Tác phẩm Từ ấy của Tố Hữu

DÀN Ý CƠ BẢN PHÂN TÍCH TỪ ẤY (Trần Hà Nam):

A. Tên bài thơ: Thời điểm gặp gỡ của tâm hồn thanh niên sôi nổi, tươi mới với lý tưởng cách mạng bừng sáng. Vừa là tên chung của cả tập thơ. Gắn giai đoạn “Máu lửa” (1937 – 1939)

B. Phân tích chi tiết:

* Khổ I:

1. Hình ảnh thơ: a) Nắng hạ - mặt trời chân lý: ánh sáng bên ngoài, sức ấm nóng, chói chang rực rỡ  hào quang chói lọi của lý tưởng cộng sản.

 b) Chói qua tim: sức thẩm thấu trực tiếp, tác động mạnh mẽ (cách nói thể hiện niềm vui phơi phới)

 c) Hình ảnh so sánh: sức sống lan toả từ bên trong

 Hồn tôi: + Vườn hoa lá

 + Đậm hương

 + rộn tiếng chim

  hình ảnh cụ thể  ý nghĩa khái quát

 rực rỡ, mơn mởn sức sống, thanh lọc, phơi phới lạc quan

2. Tiếng nói tình cảm mãnh liệt nồng nàn thể hiện niềm vui, niềm tin tuyệt đối vào lý tưởng

* Khổ II: Tình cảm và ý chí làm nên sức mạnh chiến đấu

 1. Sức lan toả mạnh mẽ của lý tưởng

 2. Từ cái riêng  cái chung, cá nhân  cộng đồng

 3. Sức mạnh từ bên trong “hồn tôi - hồn khổ”  tình cảm ràng buộc cũng là ý thức giai cấp  ý thức trách nhiệm với cuộc đời

 

doc5 trang | Chia sẻ: binhan19 | Lượt xem: 1070 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tác phẩm Từ ấy của Tố Hữu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TÁC PHẨM TỪ ẤY CỦA TỐ HỮU PHẦN I: BÀI GIẢNG I. TÌM HIỂU CHUNG: 1/ Tác giả: - Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh tại Thừa Thiên Huế, trong một gia đình nhà Nho nghèo. 1938 được kết nạp Đảng.Giác ngộ CM trong thời kì “Mặt trận dân chủ” ở Huế. Những bài thơ đầu tiên được sáng tác từ những năm 1937-1938. Đến tháng 4/1939 thì bị Pháp bắt giữ ở các nhà lao Miền Trung - Tây Nguyên. Năm 1942 vượt ngục Đắclay, tiếp tục hoạt động bí mật đến 1945, sau đó được giữ nhiều chức vụ quan trọng trong Đảng. - Tác phẩm tiêu biểu: Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận, Máu và hoa, Một tiếng đờn.. ông được giải nhất VH hội nhà văn VN 1954-1955, giải thưởng HCM về VHNT 1996 2/ Tác phẩm “Từ ấy”: a) Xuất xứ: - “Từ ấy” là tập thơ gồm 3 phần: Máu lửa, Xiềng xích, Giải phóng. Bài thơ “Từ ấy” trích trong phần “Máu lửa”, viết 1938. b) Hoàn cảnh sáng tác: Ngày được đứng vào hàng ngũ của Đảng, của khung người cùng phấn đấu vì lí tưởng cao đẹp là bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời Tố Hữu, ghi nhận lại kỉ niệm đáng nhớ ấy với những cảm xúc, suy tư sâu sắc. Năm 1938 Tố Hữu viết “Từ ấy” c) Giá trị: - “Từ ấy” là một tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ Tố Hữu nói riêng và thơ CM 1930-1945 nói chung - “Từ ấy” được sáng tác bằng hình thức thơ mới, là một thành công xuất sắc của TH cả về tư tưởng lẫn nghệ thuật. d) Nội dung chủ đề: - Bài thơ thể hiện trạng thái hưng phấn, sung sướng khi tiếp thu ánh sáng mặt trời chân lí, là lời tự nguyện của 1 thanh niên yêu nước giác ngộ lí tưởng CM gắn bó với quần chúng, đấu tranh cho những người lao khổ. - Bài thơ dùng hình thức thơ mới, dùng nhiều hình ảnh tượng trưng của thiên nhiên để thể hiện niềm vui sướng, bừng ngộ khi tiếp cận ánh sáng chân lí CM. II. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN: 1/ Khổ thơ đầu: Niềm vui sướng, say mê khi gặp lí tưởng của Đảng: - “Từ ấy” là cái mốc thời gian có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đáng ghi đáng nhớ của người thanh niên giác ngộ lí tưởng; là sự đánh dấu một cuộc đổi đời, cao hơn là sự hồi sinh của một con người khi nhận ra ánh sáng của lí tưởng cộng sản. - Hình ảnh thơ giàu tính hình tượng “bừng nắng hạ” ® thứ ánh nắng sáng tươi, rực rỡ chiếu soi khắp nơi đặc biệt là soi sáng cả những ngõ ngách sâu kín nhất của tâm hồn, trí tuệ, nhận thức của con người. - Hình ảnh ẩn dụ “mặt trời chân lí” ® lí tưởng Đảng, nó có sức mạnh cảm hóa, lay động và thức tỉnh nhà thơ. - Hình ảnh so sánh “hồn tôi - một vườn hoa lá” - “rất đậm hương và rộn tiếng chim” ® cuộc sống trong sáng, hồn nhiên, một sức sống sinh sôi dào đạt ® cuộc sống mới tươi vui, rộn rã tràn đầy màu sắc, âm thanh và mùi vị được cất lên như một tiếng ca vui, một lời reo mừng phấn khởi trước nguồn sáng vĩ đại của Cách mạng làm bừng sáng cả trí tuệ và trái tim nhà thơ. - Những tính từ chỉ mức độ cao “bừng, chói, rất đậm, rộn” ® sự say mê, ngây ngất của người chiến sĩ cộng sản khi bước theo ánh sáng lí tưởng đời mình. Þ Câu thơ nối dòng, cách so sánh giản dị, biện pháp ẩn dụ, giọng thơ sôi nổi rộn ràng + bút pháp tự sự, kể lại kỉ niệm ® tâm trạng lạc quan tin tưởng trước quyết định đúng đắn của đời mình. 2/ Khổ thơ thứ hai : Những nhận thức mới về lẽ sống, về con đường CM mình đã chọn: - Từ “buộc “: thái độ chủ động. tự nguyện dấn thân, đòi hỏi sự cố gắng nhất định ® Sự gắn bó hài hoà giữa “cái tôi” cá nhân và “cái ta” chung của mọi người. - Liên từ “với” gặp nhiều lần + những cặp từ liên tiếp “lòng tôi - mọi người, tình trang trải - trăm nơi, hồn tôi - hồn khổ” ® mối dây ràng buộc với mọi người, thiết lập tình yêu thương gắn kết giữa người và người, là sự cảm thông chia sẻ trước nỗi đau, vui buồn của bao kiếp người, đặc biệt là quần chúng lao khổ. - Điệp từ “để” + những từ láy “trang trải”, “gần gũi” ® từ nhận thức giác ngộ lí tưởng ® niềm vui, từ tình cảm yêu thương ® sức mạnh ® Đó là thái độ của người thanh niên đầy nhiệt huyết quyết tâm hành động vì lí tưởng. Þ Người thanh niên TH đã quên mình để đi sâu vào quần chúng với tấm lòng rất chân thành và thái độ hoàn toàn tự nguyện. Người CS trẻ đã trưởng hành, Đảng ngày càng vững mạnh, CM ngày càng tiến tới. 3/ Khổ thơ cuối : Sự chuyển biến sâu sắc trong tình cảm của TH - Quan niệm về lí tưởng cộng sản - “Tôi đã”: sự thật hiển nhiên. - Điệp từ “là” (là con... là em..., là anh) là lời khẳng định chắc nịch, rắn rỏi, dứt khoát cho sự hòa nhập tuyệt đối, khẳng định ý chí CM, khẳng định mình là thành viên ruột thịt trong đại gia đình quần chúng. - Số từ ước lệ “vạn” lặp lại + nhịp thơ hăm hở, náo nức dồn đập diễn tả thật tài tình sự tăng tiến về tình cảm ® Tư tưởng nhân đạo (đồng cảm xót thương xúc động chân thành, căm phẫn trước bao cảnh bất công ngang trái của cuộc đời cũ) + Tin tưởng tuyệt đối vào con đường mình đã chọn, thái độ quyết tâm dứt khoát. Þ Tình cảm cá nhân của người thanh niên CS đã chan hòa vào tình cảm rộng lớn của vạn vạn người. Tâm hồn tác giả muốn mở ra tung trải mênh mông để ôm trùm tất cả, gắn bó tất cả. III. TỔNG KẾT: - Bài thơ “Từ ấy” là bản tuyên ngôn về quan điểm nhận thức và sáng tác của TH. - Với “Từ ấy”, TH đã mang đến cho thơ ca VN 1 giọng thơ mới trẻ trung đầy niềm tin CM. Tác phẩm giúp thế hệ sau có cơ hội hiểu rõ hơn về thời kì nhận đường, thời kì đấu tranh gian khổ nhưng đầy tự hào của dân tộc. PHẦN II: PHÂN TÍCH BÀI THƠ TỪ ẤY Đề tham khảo 1: “Thơ Tố Hữu trước cách mạng là ngọn lửa cháy trong tâm hồn của một người trai trẻ, yêu nước, yêu đời, yêu những người cực khổ được Đảng chỉ cho thấy con đường cách mạng, nhưng chưa kịp biết rõ cuộc sống thực, cuộc sống cơm áo, mồ hôi nước mắt của quần chúng lao động” (Nguyễn Đình Thi - Mấy vấn đề văn học) Phân tích tập thơ Từ Ấy để làm sáng tỏ ý kiến trên. Đề tham khảo 2: Trong bài “Từ ấy”, Tố Hữu có viết: Tôi buộc lòng tôi với mọi người Để tình trang trải với trăm nơi Để hồn tôi với bao hồn khổ Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời Phân tích nội dung đoạn thơ trên. Liên hệ với các bài khác trong “Từ ấy”, hãy phát biểu suy nghĩ của anh (chị) về tình cảm của Tố Hữu với quần chúng lao khổ. DÀN Ý CƠ BẢN PHÂN TÍCH TỪ ẤY (Trần Hà Nam): A. Tên bài thơ: Thời điểm gặp gỡ của tâm hồn thanh niên sôi nổi, tươi mới với lý tưởng cách mạng bừng sáng. Vừa là tên chung của cả tập thơ. Gắn giai đoạn “Máu lửa” (1937 – 1939) B. Phân tích chi tiết: * Khổ I: 1. Hình ảnh thơ: a) Nắng hạ - mặt trời chân lý: ánh sáng bên ngoài, sức ấm nóng, chói chang rực rỡ è hào quang chói lọi của lý tưởng cộng sản. b) Chói qua tim: sức thẩm thấu trực tiếp, tác động mạnh mẽ (cách nói thể hiện niềm vui phơi phới) c) Hình ảnh so sánh: sức sống lan toả từ bên trong Hồn tôi: + Vườn hoa lá + Đậm hương + rộn tiếng chim è hình ảnh cụ thể à ý nghĩa khái quát è rực rỡ, mơn mởn sức sống, thanh lọc, phơi phới lạc quan 2. Tiếng nói tình cảm mãnh liệt nồng nàn thể hiện niềm vui, niềm tin tuyệt đối vào lý tưởng * Khổ II: Tình cảm và ý chí làm nên sức mạnh chiến đấu 1. Sức lan toả mạnh mẽ của lý tưởng 2. Từ cái riêng à cái chung, cá nhân à cộng đồng 3. Sức mạnh từ bên trong “hồn tôi - hồn khổ” à tình cảm ràng buộc cũng là ý thức giai cấp è ý thức trách nhiệm với cuộc đời * Khổ III: Niềm tự hào vui sướng khi được hoà mình vào quần chúng lao khổ 1. Cách nói “đã là” : niềm tự hào được đứng vào đội ngũ quần chúng cách mạng 2. Cảm xúc trữ tình tâm tình: là Con – là Em – là Anh à tình cảm thân thương máu thịt cũng là sự giác ngộ giai cấp sâu sắc : tự nguyện hiến thân vì lý tưởng 3. Ý nghĩa của lý tưởng cách mạng khi mỗi cá nhân đã thật sự thấm nhuần: nối kết quá khứ (vạn kiếp phôi pha) - hiện tại (tôi) – tương lai (vạn đầu em nhỏ), là sức mạnh tổng hợp (vạn nhà) ó Mục đích : chiến đấu vì những nạn nhân đau khổ của xã hội cũ. C. Mở rộng: “Từ ấy” thoát thai từ Thơ Mới” (Xuân Diệu) nhưng khác hẳn Thơ Mới trong quan niệm về xã hội và con người. Khuynh hướng lãng mạn và khuynh hướng lãng mạn khác biệt: Cùng đề tài à khác về tư tưởng Chuyển hướng tâm trạng: Nhớ Người, Nhớ Đồng Đối lập suy nghĩ: Tháp Đổ, Tiếng hát sông Hương, Dửng dưng Cái tôi cá nhân >< cái tôi lý tưởng chiến sĩ Bất lực bất hoà đấu tranh Trí tưởng tượng cảm xúc mãnh liệt Bi quan ĐI Lạc quan “Đi, bạn ơi đi, biệt tháng ngày – Hoang mang không định hướng tương lai - Buồn thinh như dưới chiều quê lặng - Dải nước mương lê xuống vũng lầy/ Đi bạn ơi đi sống đủ đầy - Sống trào sinh lực, bốc men say - Sống tung sóng gió thanh cao mới - Sống mạnh dù trong một phút giây/ Đi, bạn ơi đi, cả cuộc đời - Của ta nào chỉ của ta thôi – Đã vay dòng máu thơm thiên cổ - Phải trả ta cho mạch giống nòi”. “Thi sĩ hỡi đi tìm chi vơ vẩn – Trong hồn già đã chết những yêu mơ – Có lành đâu vế tthương đầy oán hận – Có tan đâu khí uất tự bao giờ” “Anh mới hiểu càng ngậm ngùi khổ tủi – Càng đầy thêm uất hận của lòng ta – Nuôi đi em, cho đến lớn đến già - Mầm hận ấy trong lồng xương, ống máu - Để thêm nóng mai kia hồn chiến đấu – Mà hôm nay anh đã nhóm trong lòng” “Đời cách mạng từ khi tôi đã hiểu - Dấn thân vô là phải chịu tù đày – Là gươm kề tận cổ, súng kề tai – Là thân sống chỉ coi còn một nửa” Bài viết phân tích: “Đâu những ngày xưa tôi nhớ tôi – Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời ”, trên hành tình ấy, người thanh niên Tố Hữu đã gặp gỡ ánh sáng “mặt trời chân lý”. Niềm xúc động ấy đã hội tụ trong cảm hứng của bài thơ Từ ấy – như một giao điểm giữa tâm hồn trẻ trung yêu đời với lý tưởng cộng sản. Bài thơ được sáng tác năm 1938, khi nhà thơ vinh dự được đứng vào hàng ngũ quang vinh của những người cộng sản. Từ ấy chan chứa nỗi xúc động sâu xa khi trên chặng đường “máu lửa”, nhà thơ đã được tiếp thêm sức mạnh của lý tưởng chiến đấu. qua bài thơ, ta bắt gặp hình ảnh người thanh niên cộng sản say mê lý tưởng, sẵn sàng chiến đấu và xả thân vì lý tưởng, vì cuộc đời chung. Bài thơ thể hiện đậm nét cái tôi trẻ trung tươi mới, hài hoà tiếng nói lý trí và tình cảm, trên tinh thần tự nguyện tự giác đứng vào đội ngũ đấu tranh. Chính Tố Hữu đã từng phát biểu về bài thơ Từ ấy và tập thơ “thể hiện niềm vui sướng vô cùng khi cảm thấy ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lê nin soi rọi vào tâm hồn tươi trẻ”. Bài thơ thật sự đã mang theo nguồn cảm hứng mới khác hẳn với khuynh hướng lãng mạn phổ biến trong giai đoạn ấy: tiếng nói trữ tình chính trị trong thơ hoà điệu với tiếng nói trữ tình tâm tình. Ngay từ những dòng thơ mở đầu ta đã cảm nhận được tiếng reo vui: Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ Mặt trời chân lý chói qua tim Sức hấp dẫn của ánh sáng không phải chiếu từ bên ngoài vào mà lại lan toả từ trong chính tâm hồn của nhà thơ. Nắng hạ là nắng mùa hè, rực rỡ, ấm nóng, không phải là ánh nắng tự nhiên mà lại là ánh sáng lan toả từ “trong tôi”. Cái tôi ấy mạnh mẽ, hào hứng mê say biết bao. Nhà thơ cộng sản Pháp Luis Aragông từng có câu thơ “Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng” là cách nói mộc mạc, trực tiếp diễn tả ý nghĩa thức tỉnh của lý tưởng với nhận thức và tâm hồn. Còn Tố Hữu dùng cách nói hình tượng tạo ra những liên tưởng tương tự và giàu sắc thái biểu cảm hơn. Chân lý được so sánh với mặt trời - nguồn sáng, nguồn sống cho muôn loài. Sức thẩm thấu của nguồn sáng ấy vô cùng mãnh liệt, soi chiếu mọi ngõ ngách tâm hồn con người. Tố Hữu dùng chữ “bừng” và chữ “chói” để diễn tả những cảm xúc cực điểm của niềm vui và cũng là niềm tin tuyệt đối hướng về lý tưởng. Khi nhận thức đã chuyển hoá thành vấn đề của tâm hồn thì con người thật sự tiếp nhận một nguồn sống mới: Hồn tôi là một vườn hoa lá Rất đậm hương và rộn tiếng chim Tố Hữu đã dùng hình ảnh một khu vườn đầy sức sống để nói về những đổi thay kỳ diệu khi được tiếp nhận ánh sáng của “mặt trời chân lý”. Sự hoá thân giàu ý nghĩa biểu tượng ấy nhằm diễn tả vẻ đẹp của tâm hồn rực rỡ như hoa, tràn nhựa sống bật lên trong sắc lá, thanh khiết tinh lọc với làn hương đậm và rộn rã niềm vui, ngây ngất trong “tiếng chim”. Câu thơ gợi liên tưởng đến Xuân Diệu khi diễn tả sức sống tâm hồn yêu đời. Có lý tưởng, tâm hồn ta bỗng trở nên đẹp hơn, cuộc đời ta cũng trở nên ý nghĩa hơn. Niềm hạnh phúc của nhà thơ là ở đó. Từ ấy, cũng là từ thời điểm giác ngộ tạo ra ý thức tự nguyện gắn bó cuộc đời chung, thoát ra khỏi giới hạn đời sống cá nhân chật hẹp: Tôi buộc lòng tôi với mọi người Để tình trang trải với trăm nơi Để hồn tôi với bao hồn khổ Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời Sự ràng buộc xuất phát từ chính bản thân con người, trên tinh thần tự giác cao độ. Câu thơ như phát ra mệnh lệnh, nhưng là mệnh lệnh của trái tim đang tắm đẫm trong ánh sáng chói loà của lý tưởng, tạo nên mối dây gắn kết giữa cái tôi nhà thơ với mọi người, mối dây tình cảm giai cấp. Sự vận động của cái tôi nhà thơ hoàn toàn khác với các nhà thơ lãng mạn, khi không trốn tránh cuộc đời mà tạo nên ý nghĩa cao đẹp của một hành động dấn thân. Đó là khởi điểm cho một quan niệm sống tích cực. Tình cảm cá nhân - cộng đồng được hình thành cũng là lúc con người được thôi thúc trong hành động “trang trải với trăm nơi”, trăm cuộc đời, trăm số phận, nhân lên sức mạnh của tình hữu ái giai cấp. Quan điểm nhà thơ cũng hết sức rõ ràng khi xác định cụ thể cho mối quan hệ ấy là “hồn tôi với bao hồn khổ”, chiến đấu vì những cuộc đời cần lao. Người thanh niên học sinh ấy đã đứng vào đội ngũ những người lao khổ, nạn nhân của cuộc đời cũ, để cảm nhận sức mạnh của “khối đời” được gắn kết bằng sự gần gũi thân thiện, bằng ý thức giai cấp, tình cảm giai cấp. Nhận thức ấy cũng là khoảnh khắc giúp nhà thơ tự nhận thức chính mình, trong niềm vui sướng khi đứng trong đội ngũ chiến đấu: Tôi đã là con của vạn nhà Là em của vạn kiếp phôi pha Là anh của vạn đầu em nhỏ Không áo cơm cù bất cù bơ Khi cảm nhận được sức mạnh “khối đời” cũng là lúc nhân lên sức mạnh “trăm nơi”, hoà nhập “vạn nhà”. Cách nói khẳng định “đã là” của nhà thơ cùng sự ý thức tình cảm chung đã chuyển hoá thành tình cảm riêng như trong một gia đình lớn cách mạng, có sự hợp lưu của trăm sông về một biển lớn. Nhà thơ tự nhận là con – là em – là anh, để thấy trong mỗi cuộc đời có sự sống của chính mình. Sự tổng hoà sức mạnh ấy còn gắn kết cả các thế hệ: quá khứ (vạn kiếp phôi pha), hiện tại (tôi) và tương lai (vạn đầu em nhỏ), là nguồn sức mạnh tổng hợp (vạn nhà) cùng hướng đến mục đích chiến đấu cho những thân phận “không áo cơm cù bất cù bơ”. Gắn với tình cảm còn là ý thức trách nhiệm, là tinh thần sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì lẽ công bằng xã hội. Những lời thơ của chàng thanh niên mười tám tuổi ngày ấy giúp ta hiểu thêm ý nghĩa lớn lao của lý tưởng cộng sản khi thức tỉnh tâm hồn, nhận thức cho một lớp người. Ta cảm nhận sâu sắc hơn ý nghĩa cuộc sống khi được tiếp nhận một lý tưởng cao đẹp. Đó là minh chứng hùng hồn đầy sức thuyết phục khi được nói lên bằng tiếng nói trái tim chân thành cởi mở. Trong cuộc sống bộn bề hiện nay, khi con người mải đuổi theo những giá trị ảo, bài thơ mang ý nghĩa thức tỉnh cho chúng ta hướng về một lẽ sống cao đẹp vì cuộc đời chung, vượt lên giới hạn đời sống cá nhân để đến với cuộc đời chung. Ta cũng càng thêm trân trọng lớp cha anh đã chiến đấu, xả thân cho lý tưởng, cho một lẽ công bằng đang trở thành hiện thực trên đất nước.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTuan 25 Tu ay_12302538.doc
Tài liệu liên quan