Quản lý nhà nước đối với hoạt động chuyển giá của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hà Nội

Ngoài lĩnh vực nước giải khát, lĩnh vực phân phối cũng đối diện với nghi án

chuyển giá. Một trong những trường hợp điển hình có thể kể đến là Adidas.

Adidas AG là một công ty đa quốc gia được thành lập vào năm 1948 tại Đức,

hoạt đ ng trong lĩnh vực thiếtkế và sản xuất dụng cụ thể thao. Các sản phẩm của

Adidas đã đến Việt Nam rất sớm từ năm 1993 và đến năm 2009 thì một công ty

con của Adidas mới được thành lập ở Việt Nam. Từ cuối năm 2012, báo chí Việt

Nam đã đăng một số bài báo nghi vấn về việc Adidas Việt Nam chuyển giá. Nhiều

lập luận cho rằng Adidas Việt Nam đăng ký hoạt động kinh doanh tại Việt Nam

trong vai trò là nhà phân phối bán buôn nhưng thực tế lại phát sinh chi phí của nhà

bán lẻ, và đặt nghi vấn đây chính là cách mà Adidas dùng để chuyển giá theo

phương thức liên kết giữa công ty mẹ và các công ty con thuộc tập đoàn Adidas

nhằm né thu thu nhập tại Việt Nam. Cụ thể, theo lãnh đạo của Cục thuế TP Hồ Chí

Minh, Adidas Việt Nam hoạt động theo giấy phép đăng ký kinh doanh là quyền

phân phối bán buôn, nhưng danh mục chi phí của doanh nghiệp này lại xuất hiện

nhiều chi phí của một doanh nghiệp bán lẻ, như chi phí hỗ trợ vật dụng cho nhà

bán lẻ, tiền tiếp thị quốc tế, phí quản lý vùng, tiền hoa hồng mua hàng và đặc biệt,

Adidas Việt Nam không phải là nhà sản xuất, nhưng phát sinh khoản tiền bản

quyền.

pdf227 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 15/03/2022 | Lượt xem: 344 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quản lý nhà nước đối với hoạt động chuyển giá của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p này vẫn bị sức ép phải ghi nhận kết quả kinh doanh lãi mới phần nào giảm thiểu các nghi ngờ về chuyển giá từ phía CQT, ngay cả trong những năm mới hoạt động, hoặc trong giai đoạn kinh tế khó khăn hay thị trường suy giảm. Thứ ba, nhân lực làm công tác thanh tra chống chuyển giá còn chưa đủ, trình độ chưa tương xứng phù hợp với yêu cầu đặt ra của công tác này. Kết quả khảo sát của tác giả luận án đối với 205 cán bộ thanh kiểm tra về số lượng, trình độ công chức thanh tra, kiểm tra thuế hiện nay cho thấy, chỉ có 40% cán bộ được hỏi cho rằng đã đáp ứng nhu cầu lực lượng cho hoạt động thanh tra, kiểm tra chuyển giá. Hoạt động thanh tra chuyển giá do Cục thuế TP Hà Nội thực hiện những năm gần đây cho thấy, ngay cả cán bộ, công chức làm công tác thanh tra chuyển giá cũng rất lúng túng trong việc áp dụng phương pháp xác định giá và từ đó có định hướng thu thập dữ liệu phù hợp để so sánh dẫn đến hiệu quả thanh tra còn hạn chế. Dưới sự chỉ đạo và hỗ trợ trực tiếp của Tổng cục Thuế, và sau nhiều đợt làm việc, các 101 đoàn thanh tra của Cục thuế TP Hà Nội mới định hình cụ thể được hướng đi trong việc lựa chọn phương pháp xác định giá và đạt được những kết quả nhất định. Để lựa chọn được phương pháp xác định giá phù hợp đòi hỏi cán bộ phải có kinh nghiệm, kỹ năng trong lĩnh vực chuyển giá, phải có kiến thức kinh tế ngành. Hiện nay Cục Thuế chưa có những chuyên gia kinh tế, kĩ thuật giỏi, hiểu biết sâu rộng về các ngành kinh tế đặc biệt là những ngành đặc thù, phức tạp, sản phẩm dịch vụ có hàm lượng chất xám, thương hiệu cao nên khi thực hiện việc phân tích hoạt động, phân tích việc xác định giá chuyển giao của các cơ sở kinh doanh có giao dịch với các bên có quan hệ liên kết hết sức khó khăn, không đạt được yêu cầu. Do sự phức tạp mang tính đặc thù của chuyển giá, một bộ phận không nhỏ cán bộ thuế tuy dành nhiều thời gian nghiên cứu thông tư, nghị định có liên quan, nhưng mức độ nắm bắt rất hạn chế. Số lượng cán bộ thuế được đào tạo, tập huấn chi tiết về quản lý thuế đối với hoạt động chuyển giá của các DN có quan hệ liên kết còn ít. Chưa có giáo trình đào tạo bài bản, chuyên sâu về lĩnh vực thanh tra giá chuyển nhượng phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam. Các tài liệu liên quan hiện có chủ yếu là tham khảo của nước ngoài có sự khác biệt nhiều với thực tế Việt Nam dẫn đến không ít cán bộ thuế chưa biết cách triển khai, áp dụng trên thực tế. Thực tiễn các nước trên thế giới cho thấy, những cán bộ trong lĩnh vực này thường được đào tạo chuyên sâu từ 5 đến 7 năm kinh nghiệm về chống chuyển giá. Trong khi tại Cục thuế TP Hà Nội cán bộ nhiều nhất mới có 3 năm kinh nghiệm về chống chuyển giá. Các phương pháp xác định giá thị trường rất phức tạp, đòi hỏi cán bộ thuế phải có kỹ năng chuyên sâu nhưng hiện nay cán bộ thuế vẫn còn bỡ ngỡ, chưa có kinh nghiệm nhiều trong lĩnh vực này; vừa nghiên cứu văn bản, vừa học hỏi, vừa áp dụng thực tiễn và rút kinh nghiệm dần dần. Việc chuyên sâu nghiên cứu, chủ động tự bồi dưỡng về trình độ ngoại ngữ, tin học của cán bộ chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác thanh tra chuyển giá khi nghiên cứu các hồ sơ quốc gia và hồ sơ toàn cầu chủ yếu được lập bằng tiếng Anh. Tâm lý ngại làm việc chuyên sâu và áp dụng tin học trong thanh tra còn đè nặng lên một bộ phận lớn cán bộ làm công tác thanh tra. Vì vậy, hiệu quả thanh tra chưa đạt được theo mong muốn. Các hành vi chuyển giá phát sinh cả trong và ngoài nước đa dạng và phức tạp, nhiều hình thức nhưng số cuộc thanh tra, kiểm tra chống gian lận thuế qua chuyển giá thành công chưa nhiều, nên số lượng cán bộ có kinh nghiệm thực sự về chống chuyển giá hiện rất ít Như vậy, có thể thấy nếu so với yêu cầu của công tác quản lý thuế đối với hoạt động chuyển giá của các DN có quan hệ liên kết nói chung và chống chuyển giá nói riêng trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới ngày càng mở rộng và phức tạp, đội ngũ cán bộ thuế hiện nay của Cục thuế TP Hà Nội vẫn chưa thể đáp ứng tốt yêu cầu của thực tiễn. 102 Thứ tư, công tác phối hợp trong kiểm soát chuyển giá còn những hạn chế Chưa có cơ chế phối hợp hoặc quy định trách nhiệm của các cơ quan chức năng trên địa bàn Thành phố có liên quan trong việc phối hợp với CQT, hỗ trợ xác minh về giá trị thị trường nhằm đảm bảo tính khách quan trong khâu xử lý vi phạm. Nhiều trường hợp, mặc dù CQT đã xác định được đối tượng nộp thuế có hành vi vi phạm pháp luật thuế, nhưng việc điều tra xác minh làm căn cứ pháp lý để xử lý gặp nhiều khó khăn do phạm vi xác minh rộng, liên quan đến nhiều ngành, nhưng việc phối hợp cung cấp thông tin về DN của các cơ quan chuyên ngành, các cấp còn hạn chế. Hiện nay, chưa có văn bản nào quy định cụ thể trách nhiệm của các cơ quan chức năng có liên quan trong việc phối hợp với CQT, hỗ trợ xác minh về thông tin của các công ty ở nước ngoài tham gia giao dịch liên kết, giá cả thị trường khách quan (cơ quan xuất nhập cảnh, cơ quan ngoại giao, đại sứ quán, tham tán thương mại Việt Nam ở nước ngoài). Sự phối hợp trong cung cấp và trao đổi thông tin giữa CQT Việt Nam và CQT các nước còn hạn chế, nên việc tìm kiếm xác định giá thị trường rất khó khăn không đủ cơ sở để ấn định thuế. Do đó, chưa thu hút được sự “vào cuộc” của một số đơn vị có liên quan kể cả chính quyền địa phương (UBND Thành phố). 3.3.3.2. Nguyên nhân từ môi trường Một là, có sự chênh lệch về thuế suất thuế TNDN của Việt Nam (năm 2011- 2013: 25%; 2014-2015: 22% và từ 2016 đến nay: 20%) với nhiều quốc gia trên thế giới, do đó, có tình trạng DN FDI có công ty mẹ tại nước có mức thuế suất thấp hơn đã thực hiện các cách nhằm chuyển lợi nhuận về nơi thuế suất thấp hơn. Hai là, việc thực hiện chế độ báo cáo kiểm toán của DN kiểm toán không phản ánh đầy đủ thông tin như yêu cầu. Thực tế cho thấy, nhiều DN có trình bày phần thông tin quan hệ giao dịch liên kết, nhưng cũng còn nhiều DN né tránh không phản ánh giao dịch liên kết trên báo cáo kiểm toán. Ba là, sự phối kết hợp giữa các cơ quan liên ngành còn hạn chế. Các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành chưa quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan chức năng có liên quan (hải quan, cơ quan thuế ở nước ngoài... ) trong việc phối hợp, hỗ trợ cơ quan thuế trong quá trình xác minh về giá thị trường. Nguyên nhân không chỉ do còn nhiều lỗ hổng trong chính sách mà bản thân các cơ quan chuyên ngành của Việt Nam còn nhiều điểm mâu thuẫn. Ví dụ về sự "vênh" nhau giữa bên hải quan - cơ quan thu thuế xuất nhập khẩu và cơ quan thu thuế nội địa: Bên hải quan luôn muốn giá tính thuế cao để thu nhiều nhưng nếu giá đầu vào cao thì khoản trừ chi phí tính thuế thu nhập nội địa sẽ lớn, khiến thuế nội địa thu vào không nhiều. Hiện hai cơ quan đã ngồi lại với nhau và tham khảo cơ chế của nước ngoài nhưng theo vẫn còn rất nhiều bất cập. Trường hợp các sản phẩm cùng bán tại Việt Nam, CQT còn có CSDL về giá so sánh, nhưng nhiều doanh nghiệp FDI xuất khẩu nên ở cả đầu vào và đầu ra của doanh nghiệp đều liên quan đến thuế cửa khẩu 103 CQT Việt Nam không quản lý được. Liên quan đến thị trường nước ngoài nên CQT khó có lý do để buộc doanh nghiệp cố tình bán giá thấp để chuyển giá. Bốn là, chưa có các quy định về các khung giá hay khung lợi nhuận hợp lí theo từng ngành kinh tế để DN có thể xác định chính sách giá một cách hợp lí. Đây cũng là khó khăn kể cả khi triển khai thực hiện cơ chế thoả thuận trước về phương pháp xác định giá giao dịch liên kết (APA) mới được quy định trong Luật sửa đổi, bổ sung Luật quản lý thuế có hiệu lực từ 01/7/2013. 3.4.3.3. Từ phía doanh nghiệp Thứ nhất, một số DN có quan hệ liên kết - là những DN FDI lớn, phạm vi hoạt động rộng, có nhiều kinh nghiệm để “lách” và trốn thuế. Các DN này thường tổ chức bộ phận chuyên trách nghiên cứu chuyển giá, hoặc đặt hàng với các công ty tư vấn để chọn ra những phương thức phù hợp, dàn xếp các giao dịch chuyển giá hợp pháp. Các luật sư của DN, các chuyên gia tư vấn về chuyển giá thường dành sự chú ý rất cao đối với các quy định của pháp luật về ưu đãi đầu tư, pháp luật về XNK, về thuế thu nhập DN để tìm ra các “kẽ hở” hoặc các cơ hội mà họ có thể tận dụng được. Đấu tranh chống chuyển giá đã phức tạp, đấu tranh với những doanh nghiệp FDI lớn càng khó khăn và phức tạp hơn nhiều. Điều này là bởi vì các doanh nghiệp FDI lớn luôn có tiềm lực tài chính và nhân lực rất mạnh. Họ có một đội ngũ chuyên gia cực kỳ am hiểu về kế toán, tài chính, thuế và luật để có thể tạo ra vô vàn các giao dịch liên kết phức tạp và lập nên các báo cáo tài chính rất công phu để che mắt các cơ quan thuế. Khi đối diện với các cuộc thanh tra thuế, họ có thể thuê các chuyên gia thuế với chi phí đắt đỏ để tranh luận với các nhân viên thuế địa phương và thường thì họ dành phần thắng. Ở Việt Nam, tình huống Coca-Cola, Pepsi, Adidas, Metro... đã cho thấy điều đó. Ngoài vấn đề tiềm lực tài chính và nhân lực, các DN FDI trên địa bàn TP Hà Nội còn dành được sự quan tâm và ưu ái rất nhiều của Chính phủ, các ban ngành và địa phương. Việc thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động của các tập đoàn này ít nhiều cũng bị trở ngại bởi các rào cản vô hình đó. Chỉ khi có những bằng chứng khá rõ ràng, có cơ sở và vấn đề đủ nghiêm trọng thì cơ quan thuế mới có thể tiến hành thanh tra, kiểm tra, song tất cả đều phải lên kế hoạch cẩn trọng, cụ thể và phải báo trước. Mặc dù các tập đoàn quốc tế đầu tư ở Việt Nam nhìn chung đều tuân thủ rất tốt luật pháp của Việt Nam, thậm chí có nhiều tập đoàn còn hình thành nên nhiều chuẩn mực kinh doanh tốt, đóng góp tích cực vào việc hoàn thiện các chính sách và quy định của luật pháp Việt Nam, tuy nhiên trên phương diện thuế khóa, xét về bản chất lợi ích, không phải tập đoàn nào cũng có động cơ tuân thủ tốt mọi nghĩa vụ thuế với nhà nước. Sự quan tâm của Chính phủ hay chính quyền địa phương đối với các tập đoàn lớn là cần thiết nhưng sự ưu ái và dễ dãi quá mức đôi khi cũng khiến cho công tác thanh tra, kiểm tra thu đối với các tập đoàn này cũng gặp ít nhiều khó khăn và thách 104 thức vô hình. Trong hoạt động của các DN FDI lớn có chuyển giá đều có một công ty kiểm toán quốc tế tên tuổi và thường sử dụng dịch vụ dịch vụ tư vấn thuế, kê khai thu nhập chịu thuế có liên quan đến giao dịch liên kết từ bộ tứ kiểm toán hàng đầu thế giới. Kết quả khảo sát của tác giả luận án với 225 DN FDI về việc lập Báo cáo xác định giá thị trường, có tới 60% DN FDI phải đi “Thuê Công ty tư vấn và Công ty kiểm toán làm toàn bộ” do đây là công việc rất khó, chỉ có 11% DN FDI “tự lập báo cáo, mua dữ liệu từ các công ty kiểm toán”, và có tới 29% DN FDI không làm báo cáo này. Các đoàn thanh tra chống chuyển giá phải đối mặt đấu tranh với cả một lực lượng tư vấn kiểm toán uy tín, chuyên nghiệp và nổi tiếng toàn cầu. Ví dụ như ở vụ Keangnam Vina chuyển giá tới hơn 1.200 tỷ đã sử dụng dịch vụ từ công ty kiểm toán Deloitte Việt Nam. Công ty Tamron cũng thuê Deloitte Việt Nam , công ty Panasonic Systems Network Việt Nam thuê KPMG Các công ty kiểm toán thường làm hồ sơ xác định giá thị trường hết sức công phu với đầy đủ lập luận và lý lẽ để nguỵ biện cho kết quả kinh doanh lỗ hoặc tỷ suất lợi nhuận quá thấp của mình, điều này khiến cho cán bộ thanh tra hết sức khó khăn trong khâu phân tích, lập luận để bác các lập luận trong hồ sơ xác định giá thị trường Kết quả khảo sát của tác giả luận án với 205 cán bộ thanh kiểm tra cho thấy có 70% người được hỏi cho rằng “công ty kiểm toán và công ty tư vấn thuế thông đồng với DN FDI để lập các báo cáo chuyển giá nguỵ biện cho hành vi lỗ và lãi không đáng kể” của DN FDI. Về chất lượng Báo cáo xác định giá thị trường DN FDI thuê các công ty kiểm toán và công ty tư vấn thuế thực hiện, 47% DN FDI được hỏi cho rằng báo cáo đáp ứng được yêu cầu của CQT khi thanh tra, kiểm tra; 18% DN cho rằng “không đáp ứng được, bị cơ quan thuế bác bỏ”, khả năng cao xảy ra ở các DN FDI đã được thanh tra, kiểm tra và bị CQT điều chỉnh (ấn định) thuế TNDN. Thứ hai, một số DN FDI khi bị thanh tra giá chuyển nhượng thường cố tình không ký vào biên bản thanh tra vì tâm lý lo sợ: nếu một công ty ở Việt Nam bị kết luận là chuyển giá, toàn bộ tập đoàn (hoặc công ty mẹ ở nước ngoài) sẽ bị mất uy tín, dẫn đến hiệu ứng lan truyền là các công ty con ở các quốc gia khác trong cùng tập đoàn cũng bị nghi ngờ là có vấn đề , do đó việc đấu tranh của CQT đối với DN là hết sức khó khăn vì CQT chỉ ấn định trên cơ sở đạt được sự đồng thuận với DN. KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 Hoạt động chuyển giá đã ảnh hưởng xấu tới vấn đề thu ngân sách nhà nước của Thành phố, làm giảm tính cạnh tranh của thị trường, gây áp lực tới các DN làm ăn chân chính. Trong chương 3, sau khi giới thiệu khái quát về các DN FDI trên địa bàn cả nước và TP Hà Nội, tác giả luận án đã phân tích thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động chuyển giá của các DN FDI trên địa bàn TP Hà Nội theo các nội dung 105 đã xác lập tại chương cơ sở lý luận. Việc quản lý thuế đối với hoạt động chuyển giá thời gian qua tại TP Hà Nội đã và đang được coi là nhiệm vụ trọng tâm của toàn ngành thuế. Tuy nhiên kết quả chưa được như mong đợi, một phần do việc áp dụng phương pháp xác định giá thị trường trong thực tiễn còn nhiều hạn chế, một phần do hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, quyền hạn của CQT còn hạn chế, thiếu cơ sở dữ liệu so sánh, năng lực công chức thuế còn bất cập... Dù trong những năm gần đây vấn đề này đã có nhiều biến chuyển theo chiều hướng tích cực, song cũng cần nhìn nhận rằng, chuyển giá vẫn sẽ là một thách thức lớn cho các cơ quan quản lý nhà nước trong thời gian tới. 106 CHƯƠNG 4: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CHUYỂN GIÁ CỦA DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 4.1. Định hướng và mục tiêu hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hoạt động chuyển giá của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn thành phố Hà Nội 4.1.1. Dự báo xu hướng phát triển doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn Thành phố Hà Nội * Định hướng thu hút FDI vào Việt Nam Những tác động xảy ra với kinh tế Việt Nam sau khi gói đánh thuế thứ hai trị giá 200 tỷ USD vào 300 tỷ USD của Mỹ có tác dụng là rõ nét với luồng chuyển dịch đầu tư từ Trung Quốc và sang Việt Nam một cách ồ ạt. Việt Nam dự kiến sẽ là công xưởng sản xuất lớn hàng đầu thế giới sau Trung Quốc. Với cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung Quốc, ở chiều tích cực, một số hàng hóa Việt Nam có thể tận dụng được cơ hội thị trường bị bỏ ngỏ từ các lệnh áp thuế để tăng xuất khẩu vào cả hai nước. Căng thẳng về đầu tư Mỹ - Trung Quốc cũng có thể là cơ hội cho Việt Nam trong thu hút thêm đầu tư từ Mỹ. Tuy nhiên, ở chiều tiêu cực, hàng hóa Trung Quốc khó vào thị trường Mỹ sẽ chuyển hướng sang các thị trường khác. Việt Nam cũng đứng trước nguy cơ nhập siêu trầm trọng hơn từ Trung Quốc trong khi xuất khẩu của Việt Nam vào Trung Quốc cũng sẽ khó khăn hơn. Việc Mỹ thay đổi luật thuế mới cũng có thể khiến các công ty Mỹ đang đầu tư tại Việt Nam xem xét lại các chiến lược đầu tư hoặc có thể rút lợi nhuận từ Việt Nam để chuyển về Mỹ, thay vì tiếp tục mở rộng đầu tư tại Việt Nam. Cùng đó, sẽ ảnh hưởng đến các doanh nghiệp FDI đang tận dụng lợi thế chi phí rẻ, từ đó khiến sức cạnh tranh của môi trường đầu tư của Việt Nam bị giảm tương đối. Việc Mỹ thay đổi Luật thuế mới cũng có thể khiến các công ty Mỹ đang đầu tư tại Việt Nam xem xét lại các chiến lược đầu tư hoặc có thể rút lợi nhuận từ Việt Nam để chuyển về Mỹ, thay vì tiếp tục mở rộng đầu tư tại Việt Nam. Cùng đó, sẽ ảnh hưởng đến các doanh nghiệp FDI đang tận dụng lợi thế chi phí rẻ, từ đó khiến sức cạnh tranh của môi trường đầu tư của Việt Nam bị giảm tương đối. Hiện Bộ Công Thương đã đưa ra cảnh báo về việc nhiều mặt hàng thịt bò từ Mỹ có thể thông qua Việt Nam để sang Trung Quốc. Khi đó, Việt Nam sẽ là nước tiếp tay để tránh thuế. Ở chiều ngược lại, Trung Quốc cũng có thể tận dụng Việt Nam là nơi để gắn mác hàng Việt để xuất khẩu sang Mỹ. 107 Theo Cục Đầu tư Nước ngoài, công nghiệp chế biến, chế tạo là lĩnh vực thu hút được nhiều sự quan tâm của nhà đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đạt 11,3 tỷ USD, chiếm 44,6 tổng vốn đầu tư đăng ký. Lĩnh vực hoạt động kinh doanh bất động sản đứng thứ hai và đứng thứ ba là lĩnh vực bán buôn, bán lẻ. * Đối với TP Hà Nội Tính đến hết năm 2019, Hà Nội là thành phố thu hút vốn FDI dẫn đầu cả nước. Theo Cục Thống kê TP Hà Nội, ngay trong tháng 1/2020, TP Hà Nội đã có 68 dự án FDI được cấp phép mới với tổng vốn đăng kí đạt 30,2 triệu USD, trong đó có 61 dự án 100% vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, 7 dự án liên doanh liên kết. Theo GS.TSKH Nguyễn Mại - Chủ tịch Hiệp hội DN đầu tư nước ngoài, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư, “Tiềm năng thu hút FDI của Hà Nội trong những năm tới vẫn còn rất lớn. Ông cho biết, Việt Nam đã là thành viên của nhiều hiệp định thương mại tự do có tính chất toàn cầu và khu vực. Với việc nhiều dòng thuế suất được giảm về 0%, đây là lợi thế lớn để nhà đầu tư rót vốn vào Việt Nam, trong đó có Hà Nội. Mặc dù vậy, việc thu hút FDI vẫn chưa xứng với tiềm năng và mong muốn của TP Hà Nội. Hiện những dự án lớn trong lĩnh vực như R&D, Internet vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo (AI), bigdata, thực tế ảo (VR), tương tác thực tại ảo (AR), điện toán đám mây chưa nhiều. Vì vậy, vấn đề lớn nhất của Hà Nội là làm thế nào thay đổi cơ cấu đầu tư theo hướng hiện đại” (Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp, 12/2019). Nghị quyết số 50-NQ/TW của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài, có xác định “Phải thay đổi cách tiếp cận thu hút đầu tư nước ngoài, thay đổi tư duy về FDI trên cơ sở đó thay đổi thể chế, thay đổi hành động. Ngoài ra, những vấn đề như nước sạch, vệ sinh môi trường, giao thông Hà Nội cần phải xử lý mạnh, triệt để hơn”. Để thực hiện chiến lược thu hút FDI, những năm qua, Chính quyền TP Hà Nội đã đặc biệt quan tâm đến thu hút đầu tư và cam kết tiên phong tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, đồng hành cùng DN. Những nỗ lực cải cách hành chính của TP. Hà Nội đã được cộng đồng DN ghi nhận thông qua chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) của Hà Nội tăng 42 bậc trong 6 năm (từ vị trí 51 năm 2012 lên vị trí thứ 9 năm 2018). Hiện nay, TP Hà Nội đang tiếp tục cải thiện mạnh mẽ trong các lĩnh vực: quy hoạch, đầu tư, đất đai, xây dựng, cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy phép đầu tư; khuyến khích đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp; thực hiện có hiệu quả các chính sách ưu đãi, nhất là về thuế, tín dụng, đất đai, nhân lực; tăng cường, đổi mới xúc tiến đầu tư, xác định rõ các đối tượng trọng tâm, trọng điểm; tổ chức các hội nghị trao đổi, hợp tác xúc tiến đầu tư, du lịch giữa Hà Nội với một số thị trường Hàn Quốc, Nhật Bản, châu Âu... Đây là những sự kiện quan trọng, đầy ý nghĩa của TP, khẳng định mục tiêu tìm kiếm nguồn lực đầu tư cho sự phát triển của Thủ đô... 108 Một số ngành, lĩnh vực ưu tiên thu hút đầu tư phù hợp với xu hướng phát triển chung, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu và khai thác được các lợi thế của Thủ đô như phát triển hạ tầng kỹ thuật đô thị đồng bộ và hiện đại: Giao thông, khu đô thị thông minh, hạ tầng cấp nước, thoát nước, môi trường; lĩnh vực sản xuất, gia công và các lĩnh vực dịch vụ có mức độ giá trị gia tăng cao, người lao động có mức lương cao hơn và được phát triển kỹ năng như dịch vụ CNTT, công nghệ sinh học, du lịch, thương mại, giáo dục đào tạo, y tế - chăm sóc sức khỏe, logistic. Đây sẽ là tiền đề thu hút các dự án công nghiệp hỗ trợ theo Quy hoạch Phát triển Hà Nội trở thành TP Xanh - Văn hiến - Văn Minh - Hiện đại, trên nền tảng phát triển bền vững, Hà Nội trong tương lai sẽ phát triển năng động và hiệu quả. Với những tiềm năng, sự cam cam kết tiên phong trong tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi của Chính quyền và chiến lược thu hút FDI nêu trên của TP Hà Nội, tác giả luận án cho rằng, giai đoạn 2020-2025, Hà Nội vẫn là một trong những thành phố thu hút vốn FDI dẫn đầu của Việt Nam. 4.1.2. Những thuận lợi và khó khăn trong quản lý nhà nước đối với hoạt động chuyển giá của DN FDI thời gian tới 4.1.2.1. Những thuận lợi Thứ nhất, Nghị định 20, Luật Quản lý thuế số 38 ra đời đã nâng cao tính chất pháp lý, tính hiệu lực của văn bản quản lý nhà nước về chuyển giá, do đó, căn cứ pháp lý để ngành thuế đấu tranh với các DN FDI được nâng cao hơn cấp độ Thông tư. Nghị định 20, Luật số 38 đã cho phép cơ quan thuế thực hiện quản lý, kiểm tra, thanh tra đối với giá giao dịch liên kết theo nguyên tắc giao dịch độc lập và bản chất quyết định hình thức để không công nhận các giao dịch liên kết làm giảm nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp qua việc điều chỉnh giá giao dịch liên kết để xác định đúng nghĩa vụ thuế. Thứ hai, có sự hỗ trợ, vào cuộc của Tổng cục Thuế, Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), Ngân hàng thế giới (WB) với ngành thuế trong thanh tra chống chuyển giá. Ngành thuế sẽ nhân rộng APA đối với một số doanh nghiệp FDI đủ điều kiện, nhờ đó mà giảm gánh nặng cho thanh tra chống chuyển giá. Thứ ba, phần lớn DN nước ngoài tại Việt Nam đã nắm bắt được các quy định về kê khai GDLK, lập hồ sơ xác định giá thị trường, và tự động điều chỉnh khi kết quả kinh doanh lỗ kéo dài, lỗ vượt vốn chủ sở hữu. 4.1.2.2. Những khó khăn Một là, hành vi chuyển giá của các DN FDI tại Việt Nam ngày càng phổ biến, tinh vi và phức tạp. Để quản lý thuế đối với hoạt động chuyển giá đạt hiệu quả cao, CQT cần thiết có quyền điều tra để xác định hành vi chuyển giá của NNT. Tuy nhiên, tại các văn bản pháp quy hiện hành không quy định CQT có quyền điều tra. Hai là, môi trường kinh doanh luôn biến động, giá cả thị trường khó kiểm soát 109 dẫn tới việc xác định “giá thị trường” (là một trong những vấn đề căn bản khi triển khai một cuộc thanh tra chuyển giá) là thực sự khó khăn. Ba là, khó khăn trong ấn định về chi phí. Hiện nay, ngoài thông tin mà NNT đã khai trong hồ sơ khai thuế, các thông tin khác liên quan đến NNT rất ít được khai thác sử dụng. Tuy nhiên, hiện tại mỗi ngành đều có quy định riêng về kiểm soát DN, chưa có quy chế phối hợp cụ thể để cung cấp thông tin liên quan đến NNT giữa các cơ quan như: Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Ngân hàng Nhà nước; Sở Kế hoạch và Đầu tư - Cục Thuế... Bốn là, khó khăn trong áp dụng phương pháp xác định giá và lựa chọn dữ liệu so sánh. Việc xác định “giá thị trường” là một trong những vấn đề căn bản khi xem xét vấn đề chuyển giá. Trên thực tế, khó xác định được mức giá “thị trường” bởi vì trong các hoàn cảnh khác nhau, vì các mục đích khác nhau, DN có thể đưa ra các mức giá khác nhau - kể cả bán dưới giá thành; hoặc nhiều trường hợp không có giá để so sánh. Có một thực tế là do tính đa dạng của sản phẩm hàng hóa dịch vụ trong nền kinh tế thị trường do đó hầu như cán bộ thanh tra rất khó xác định được một phương pháp nào phù hợp với thực tế kinh doanh của NNT. Thực tế các cuộc thanh tra chống chuyển giá đã được thực hiện tại Cục thuế TP Hà Nội cho thấy, ngay cả cán bộ, công chức làm công tác chống chuyển giá cũng rất lúng túng trong việc áp dụng phương pháp xác định giá và lựa chọn cơ sở dữ liệu để so sánh. Thực tế nêu trên cho thấy các khó khăn thực sự trong việc nắm bắt các quy định tại Thông tư và Nghị định. Nếu không xác định đúng phương pháp xác định giá thì việc thu thập dữ liệu, thông tin so sánh sẽ hoàn toàn lệch hướng và lãng phí công sức và còn có thể gây bức xúc cho DN. Năm là, khó khăn trong áp dụng APA. Với năng lực hệ thống quản lý thuế hiện nay của Việt Nam nói chung cũng như Cục thuế TP Hà Nội nói riêng, việc áp dụng cơ chế giá này vẫn còn nhiều thách thức. Khi đó, CQT chấp nhận giá do doanh nghiệp đưa ra, như giá bán giá nhập khẩu... nhưng hệ thống cơ sở dữ liệu ở Việt Nam rất hạn chế vì vẫn đang dần hoàn thiện. Mức giá thỏa thuận giữa CQT và NNT có thể hiệu lực trong một thời gian nhất định, có thể là 3 năm. Nhưng một trong những trở ngại là còn nhiều rủi ro khó đoán về giá trong thời gian này như lạm phát, biến động thị trường. Khó nhất là năng lực phân tích thị trường để hoạch định mức giá thỏa thuận cho 2 bên đồng ý và khả thi. Việc áp dụng cơ chế thỏa thuận trước về phương pháp xác định giá tính thuế (APA) không mang tính bắt buộc, mà phải được sự đồng ý theo nguyên tắc tự nguyện của người nộp thuế/ doanh nghiệp. Chuyên gia nước ngoài, ông Marcellus Wong, đại diện Viện Thuế Hong Kong (Trung Quốc) cũng nêu những trở ngại của APA. Theo ông, đây là quy trình rất tốn kém và mỗi thỏa thuận APA ở Hong Kong nhanh cũng phải mất tới 6, 7 tháng để giải 110 quyết. Do đó, ông Marcellus Wong lưu ý Việt Nam cần lưu ý để thực hiện APA có độ chắc chắn cao như việc nắm rõ những thông tin của doanh nghiệp về mua bán sáp nhập, quy địn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfquan_ly_nha_nuoc_doi_voi_hoat_dong_chuyen_gia_cua_cac_doanh.pdf
Tài liệu liên quan