Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp Nghị luận văn học 12

1. Khái quát văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám năm 1945

đến hết thế kỷ XX. 2

2. Hồ Chí Minh 2

3. Tuyên ngôn độc lập – Hồ Chí Minh. 3

4. Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc

– Phạm Văn Đồng. 3

4. Tây Tiến – Quang Dũng. 4

5. Tố Hữu 4

6. Việt Bắc (trích) – Tố Hữu 5

7. Đất Nước (trích Trường ca Mặt đường khát vọng)

- Nguyễn Khoa Điềm. 6

8. Sóng – Xuân Quỳnh. 10

9. Đàn ghi- ta của Lor-ca – Thanh Thảo 12

10. Ai đã đặt tên cho dòng sông? (trích) – Hoàng Phủ Ngọc Tường. 16

11. Người lái đò Sông Đà (trích) - Nguyễn Tuân. 18

12. Vợ chồng A Phủ (trích) – Tô Hoài. 21

13. Vợ nhặt (Kim Lân). 23

14. Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành. 28

15. Những đứa con trong gia đình (trích) - Nguyễn Thi. 31

16. Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu. 33 17. Hồn Trương Ba, da hàng thịt – Lưu Quang Vũ. 35

18. Phụ lục văn học nước ngoài 37

 

 

doc63 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4748 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp Nghị luận văn học 12, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y của Tây Nguyên và của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. b) Tnú : như cánh chim đại bàng của núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ được nuôi dưỡng từ cái nôi làng Xôman bất khuất, nghĩa tình. + Nhân vật Tnú được thể hiện trên một quá trình phát triển, từ nhỏ đến khi trở thành chiến sĩ. Quá trình này có ý nghĩa tiêu biểu cho một thế hệ con người Tây Nguyên trưởng thành trong một thời kì lịch sử đáng ghi nhớ. + Nhân vật Tnú mang những vẻ đẹp tính cách nổi bật của con người Tây Nguyên : - Gan góc và táo bạo, dũng cảm và trung thực - Giàu tình cảm, biết yêu thương thắm thiết và biết căm thù sâu sắc - Có tính kỉ luật cao + Khi xây dựng nhân vật Tnú, tác giả chú ý miêu tả hình ảnh đôi bàn tay. Dường như đôi bàn tay Tnú biết nói và đã nói rất nhiều về con người này. c) Dít : xuát hiện không nhiều trong câu chuyện, nhưng lại là hiện thân và là sự tiếp nối của Mai. Ở Dít nổi bật lên là một tình cảm trong sáng, sâu sắc nhưng lăng lẽ và kín đáo. d) Bé Heng : tượng trưng cho cây xà nu mới lớn, mang trong mình bao nhựa sống, hứa hẹn sẽ trở thành những cây xà nu mạnh mẽ và bất diệt. c. Đánh giá chung Rừng xà nu dạt dào cảm hứng sử thi. Những nhân vật đại diện cho cộng đồng, sống chết vì cộng đồng, gắn với số phận của cộng đồng ; được ngợi ca bằng những hình ảnh chói lọi ; và một giọng văn say mê trang trọng, đầy chất thơ hùng tráng. ĐỀ 4 : BÀI VĂN THAM KHẢO Như một duyên kì ngộ, trong cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ, Nguyên Ngọc – Nguyễn Trung Thành gắn bó mật thiết với chiến trường Tây Nguyên. Nhà văn gần gũi, hiểu biết cuộc sống và tinh thần quật cường bất khuất, yêu tự do, quý cách mạng của nhân dân các dân tộc thiểu số trên mảnh đất này của Tổ quốc. Từ thành công của tiểu thuyết đầu tay Đất nước đứng lên, cho đến truyện ngắn Rừng xà nu đều là những bản anh hùng ca mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn về cuộc chiến đấu của nhân dân Tây Nguyên, nói rộng ra là về hai cuộc chiến tranh nhân dân kì diệu của dân tộc ta. Tác giả viết Rừng xà nu mùa hè năm 1965, khi đế quốc Mĩ bắt đầu đổ quân ào ạt vào miền Nam nước ta. Truyện hưởng ứng phong trào sáng tác bấy giờ, tạo nên những “Hịch tướng sĩ thời chống Mĩ”. Rừng xà nu đậm đà tính chất sử thi thể hiện qua cốt truyện và chủ đề, qua hệ thống nhân vật và hình tượng thiên nhiên, trong ngôn ngữ và cách trần thuật. Cốt truyện của Rừng xà nu có hai câu chuyện đan cài vào nhau : chuyện về cuộc đời Tnú và về cuộc nổi dậy của làng Xôman. Chuyện về Tnú là tình tiết chính và cũng là cốt lõi của câu chuyện về cuộc nổi dậy của làng Xôman. Truyện tái hiện không khí của một thời kì lịch sử phong trào cách mạng ở miền Nam : những năm đen tối cho đến Đồng khởi ( khoảng 1955-1959 ). Xung đột chính của truyện – giữa nhân dân cách mạng và kẻ thù được dồn nén đẩy tới cao trào và bùng nổ dữ dội ở đoạn gần cuối tác phẩm : cuộc nổi dậy của làng Xôman với giáo mác dụ rựa, trong phút chốc tiêu diệt bọn giặc, bắt đầu cuộc chiến đấu giải phóng của dân làng, của cả Tây Nguyên. Cũng chính ở cao trào của cuộc xung đột này bật lên một kết luận mang ý nghĩa như một chân lí của cách mạng, được phát ngôn qua lời cụ Mết : “Nhớ lấy, ghi lấy … Sau này tau chết rồi, bay còn sống phải nói lại cho con cháu : Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Đó cũng chính là tư tưởng chính trị chủ đạo của tác phẩm : phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng, vũ trang chiến đấu là con đường tất yếu để tự giải phóng của nhân dân. Truyện đã xây dựng được một tập thể nhân vật anh hùng, thể hiện sự nối tiếp của các thế hệ cách mạng của làng Xôman, cũng là của Tây Nguyên : Cụ Mết – Tnú và Mai, Dít – Heng. Anh Quyết là đại diện cho những cán bộ Đảng đã “gieo mầm” cách mạng trong đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Mỗi hình tượng có vẻ đẹp riêng và đều mang ý nghĩa tư tưởng sâu sắc, mang tầm vóc sử thi. Tnú, nhân vật anh hùng, người con vinh quang của làng Xôman, của những người Strá được Nguyễn Trung Thành khắc hoạ bằng những đường nét độc đáo. Câu chuyện về Tnú mang ý nghĩa tiêu biểu của những người anh hùng đại diện cho số phận và con đường di lên của các dân tộc Tây Nguyên trong thời đại đấu tranh giải phóng. Những nét tính cách nổi bật của Tnú đã được bộc lộ ngay từ lúc còn nhỏ : gan góc và táo bạo, dũng cảm và trung thực. Đặc biệt sự gắn bó và lòng trung thành với cách mạng. Anh là người con của buôn làng, mang nỗi nhớ sâu nặng trong tim. Tnú , một người giàu tình thương yêu với vợ con. Anh còn là một chiến sĩ tôn trọng kỉ luật và ý thức tổ chức cao. Câu chuyện của Tnú và Mai khi còn nhỏ đầy vẻ đẹp thơ mộng, ở tuổi trưởng thành thắm thiết nghĩa tình, thì lại thật bi thương trong lúc ngập tràn hạnh phúc. Tính cách và số phận Tnú được bộc lộ chói chang trong cao trào của truyện, cũng là đoạn đời đầy bi tráng của nhân vật. Ơ nhân vật Tnú, hình ảnh bàn tay gây được ấn tượng đậm nét và sâu sắc, qua bàn tay nói lên cuộc đời và tính cách của nhân vật. Bàn tay Tnú còn lành là bàn tay trung thực, tình nghĩa. Bàn tay cầm phấn học chữ anh Quyết dạy, bàn tay cầm đá tự đập vào đầu phạt tội học hay quên chữ, bàn tay đặt lên bụng trả lời “ở đây này”khi bị giặc tra hỏi cộng sản đâu, thoát ngục trở về gặp Mai ở đầu làng, Mai cầm lấy hai bàn tay Tnú vừa “xấu hổ, thương yêu của một con gái đã lớn” … Bàn tay Tnú bị giặc – thằng Dục, quấn giẻ tẩm nhựa xà nu đốt cháy. Mười ngọn đuốc ngón tay Tnú đã châm bùng lên ngọn lửa nổi dậy của làng Xôman. Bàn tay Tnú đã được dập lửa, nhưng mỗi ngón chỉ còn hai đốt. Bàn tay cháy cụt ngón của Tnú như chứng tích đầy căm hận mà Tnú mang suốt đời. Nhưng bàn tay cụt ngón ấy vẫn cầm súng được và Tnú đã lên đường, đi tìm những thằng Dục để đòi trả mối thù. Với Tnú, thằng giặc nào cũng là thằng Dục. Cụ Mết biểu tượng cho sức mạnh tinh thần và vật chất có tính truyền thống và cội nguồn của miền núi Tây Nguyên và của các dân tộc Tây Nguyên. Cụ Mết là đại diện của quần chúng, là cái gạch nối giũa Đảng và đồng bào dân tộc. Hình ảnh cụ Mết chỉ huy trai làng nổi dậy cứu Tnú, tiêu diệt bọn giặc ở cuối truyện thể hiện sự vùng dậy của Tây Nguyên và của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Dít xuất hiện không nhiều trong tác phẩm, nhưng lại là hiện thân và sự nối tiếp của Mai. Ơ Dít nổi bật lên là một tình cảm trong sáng, sâu sắc nhưng lặng lẽ và kín đáo. Tính nguyên tắc có phần cứng nhắc của một cán bộ chính trị ở tuổi mới lớn ta có thể cảm thông. Nhưng đằng sau thái độ lạnh lùng, ngôn từ có vẻ gay gắt là những tình cảm thầm kín ẩn trong cái nhìn rất sâu đối với Tnú bằng “đôi mắt mở to, bình thản, trong suốt”. Bé Heng xuất hiện ở phần đầu truyện, đóng vai trò người hướng dẫn Tnú trở về làng sau ba năm đi lực lượng. Bé Heng là tượng trưng cho lứa cây xà nu mới lớn, mang trong mình bao nhựa sống, hứa hẹn sẽ trở thành cây xà nu mạnh mẽ và bất diệt. Một hình tượng nổi bật và xuyên suốt tác phẩm này là cây xà nu. Có thể nói hình tượng cây xà nu là môtip chủ đạo của tác phẩm. Chúng ta hiểu vì sao tác phẩm có tên Rừng xà nu. Vai trò “chủ âm” của hình tượng xà nu được xác nhận qua lời kể của tác giả về việc viết tác phẩm này: “Bắt đầu đến với ngòi bút, gần như không hề tính trước, là một khu rừng xà nu, những cây xà nu …. Ay là một loại cây hùng vĩ và cao thượng, man dại và trong sạch, mỗi cây cao vút, vạm vỡ, ứ nhựa, tán lá vừa thanh nhã, vừa rắn rỏi …” . Mở đầu và kết thúc truyện đều là cảnh rừng xà nu “đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp chân trời”. Câu này được nhắc lại ở đoạn kết, chỉ đổi chữ “đồi” thành chữ “rừng”, như một điệp khúc láy lại để nhấn mạnh, gây ấn tượng đậm nét trong phần kết thúc truyện. Nhưng cây xà nu còn hiện diện trong suốt câu chuyện Tnú và làng Xôman của anh. Xà nu có mặt trong đời sống hàng ngày như đã tự từ ngàn đời nay của dân làng : ngọn lửa xà nu trong bếp mỗi nhà, trong trong nhà ưng tập họp dân làng, ngọn đuốc xà nu cháy sáng soi những đoạn rừng đêm, khói xà nu làm tấm bảng đen cho anh Quyết dạy Tnú và Mai học chữ … Xà nu cũng tham dự vào những sự kiện quan trọng của cuộc sống làng Xôman : ngọn đuốc xà nu cháy sáng trong tay cụ Mết và tất cả dân làng vào rừng lấy giáo mác dụ rựa đã dấu kĩ chuẩn bị nổi dậy, đêm đêm làng Xôman thức mài vũ khí, giặc đốt hai bàn tay Tnú bằng giẻ tẩm nhựa xà nu và cũng ngọn lửa từ các đuốc xà nu soi sáng rực cái đêm cả làng nổi dậy … Những đoạn mô tả rừng xà nu ở đầu và kết thúc tác phẩm đầy chất thơ hùng tráng. Đồng thời sự miêu tả về cây luôn luôn đặt trong sự chiếu ứng với người, gợi ra những biểu tượng về đời sống, số phận và phẩm cách con người – dân làng Xôman; ngược lại, nhiều chỗ miêu tả con người cũng dùng các so sánh với cây xà nu. Thủ pháp ấy tạo nên sự hoà nhập, tương ứng giữa con người và thiên nhiên trong một chất thơ hào hùng, tráng lệ. Rừng xà nu cũng như dân làng Xôman, nhân dân Tây Nguyên chịu nhiều đau thương bởi sự tàn phá của giặc : “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương”. Nhưng xà nu có sức sống mãnh liệt : “Ít có loại cây ham ánh sáng mặt trời đến thế, nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng … Ít có loại cây sinh sôi nảy nở khoẻ như vậy. Cạnh một cây mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Cây xà nu ham ánh sáng và khí trời, bền bỉ sự sống cũng như dân làng Xôman yêu tự do, khao khát cuộc sống tự do, đấu tranh vì tự do tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác. Anh Quyết hi sinh thì đã có Tnú, Mai ngã xuống giữa tuỗi tràn đầy nhựa sống thì Dít lớn lên rất nhanh đến không ngờ, trở thành bí thư chi bộ, chính trị viên xã đội. Bé Heng thế hệ tiếp theo cũng dang lớn lên. Tính sử thi còn thể hiện ở cách trần thuật. Câu chuyện được kể như một hồi tưởng trong cái đêm Tnú trở về thăm làng, qua lời kể của cụ Mết và những hồi ức của Tnú. Chuyện được kể bên bếp lửa, qua lời một già làng kể cho dân làng nghe, cách kể trang trọng như muốn truyền cho các thế hệ con cháu những trang lịch sử của cả cộng đồng : “Người già chưa quên, người chết quên rồi thì để cái nhớ lại cho người sống … Người Strá ai có cái tai, ai có cái bụng thương núi thương nước hãy lắng mà nghe mà nhớ … Sau này tau chết rồi, chúng mày phải kể lại cho con cháu nghe”. Cách trần thuật như vậy gợi nhớ tới lối kể “khan” ở các dân tộc thiểu số Tây Nguyên (trường sa Đăm San, Xing Nhã …). Câu chuyện của Tnú mà cụ Mết kể cho dân làng nghe là câu chuyện của thời hiện đại, nhưng vẫn được kể như là câu chuyện lịch sử, với giọng điệu và ngôn ngữ trang trọng của sử thi, với thái độ chiêm ngưỡng qua một “khoảng cách sử thi” đối với những con người và sự việc được kể lại. So với Đất nước đứng lên thì Rừng xà nu viết sau 10 năm. Giữa hai tác phẩm dù có khoảng cách thời gian, khác biệt ở thể loại, nhưng thống nhất ở cảm hứng thẩm mĩ :chất sử thi hùng tráng về đất và người Tây Nguyên. Rừng xà nu có sức khái quát, chắt lọc, đúc kết chặt chẽ của ngòi bút đã làm chủ vốn sống và xúc cảm của mình. Tác phẩm tiêu biểu cho thành tựu Văn học Việt Nam thời kì chống Mĩ. NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH (trích) NGUYỄN THI Luyện tập 1/ Tình huống và chủ đề 2/ Phân tích hình tượng nhân vật Việt 3/ Phân tích vẻ đẹp con người Việt Nam thể hiện trong tác phẩm. 4/ Phân tích vẻ đẹp sử thi của tác phẩm. Gợi ý ĐỀ 1 : - Tình huống truyện : Đây là câu chuyện của gia đình anh giải phóng quân tên Việt. Nhân vật này rơi vào một tình huống đặc biệt: trong một trận đánh, bị thương nặng phải nằm lại giữa chiến trường, anh nhiều lần ngất đi rồi tỉnh lại. Truyện được kể theo dòng nội tâm của nhân vật. Đoạn trích được trần thuật theo phương thức người trần thuật tự giấu mình, nhưng cách nhìn và lời kể theo giọng điệu của nhân vật. - Chủ đề : Đề cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Sự gắn bó sâu nặng giữa tình cảm gia đình với tình yêu nước, giữa truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc đã làm nên sức mạnh tinh thần to lớn của con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Truyện của một gia đình dài như dòng sông còn nối tiếp. “Trăm dòng sông đổ vào một biển, con sông của gia đình ta cũng chảy về biển, mà biển thì rộng lắm..., rộng bằng cả nước ta và ra ngoài cả nước ta...”. Truyện kể về một dòng sông nhưng nhà văn muốn ta nghĩ đến biển cả. Truyện về một gia đình nhưng ta lại cảm nhận được cả một Tổ quốc đang hào hùng chiến đấu bằng sức mạnh sinh ra từ những đau thương. ĐỀ 2 : a. Giới thiệu tác giả, tác phẩm b. Phân tích b.1 Nghệ thuật khắc hoạ nhân vật : Tác giả đã để cho Việt tự kể chuyện về mình bằng một ngôn ngữ, giọng điệu riêng và qua đó nhân vật hiện lên cụ thể, sinh động. b.2 Tính cách nhân vật - Việt là một cậu con trai vô tư, tính tình “trẻ con”, ngây thơ, hiếu động. - Căm thù giặc sâu sắc, khao khát chiến đấu giết giặc, có tinh thần dũng cảm. - Giàu tình nghĩa với gia đình, rất mực thuỷ chung với quê hương và cách mạng. c. Đánh giá chung về nhân vật ĐỀ 3 ; BÀI VĂN THAM KHẢO Những đứa con trong gia đình của nhà văn Nguyễn Thi gắn liền với không khí của những ngày kháng chiến chống đế quốc Mỹ quyết liệt và hào hùng. Câu chuyện kể về những đứa con trưởng thành trong gia đình lớn cách mạng, hun đúc những vẻ đẹp truyền thống của quê hương. Mỗi một nhân vật trong tác phẩm đã thể hiện một cách đặc sắc phẩm chất, cá tính của con người Nam Bộ trung dũng kiên cường, gắn bó với gia đình, quê hương, trung thành với cách mạng. Tác phẩm được xây dựng theo kết cấu truyện ngắn hiện đại: là mạch hồi ức của anh tân binh Việt, đan xen giữa quá khứ và hiện tại, nối kết một cách tự nhiên tình cảm gia đình – quê hương – cách mạng. Không gian giàu kịch tính và thời gian nghệ thuật của tác phẩm tạo nên sự đan cái của những câu chuyện kể không theo trình tự tuyến tính mà có sự sắp xếp hợp lý, tạo ra sự liên tưởng nhiều chiều. Xoay quanh nhân vật trung tâm là hai chị em Chiến và Việt còn là hệ thống hình tượng nhân vật gắn bó với nhau trong tình ruột thịt, có những nét bản chất thống nhất như chảy ra trong cùng huyết thống, nhưng mỗi người một vẻ không ai giống ai. Chính những nét tiêu biểu đó đã góp phần tái hiện thành công phẩm chất đáng quí của những con người quê hương Nam bộ giàu lòng yêu nước, căm thù giặc, giúp người đọc hiểu rõ hơn về một thời đại hào hùng và giá trị nhân bản của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Những nhân vật trong gia đình được giới thiệu gắn với hình ảnh thân thương của quê hương và những kỷ niệm cụ thể thời thơ ấu dữ dội của anh tân binh Việt. Chiến đấu giữa bầy giặc Mỹ, bị thương, lạc đồng đội, người chiến sĩ ấy giữa cơn mê tỉnh chập chờn đã nhớ về những hình ảnh thân thương nhất từ thời ấu thơ. Dường như đó chính là nguồn sức mạnh giúp anh vượt qua cái chết tìm về sự sống, tìm về đồng đội. Những con người trong gia đình Việt gắn với hồi ức thiêng liêng và cảm động làm sống dậy cả một quá khứ yêu thương và căm thù: chị Chiến, má, chú Năm. Hiểu theo một nghĩa rộng, đó cũng là những đứa con trong gia đình lớn: cách mạng. Tất cả những con người ấy cùng giống nhau ở lòng căm thù giặc sâu sắc, vì những tội ác mà chúng đã gây ra với người thân trong gia đình. Gắn bó với mảnh đất quê hương, những con người ấy còn giàu tình nghĩa, trung thành với cách mạng bởi cách mạng đã đem lại cho họ sự đổi đời thật sự. Dường như anh chiến sĩ Việt đã thừa hưởng được từ thế hệ đi trước, chú Năm và má, hành động dũng cảm gan góc và lòng say mê khao khát được đánh giặc. Trong các nhân vật được tái hiện, chú Năm và má được khắc hoạ với những nét riêng độc đáo. Chú Năm thể hiện đầy đủ bản tính tự nhiên của người nông dân Nam bộ hiền lành chất phác, giàu cảm xúc mơ mộng nội tâm. Một người từng trải qua đắng cay của cuộc đời làm mướn trước cách mạng, để thành bản tính ít nói. Đau thương hằn sâu từ cuộc đời gian khổ và với tư cách chứng nhân của tội ác của thằng Tây, thằng Mỹ và bọn tay sai phải chăng đã làm nên nét đa cảm trong gương mặt với đôi mắt lúc nào cũng mở to, mọng nước.Chất Nam bộ rặt trong con người ông thể hiện qua việc hay kể sự tích cho con cháu, và kết thúc câu chuyện thể nào cũng hò lên mấy câu. Néy đặc biệt độc đáo ở người đàn ông này là có sổ ghi chép chuyện gia đình. Cuốn sổ ghi đầy đủ những chuyện thỏn mỏn của nhiều thế hệ, như minh chứng cho tấm lòng thuần hậu của ông. Đoócòn là những trang ghi chép tội ác của kẻ thù gây ra, những chiến công của từng thành viên, như một biên niên sử. Bản thân ông cũng chính là một trang sử sống, khi gửi gắm, nhắn nhủ cho hai chị em Chiến và Việt: “chuyện gia đình ta nó cũng dài như sông, để rồi chú sẽ chia cho mỗi người một khúc mà ghi vào đó…”. Nhân vật đã thể hiện vẻ đẹp của tấm lòng sắt son, ý thức trách nhiệm của thế hệ đi trước. Má của Chiến và Việt là hội tụ phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Nam bộ anh hùng trong kháng chiến. Những ấn tượng tác giả để lại đậm nét trong người đọc về nhân vật này là về tính gan góc từ khi còn là con gái. Người đàn bà hết lòng thương yêu chồng con ấy đã phải trải qua thời khắc dữ dội khi kẻ thù chặt đầu chồng, nhưng má đã vượt lên đau thương để nuôi dạy đàn con khôn lớn trưởng thành. Hình ảnh người mẹ ấy đối mặt với họng súng quân thù như gà mẹ xoè cánh che chở đàn con, khiến kẻ thù phải run sợ trước đôi mắt của người vượt sông vuợt biển. Nuôi con và cả con của đồng chí, má là hiện thân của vẻ đẹp gan góc được tôi luyện trong đấu tranh, với đức hy sinh vô bờ bến lặng thầm, tảo tần lam lũ, đau thương chôn kín trong giọt nước mắt lặng lẽ kín đáo. Trong tâm hồn người phụ nữ ấy là tình yêu lớn lao, ý chí bất khuất kiên cường và cả tinh thần dám hy sinh, đổi mạng sống vì cách mạng. Hai chị em Chiến và Việt đã được thừa hưởng tất cả những vẻ đẹp của thế hệ đi trước, tính cách được tạo nên từ truyền thống gia đình, từ hoàn cảnh đặc trưng: thương cha má, cùng chung lo toan công việc cách mạng, giàu tình nghĩa với quê hương. Không phải ngẫu nhiên hai chị em đã cùng xung phong tòng quân một ngày, để trả mối thù cha bị chặt đầu, má bị trái cà nông quân thù sát hại. Trong hoàn cảnh khốc liệt của cuộc chiến đấu, biết căm thù cũng là một phẩm chất cần thiết, bởi căm thù giặc tàn phá quê hương, sát hại người thân cũng là một biểu hiện sâu sắc của tình yêu với quê hương, gia đình! Bởi vậy đêm tòng quân không chỉ có hai chị em tranh nhau ghi tên mà thanh niên trong xã ghi tên tòng quân cũng rất đông. Hành động của hai chị em có sự đồng tình của chú Năm, như một điểm nhấn hành động này hoàn toàn không phải là tự phát mà gắn với ý thức giác ngộ của tuổi trẻ trên quê hương đau thương và anh dũng. Kí ức của Việt gắn với hình ảnh của chị Chiến, với kỷ niệm tuổi thơ trong trẻo của hai chị em. Người con gái ấy có cá tính riêng, có những nét giống má, gan góc, chăm chỉ, đảm đang tháo vát. Hai chị em kề tuổi nên có lúc còn rất trẻ con, nhưng bao giờ trong những lần cãi vã thì chị cũng nhường em. Đến khi tham gia công việc cách mạng, Chiến tỏ ra chín chắn hơn Việt. Những mất mát đau thương đã khiến cô gái ấy sớm trưởng thành, nhưng không hề làm chai sạn tâm hồn giàu nữ tính. Lúc nào Chiến cũng có cái gương nhỏ, như những người con gái mới lớn nào cũng thích làm duyên. Câu chuyện của hai chị em trước đêm tòng quân đã chứng tỏ khả năng quán xuyến, thay thế vai trò của mẹ để chăm em, khiến cho bản thân cậu em thân thiết phải ngạc nhiên vì chứng kiến một chị Chiến giống in như má, răm rắp nghe theo sự cắt đặt của chị. Một trong những tình tiết truyện tạo được xúc động mạnh cho người đọc là hình ảnh hai chị em trước đêm tòng quân khiêng bàn thờ má qua gửi chú Năm. Hai chị em đã làm cho người chú phải ngạc nhiên vì sự trưởng thành trước tuổi. Đó là chi tiết cho thấy những đứa con trong gia đình cách mạng này đã ý thức rõ chỉ có lên đường diệt giặc mới trả được mối thù giặc Mỹ đè nặng hai vai. Việc nhà việc nước vẹn toàn, lời động viên của chú Năm dành cho hai chị em đã thể hiện niềm tin tưởng vào thế hệ trẻ thời chống Mỹ. Xuyên suốt mạch truyện là dòng hồi ức của Việt, nhân vật trung tâm của tác phẩm. Người chiến sĩ ấy vốn là đứa trẻ gan dạ từng chứng kiến cảnh kẻ thù quăng đầu cha mà xông tới nhằm thằng liệng đầu mà đá. Được dìu dắt từ ấu thơ, Việt cũng đã biết làm cảnh giới, chiếc ná cao su thành vật báo hiệu khi có động. Bản tính hồn nhiên của một cậu bé mới lớn thể hiện ra ở sự hiếu thắng, lúc nào cũng giành phần hơn, nhưng từ sâu thẳm là tình cảm yêu thương những người ruột thịt, tự hào với truyền thống quê hương. Những lần ngất đi tỉnh lại của Việt giữa bãi chiến trường ngổn ngang xác giặc đã giúp anh có thêm sức mạnh tình thương vượt lên cái chết để trở về đội ngũ. Nguyễn Thi đã thành công khi không miêu tả vào những chiến công của anh chiến sĩ mà đã chỉ ra cho người đọc vẻ đẹp nhân văn trong tâm hồn người cầm súng. Vẻ đẹp ấy là hội tụ của ý chí, quyết tâm và trên hết là tình thương yêu sự gắn gó với người thân và sau này là tình cảm chan hoà thân ái giữa cậu Tư với đồng chí đồng đội như trong một nhà. Tác phẩm thành công khi đã đem lại cho người đọc sự hình dung về mảnh đất Nam Bộ anh dũng và đau thương trong những ngày kháng chiến chống Mỹ. Đạc biệt, bằng sự am hiểu sâu sắc bản chất của người dân Nam Bộ yêu nước, tác giả đã dựng nên những con người vừa bình thường giản dị nhưng lại có vẻ đẹp, tầm vóc phi thường của con người thời đại chống Mỹ cứu nước. Giọng kể chuyện giản dị, xây dựng đối thoại tự nhiên và nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật đặc sắc đã để lại ấn tượng khó quên về những đứa con trong gia đình cách mạng. Đồng thời còn phát hiện sâu sắc về sự trưởng thành của thế hệ trẻ Việt Nam trong chiến đấu. Vẻ đẹp ấy kết tinh chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, sức mạnh làm nên chiến thắng của nhân dân Việt Nam, một phẩm chất cao quí còn để lại những tấm gương cho thế hệ sau noi theo. ĐỀ 4 : a. Giới thiệu tác giả, tác phẩm b. Phân tích b.1 Giải thích ngắn gọn biểu hiện khuynh hướng sử thi trong tác phẩm b.2 Phân tích đoạn trích để chứng minh - Về đề tài, chủ đề - Về xây dựng nhân vật - Về nghệ thuật trần thuật c. Đánh giá chung CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA NGUYỄN MINH CHÂU Luyện tập 1/ Ý nghĩa tựa đề 2/ Trong đoạn cuối truyện, nhân vật nghệ sĩ Phùng mỗi khi ngắm kĩ và nhìn lâu hơn tấm ảnh do mình chụp thường thấy hiện lên những hình ảnh nào? Những hình ảnh đó nói lên điều gì? 3/ Phân tích hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài. 3/ Phân tích tình huống truyện. Gợi ý ĐỀ 1 : - Chiếc thuyền vừa là chất liệu nghệ thuật vừa ẩn dụ cho cuộc đời. Ngoài xa chỉ về khoảng cách cách, có ý nghĩa về cách nhìn. - Tựa đề thể hiện chủ đề tác phẩm ; Không nhìn đời và người đơn giản, sơ lược. Phải nhìn cuộc sống một cách đa diện, nhiều chiều. Đồng thời còn có ý nghĩa về mối quan hệ không thể tách rời giữa nghệ thuật và cuộc đời. ĐỀ 3 : a. Giới thiệu về tác giả, tác phẩm b. Phân tích b.1 Nghệ thuật khắc hoạ nhân vật theo lối tương phản giữa bề ngoài với bên trong, giữa ngoại hình với tâm hồn. b.2 - Người đàn bà hàng chài lại có ngoại hình xấu. Cuộc sống lam lũ, vất vả, lo toan khiến những nét thô kệch càng trở nên đậm nét. - Vẻ đẹp người đàn bà hàng chài thể hiện trên ba mối quan hệ: + Với chồng : Khi bị chồng đánh, chị nhẫn nhục chịu đựng, không kêu rên, không chống trả, nhưng cũng không chạy trốn. Chị có cách nhìn đầy cảm thông về nguyên nhân khiến người chồng trở thành kẻ vũ phu. + Với con : Chị là người rất tự trọng, sẵn sàng hi sinh cho các con. + Ở toà án huyện : Chị vượt qua cái lúng túng, sợ sệt, thể hiện sự sâu sắc thấu hiểu lẽ đời. c. Đánh giá chung - Nhân vật người đàn bà là hiện thân cho những mảng đời tối tăm cơ cực vẫn còn tồn tại trong cuộc sống quanh ta: lam lũ, cam chịu, nhẫn nhịn. - Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng của người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh. - Nhân vật người đàn bà giúp ta thấu hiểu: không thể dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn nhận sự việc, hiện tượng của cuộc sống. ĐỀ 4 : a. Giới thiệu về tác giả và tác phẩm - Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam thời chống Mĩ, cũng là người mở đường xuất sắc cho công cuộc đổi mới văn học từ sau năm 1975. Ở giai đoạn trước, ngòi bút của ông theo khuynh hướng sử thi, thời kì sau chuyển sang cảm hứng thế sự với những vấn đề về đạo đức và triết lí nhân sinh. - Chiếc thuyền ngoài xa là truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Minh Châu trong thời kì sau. Tác phẩm kể về chuyến đi thực tế của một nghệ sĩ nhiếp ảnh, qua đó thể hiện cách nhìn sâu sắc của tác giả về cuộc sống và sự băn khoăn về thân phận con người. 2/ Phân tích tình huống truyện a. Giới thiệu tình huống truyện: Đó là tình huống nhận thức trước một hiện tượng đầy nghịch lí của cuộc sống. Nghệ sĩ Phùng đến vùng biển miền Trung chụp ảnh làm lịch và tiếp cận được cảnh chiếc thuyền ngoài xa trong sương sớm hết sức thơ mộng. Ngay sau đó, tại bãi biển, anh chứng kiến nghịch cảnh của cuộc sống - đó là cảnh bạo hành trong gia đình hàng chài sống trên chính chiếc thuyền kia. b. Khía cạnh nghịch lí của tình huống: - Cảnh thiên nhiên toàn bích nhưng cảnh đời thì đen tối; người có thiện chí giúp đỡ nạn nhân lại bị nạn nhân từ chối quyết liệt... - Người vợ tốt lại bị chồng ngược đãi; vợ bị bạo hành nhưng vẫn cam chịu, quyết không bỏ chồng, lại còn bênh vực kẻ vũ phu đó; người chồng vẫn gắn bó nhưng vẫn cứ hành hạ vợ; con đánh bố... c. Khía cạnh nhận thức của tình huống: Thể hiện qua những phát hiện về đời sống của hai nhân vật Phùng và Đẩu. - Nhận thứ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTài liệu ôn thi TN 12.doc
Tài liệu liên quan