3,34
Bảng 1: Thành phần hàng hóa chiếm tỷ trọng trong tính toán CPI 2010
(nguồn Tổng cục Thống kê)
Bảng 1 cho thấy cấu trúc rổ hàng hóa tính CPI hiện nay, mặt hàng xăng dầu nằm trong mục 04. Theo ước lượng sơ bộ của Bộ Tài chính thì quyền số cho xăng dầu chiếm khoảng 20% trong mục này, nghĩa là xăng dầu có quyền số 2% trong tổng thể giá hàng tính CPI. Như vậy, mức tăng 25% của giá xăng dầu trong giai đoạn hiện nay có ảnh hưởng trực tiếp đến CPI khoảng 0,5%. Điều đó có nghĩa là việc tăng giá xăng dầu đã làm giảm sức mua của xã hội trong ngắn hạn.
Con số 0,5% về mức tăng của chỉ số CPI chỉ nói lên tác động trực tiếp và tức thời của việc tăng giá xăng dầu đến chỉ số CPI mà chưa nói đến những tác động dây chuyền sau đó. Là một hàng hóa đầu vào quan trọng của các ngành sản xuất, tăng giá xăng dầu có những ảnh hưởng nhất định đến việc tăng chi phí của các doanh nghiệp và nền kinh tế. Theo đó, giá các mặt hàng sẽ tăng do ảnh hưởng dây chuyền là một khả năng có thể dự đoán được. Mức tăng của chỉ số CPI thực tế sẽ không chỉ là 0,5% mà có thể cao hơn. Theo công bố của Tổng cục Thống kê, thay đổi trong chỉ số CPI của tháng 3/2011 đạt tới 1,05%. Điều này cho thấy, ành hưởng biến động xăng dầu không chỉ tác động đến người tiêu dùng trực tiếp mà cả những hộ gia đình không hề sử dụng xăng dầu cũng bị ảnh hưởng từ việc tăng mức giá chung.
Hình : Mô hình Tổng cung – Tổng cầu (AD-AS) truyền thống
Ngoài ảnh hưởng trong tiêu dùng, quá trình sản xuất kinh doanh đương nhiên gặp nhiều bất cập khi doanh nghiệp bị động trong việc tính toán chi phí đầu vào và khó khăn khi nâng giá sản phẩm đầu ra. Vận tải là một trong những ngành kinh tế chịu tác động lớn nhất khi có sự thay đổi giá xăng dầu. Ngành vận tải tiêu thụ trực tiếp xăng dầu, chi phí xăng dầu tăng sẽ dẫn đến cước phí vận tải tăng. Đối với đời sống, phí vận tải tăng có thể giảm nhu cầu đi lại không cần thiết của người dân. Tuy nhiên, đối với nền kinh tế thì phí vận tải tăng khiến quá trình lưu thông và trao đổi hàng hóa gặp nhiều bất lợi. Trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nếu giá xăng dầu tăng bất ngờ và tăng quá cao sẽ ảnh hưởng nhanh chóng đến mức giá chung do các doanh nghiệp không còn cách nào khác ngoài tăng giá bán của sản phầm để cân bằng hoạt động kinh doanh. Việc tăng mức giá chung gây ra áp lực tăng lương cho nhà sản xuât bởi lẽ tâm lý lo sợ lạm phát của người lao động dễ dàng xảy ra. Mối lo ngại của nhà sản xuất không chỉ là đầu vào nguyên liệu nữa mà còn là chi phí nhân công, chi phí vận tải và thị trường tiêu thụ.
Như vậy, dựa trên chỉ số giá tiêu dùng CPI và sơ đồ cung cầu xăng dầu, tác động tiêu cực của việc tăng giá xăng dầu là ảnh hưởng đến khả năng tiêu thụ, sức mua của xã hội, ảnh hưởng đến quá trình sản xuất, và thậm chí là lạm phát nếu biến động giá quá mạnh và không dự báo trước. Trong trường hợp đó, vai trò can thiệp của nhà nước trong việc bình ổn giá là đặc biệt quan trọng.
2.2 Các chính sách của Nhà nước đối với mặt hàng xăng dầu giai đoạn 2008 – 2010
2.2.1 Qũy bình ổn giá
Như trên đã phân tích, diễn biến giá dầu trên thế giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng giai đoạn có nhiều biến động hết sức phức tạp do tình trạng khan hiếm nguồn cung xăng dầu trên thế giới trong khi nhu cầu lại không ngừng gia tăng. Ngay từ đầu những năm 2000, biến động giá xăng dầu thế giới đã có những thay đổi căn bản, mặt bằng giá mới hình thành và liên tiếp bị phá vỡ để xác lập mặt bằng mới trong các năm tiếp theo. Do tiếp tục chính sách bù giá cho người tiêu dùng thông qua doanh nghiệp nhập khẩu khi cố gắng giữ mức giá nội địa ở mức thấp nên số tiền ngân sách bù giá ngày càng gia tăng, từ 1000 tỷ (năm 2000) lên đến 22 nghìn tỷ đồng năm 2008; loại trừ yếu tố trượt giá thì đây cũng là một tốc tộ tăng quá cao. Nhà nước không thể tiếp tục bù lỗ cho xăng dầu trong nước do ngoài việc nhu cầu xăng dầu tăng cao, một lượng lớn xăng dầu trong nước chảy sang các nước láng giềng do tình trạng tuồn xăng qua biên giới để hưởng chênh lệch giá. Việc bù giá xăng dầu quá lâu khiến cho giá xăng dầu trong nước thoát li với giá xăng dầu thế giới, trong khi giá xăng dầu thế giới liên tục tăng làm ngân sách nhà nước bị thâm hụt đáng kể, dẫn tới việc không thể tiếp tục bù lỗ cho mặt hàng xăng dầu, bên cạnh đó các doanh nghiệp trong nước cũng trở lên trì trệ do thiếu động lực phát triển, trong khi vẫn được Nhà nước bù lỗ mặc dù kinh doanh yếu kém. Người dân không hiểu rõ được cơ chế vận hành giá xăng dầu nên có những phản ứng tiêu cực trước những biến động giá xảy ra, kể cả tăng hay giảm giá, không tạo được sự đồng thuận trong xã hội, lòng tin người tiêu dùng giảm sút. Trước tình hình đó, Bộ Tài chính đã thông qua quyết định số 79/2008/QĐ-BTC ngày 16/9/2008 về cơ chế quản lí và điều hành giá xăng dầu. Theo quyết định này, Thương nhân Việt Nam (theo quy định của Luật Thương mại) kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu xăng dầu hoặc chế biến xăng dầu tại thị trường trong nước (gọi tắt là doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu đầu mối) được quy định giá bán xăng dầu theo cơ chế giá thị trường, trong hệ thống phân phối thuộc mình quản lý. đầu mối có trách nhiệm đăng ký mức giá bán với Liên Bộ Tài chính - Công Thương; sau đó tổ chức bán hàng theo giá đã đăng ký, niêm yết giá bán đã đăng ký công khai trong toàn hệ thống, bán hàng đủ khối lượng, đúng chất lượng cho khách hàng và không được bán cao hơn giá niêm yết. Đồng thời phải chấp hành các biện pháp bình ổn giá theo quy định của pháp luật khi thị trường có những biến động bất thường. Đây là bước ngoặt trong cơ chế quản lí giá xăng dầu của Nhà nước, đưa từ việc bù lỗ xăng dầu sang việc kinh doanh xăng dầu theo cơ chế thị trường, đưa việc kinh doanh xăng dầu theo một hướng mới.
Tuy nhiên, việc văn bản được áp dụng và thực hiện đến đâu còn là điều đáng phải tranh cãi. Văn bản đã không đi được vào thực tế kinh doanh (trừ hệ thống phân phối được thiết lập nhưng việc kiểm soát tính tuân thủ hầu như chưa thực hiện được). Yếu tố ổn định giá vẫn được đặt lên hàng đầu và chính nó đã làm cho các cơ quan quản lý Nhà nước lúng lúng khi phải điều hành đạt các mục tiêu dường như mâu thuẫn nhau ở cùng một thời điểm.
Mặc dù việc kinh doanh xăng dầu theo cơ chế thị trường được chấp thuận vào cuối năm 2008 nhưng tới tận năm 2009, quyết định này mới thực sự đi vào thực hiện. Năm 2009 là năm đáng ghi nhớ đối với ngành Xăng dầu Việt Nam, bởi ngày 15/10/2009 Chính phủ đã ban hành Nghị định 84/2009/NĐ-CP. Với Nghị định này, lần đầu tiên việc kinh doanh xăng dầu được thực sự vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước. Đây được xem là bước chuyển mình làm thay đổi về chất của hoạt động quản lý kinh doanh xăng dầu. Theo nghị định, Thương nhân đầu mối có nghĩa vụ trích lập Quỹ bình ổn giá để tham gia bình ổn giá, Quỹ bình ổn giá được lập để tại doanh nghiệp, được hạch toán riêng và chỉ sử dụng vào mục đích bình ổn giá. Điều 27 nghị định 84/2009/NĐ-CP quy định rõ việc kinh doanh xăng dầu theo cơ chế thị trường có điều tiết và quản lí của Nhà nước: thương nhân đầu mối được quyền quyết định giá bán buôn; việc điều chỉnh giá bán lẻ xăng dầu được thực hiện theo nguyên tắc, trình tự quy định tại điều này; có trách nhiệm tham gia bình ổn giá theo quy định của pháp luật hiện hành và được bù đắp lại những chi phí hợp lý khi tham gia bình ổn giá; thời gian giữa hai lần điều chỉnh giá liên tiếp tối thiểu là mười ngày dương lịch đối với trường hợp tăng giá, tối đa là mười ngày dương lịch đối với trường hợp giảm giá; khi điều chỉnh giá bán lẻ xăng dầu, thương nhân đầu mối đồng thời phải gửi quyết định giá và phương án giá của mình đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trường hợp các yếu tố cấu thành giá xăng dầu cơ sở biến động làm cho trong phạm vi nhất định ( điều chỉnh giảm 12% hoặc điều chỉnh tăng 7%), cơ quan đầu mối có quyền tăng giảm giá xăng dầu theo giá thị trường, nếu điều chỉnh ở mức cao hơn thì có thể sử dụng quỹ bình ổn để bù đắp chi phí. Cơ chế kinh doanh xăng dầu đã chuyển sang vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là một bước chuyển quan trọng trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu. Tuy nhiên, ở giai đoạn đầu, các thông tin ra xã hội không đầy đủ về vấn đề vốn rất nhạy cảm này nên cả cơ quan quản lý và doanh nghiệp còn phải chịu sức ép rất lớn từ dư luận.
Từ nửa cuối tháng 2/2008, khi giá xăng dầu thế giới biến động, Thủ tướng đã giao Bộ Tài chính xây dựng đề án thành lập quỹ bình ổn giá xăng dầu, theo nguyên tắc lấy số lãi có được khi giá dầu thế giới giảm để bù cho lúc tăng. Quỹ được trích lập từ tiền trả khi mua xăng dầu của người tiêu dùng và sử dụng với mục đích nhằm bình ổn thị trường trong nước khi giá xăng dầu thế giới cao và do Cục Tài chính doanh nghiệp, Cục Quản lý Giá (Bộ Tài chính) quản lý giám sát. Sau 6 tháng, doanh nghiệp sẽ hạch toán lỗ lãi; các khoản tiền dôi dư từ quỹ sẽ được chuyển thành lợi nhuận doanh nghiệp. Quỹ bình ổn giá xăng dầu sẽ được sử dụng để giảm tần suất và biên độ điều chỉnh giá so với biến động thực tế của giá thế giới diễn ra hàng ngày. Điều đó có nghĩa rằng khi giá xăng dầu trên thế giới thay đổi, người tiêu dùng sẽ chưa phải chịu ngay mức giá mới đó, khoản chênh lệch giữa giá trong nước và giá thế giới tạm thời sẽ được bù đắp bằng quỹ bình ổn giá. Người tiêu dùng sẽ được hưởng mức giá bình quân của thế giới tính trên chu kỳ một năm, kết quả là giá xăng dầu trong nước vẫn có thể bám sát với giá xăng dầu trên thế giới và tránh cho thị trường trong nước những cú sốc về giá, Nhà nước không phải bù lỗ cho doanh nghiệp, đảm bảo thị trường đi theo đúng hướng. Tuy nhiên khó khăn ban đầu đặt ra là nguồn kinh phí để thành lập quỹ bình ổn chưa có.Vì thế trước hết, quỹ bình ổn giá xăng dầu sẽ được hình thành trên cơ sở trích một khoản trước thuế thu nhập doanh nghiệp từ giá bán xăng dầu. Theo thông tư số 159/2009/TT-BTC, khi giá xăng dầu thành phẩm trên thị trường thế giới tăng làm giá vốn bán lẻ cơ sở tính theo quy định tại Thông tư này tăng cao hơn giá bán trong nước hiện hành của từng loại xăng dầu đến 500 đồng/lít (kg), các doanh nghiệp giữ ổn định giá bán phù hợp với thời gian quy định của Nhà nước về bảo đảm mức dự trữ lưu thông xăng dầu tối thiểu. Khoản chênh lệch lỗ phát sinh do phải giữ ổn định giá bán so với giá vốn bán lẻ cơ sở được bù đắp từ Quỹ bình ổn giá. Trường hợp Quỹ bình ổn giá đã sử dụng hết, không còn số dư hoặc Quỹ bình ổn giá chưa đủ nguồn lực tài chính để bình ổn giá, khi giá xăng dầu thành phẩm trên thị trường thế giới biến động tăng cao, tăng đột biến làm cho giá vốn bán lẻ cơ sở của doanh nghiệp tính theo quy định tại Thông tư này tăng cao hơn giá bán trong nước hiện hành; doanh nghiệp được quyền điều chỉnh giá bán sau khi thực hiện chế độ đăng ký giá theo quy định hiện hành để điều chỉnh giá phù hợp với sự biến động của giá vốn xăng dầu thành phẩm trên thị trường.
Kể từ khi được thành lập năm 2009, sau một năm đi vào hoạt động, Quỹ bình ổn giá xăng dầu đã gây ra nhiều ý kiến trái chiều. Quyết toán không minh bạch và không rõ ràng đã tạo kẽ hở cho các doanh nghiệp sử dụng quỹ vào mục đích riêng, gây thất thoát cho Nhà nước và bất bình trong dư luận. Liệu việc kinh doanh của các doanh nghiệp là lãi hay lỗ không thể chỉ nghe theo các báo cáo tài chính mà cần kiểm toán vào cuộc. Và việc các doanh nghiệp hiện đang lấy nguồn ngân sách trong quỹ để bù đắp thua lỗ và việc làm bất hợp lí. Việc trích lập quỹ chưa giải quyết bình ổn giá nhưng lại tác động tạo lợi thế cho các doanh nghiệp có điều kiện thuận lợi tích tụ một số vốn từ quỹ này để giảm vốn vay và từ đó lại tạo ra lợi thế cạnh tranh giá dẫn đến độc quyền - tiêu diệt cạnh tranh trong kinh doanh xăng dầu. Hậu quả là trong khi người dân phải trích nộp vào quỹ bình ổn xăng dầu từ 300-500 đồng cho mỗi lít xăng nhưng không hề được hưởng quyền lợi chính đáng từ việc làm này. Sử dụng quỹ bình ổn sai mục đích ban đầu, doanh nghiệp vẫn kêu lỗ, ngân sách quỹ thì ngày càng giảm đang gây khó khăn và áp lực cho các cấp quản lí. Trong điều kiện kinh tế thị trường, quỹ bình ổn lẽ ra phải được trích từ lợi nhuận của doanh nghiệp, không được phép lấy tiền của người dân để trích vào quỹ bình ổn giá xăng để doanh nghiệp sử dụng quỹ để bù đắp cho doanh nghiệp với lí do giữ giá. Điều này không hề được thế giới chấp nhận nhưng đã và đang diễn ra tại Việt Nam. Thực tế này phản ánh mặc dù đã có quyết định về việc vận động thị trường xăng dầu theo cơ chế thị trường ngay từ cuối năm 2008 thì cho tới nay, nghị định vẫn chưa được thực hiện đúng hướng.
2.2.2 Thuế nhập khẩu xăng dầu
Sự bất ổn trong tình hình chính trị ở Trung Đông và nguy cơ chiến tranh vùng vịnh vào cuối năm 2007 đã làm nguồn cung xăng dầu trên thế giới không ổn định, giá cả tăng cao. Mặc dù đã sử dụng ngân sách trong quỹ bình ổn giá để bù đắp cho khoản lỗ từ việc bán xăng dầu trong nước với giá thấp hơn trên thị trường thế giới, các doanh nghiệp vẫn tiếp tục gánh chịu thua lỗ. Vào thời điểm tháng 11/2010, mặc dù đã sử dụng tới 1200 đồng từ quỹ bình ổn giá, nhưng theo Bộ tài chính, mặt hàng xăng dầu vẫn phải chịu khoản lỗ 700 đồng cho mỗi lít. Để kịp thời đối phó với những biến động thất thường của thị trường dầu mỏ và phục vụ đáp ứng nguồn cung trong nước, tránh xảy ra tình trạng khan hiếm cung cho thị trường trong nước cũng như giảm áp lực cho các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu, Nhà nước đã có những biện pháp hỗ trợ, trong đó có thể kể đến việc điều chỉnh thuế nhập khẩu xăng dầu vào từng thời điểm.
Khoảng đầu năm 2008, sau một thời gian duy trì ở mức cao, và sau giai đoạn tăng giá liên tục, thiết lập mức cao kỷ lục 147 USD/thùng vào ngày 11/7/2008 thì ngay sau đó giá dầu đã rơi vào giai đoạn tụt dốc mạnh, xuống còn 34,64 USD/thùng vào đầu tháng 12/2008, giảm tới 76,5% so với mức đỉnh (Nguồn: tinkinhte.com). Ngay lập tức, Bộ tài chính đã bàn bạc đi đến thống nhất điều chỉnh tăng thuế nhập khẩu đối với mặt hàng này. Cụ thể, theo quyết định số 76/2008/QĐ-BTC ban hành ngày 11/9/2008, Bộ Tài chính đã ban hành quyết định về việc điều chỉnh thuế suất nhập khẩu xăng dầu với các mặt hàng trong nhóm 2710 trong Biểu thuế xuất nhập khẩu ưu đãi với mức thuế từ 0% tới 20% cho các sản phẩm dầu và chế phẩm từ dầu. Sau đó, do biến động giảm giá trên thị trường thế giới, Bộ Tài chính tiếp tục ra Quyết định số 99/2008/QĐ-BTC ký ngày 7/11 điều chỉnh tăng mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đối với một số mặt hàng thuộc nhóm 2710 tại biểu thuế nhập khẩu ưu đãi, đưa thuế nhập khẩu xăng dầu lên mức phổ biến 15%, trong đó thuế nhập khẩu mặt hàng xăng tăng lên 20%, dầu hỏa lên 20%, diesel lên 15%, mazut lên 20%. Sau một thời gian, giá xăng dầu trên thế giới bắt đầu ổn định trở lại ở ngưỡng 40USD/ t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển thị trường xăng dầu ở việt nam.doc