MỤC LỤC 
CÁC QUÁ TRÌNH BIẾN ĐỔI CHẤT LƯỢNG NƯỚC. 1 
NHIỆT ĐỘ. 1 
QUANG HỢP VÀ HÔ HẤP . 3 
VẬT CHẤT TRONG NƯỚC. 6 
Chất hữu cơ. 9 
NỘNG ĐỘMUỐI VÀ TỔNG CHẤT RẮN HÒA TAN. 9 
TỔNG ĐỘKIỀM VÀ TỔNG ĐỘCỨNG. 10 
ĐỘA-XÍT. 11 
TIÊU HAO OXY SINH HÓA HỌC VÀ HÓA HỌC. 12 
ĐỘTRONG. 13 
CHLOROPHYLL-A VÀ NĂNG SUẤT SINH HỌC SƠCẤP . 13 
CHẤT RẮN LƠLỬNG, ĐỘ ĐỤC VÀ MÀU NƯỚC. 14 
pH . 15 
OXY HÒA TAN. 17 
Khảnăng hòa tan . 17 
Ảnh hưởng lên đối tượng nuôi. 20 
Phiêu sinh vật và oxy hòa tan . 21 
Trầm tích đáy và oxy hòa tan . 26 
Thức ăn và oxy hòa tan. 26 
NITƠ. 27 
Hấp thu của thực vật. 27 
Phân hủy nitơtrong vật chất hữu cơ. 28 
Nitrate hóa . 28 
Phản nitrate hóa . 29 
Sựbay hơi của ammonia. 29 
Tóm tắt. 30 
PHỐT-PHO. 30 
Phân hủy phốt-pho trong ao. 30 
Phản ứng với bùn . 30 
Tóm tắt. 31 
ĐẤT AO . 32 
KẾT CẤU CỦA ĐẤT . 32 
SỰTRAO ĐỔI CATION. 33 
ĐỘPHÈN (ĐỘAXÍT). 33 
CHẤT HỮU CƠVÀ QUÁ TRÌNH OXY HÓA-KHỬ. 35 
ĐẤT AO VÀ NĂNG SUẤT NUÔI. 37 
QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG NƯỚC. 38 
BÓN PHÂN. 38
Phân hóa học. 38 
Phân hữu cơ. 41 
Cải tạo ao . 41 
BÓN VÔI. 41 
CÁC CHẤT ĐỘC. 43 
Dioxyt carbon . 43 
Ammonia . 43 
Nitrite. 45 
H2S. 46 
SỤC KHÍ CƠHỌC. 47 
iii
SỰLUÂN CHUYỂN CỦA NƯỚC. 50 
XỬLÝ KHÁC. 51 
Chếphẩm vi sinh . 52 
Thuốc tím (permanganat kali) . 52 
Chất kết tủa. 52 
Khửtrùng. 53 
Xửlý nền đáy ao. 53 
KIỂM SOÁT THỰC VẬT THỦY SINH. 54 
KIM LOẠI NẶNG . 55 
THUỐC TRỪSÂU . 56 
TÍNH TOÁN LIỀU XỬLÝ . 56 
PHÂN TÍCH MÔI TRƯỜNG NƯỚC. 57 
THU MẪU NƯỚC. 58 
CÁC LOẠI KIT PHÂN TÍCH. 58 
ĐỘTRONG. 59 
TÀI LIỆU THAM KHẢO . 60
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 65 trang
65 trang | 
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3899 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tài liệu Quản lý chất lượng nước ao nuôi thủy sản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giàu hữu, có thể có nhu cầu oxy lớn. Có rất ít nghiên 
cứu về tỉ lệ tiêu thụ oxy hòa tan bởi đất ao, nhưng có bằng chứng rằng hô hấp bởi 
quần thể sinh vật đáy có thể lấy đi 2-3 mg/L oxy hòa tan trong nước ao trong 24 
giờ. 
Thức ăn và oxy hòa tan 
Sự phong phú của thực vật phù du có thể được khống chế bởi cung cấp dinh dưỡng 
và hàm lượng oxy hòa tan được điều hòa trong phạm vi lớn bởi thực vật phù du. 
Thức ăn cung cấp cho sinh vật nuôi gây ra ô nhiễm nước ao bởi chất thải hữu cơ và 
vô cơ. Thức ăn thừa cũng phân hủy giải phóng dinh dưỡng vào trong nước. Vì vậy, 
sự phong phú của thực vật phù du và trở ngại do oxy hòa tan thấp tăng theo sự gia 
tăng tỉ lệ thức ăn. (Hình 12). Dẫn liệu này cho thấy rằng tỉ lệ cho ăn 40-50 
kg/ha/ngày sẽ gây ra oxy hòa tan thấp hơn mức cho phép. Tỉ lệ cho ăn cao có thể 
được sử dụng trong ao nuôi nếu sục khí được áp dụng. Cá rô phi thì chịu đựng oxy 
thấp hơn các các loài cá khác và tỉ lệ cho ăn hơi cao có thể không có sục khí. 
Tỉ lệ chuyển hóa thức ăn được xác định là lượng thức ăn sử dụng chia cho sản 
lượng (khối lượng thu hoạch trừ cho khối lượng thả ban đầu). Thí dụ, giả định răng 
1 ha có sản lượng là 5.000 kg cá và 9.000 kg thức ăn được sử dụng. tỉ lệ chuyển hóa 
thức ăn là: 
 9.000 kg thức ăn/ 5.000 kg cá = 1.80 
Tỉ lệ chuyển hóa thức ăn thấp cho biết hiệu quả lớn hơn so với tỉ lệ chuyển hóa thức 
ăn cao. Quản lý tốt ao nuôi, tỉ lệ chuyển hóa thức ăn từ 1,5-2 có thể đạt được với 
hầu hết loài cá và giáp xác. Thức ăn nuôi thương phẩn thường chứa độ ẩm không 
quá 5-10%, nhưng hầu hết động vật thủy sinh thì có 75% nước. Tỉ lệ chuyển hóa 
thức ăn vật chất khô thì lớn hơn tỉ lệ chuyển hóa thức ăn tính bằng cách chia khối 
lượng tươi cho khối lượng thức ăn. Đối với cá nheo, 1.800 kg thức ăn có thể sản 
xuất ra 1.000 kg cá tươi. Thức ăn có khoảng 92% vật chất khô, do đó vật chất khô 
cung cấp là 1.656 kg. Cá thí có khoảng 25% vật chất khô, do đó chúng chứa khoảng 
250 kg vật chất khô. Tỉ lệ chuyển hóa thức ăn vật chất khô là 6,62. Vì vậy, 5,62 kg 
khối lượng khô tương đương của chất thải và thức ăn thừa trong ao trong suốt quá 
trình sản xuất ra 1.000 kh cá tươi. Vật chất khô này có chứa dinh dưỡng được giải 
 27 
phóng ra nước ao bởi quá trình hô hấp và bài tiết và bởi quá trình phân hủy thức ăn 
thừa và phân cá. Dinh dưỡng này làm tăng năng suất sinh học của thực vật phù du 
và tạo thành vật chất hữu cơ trong hệ sinh thái ao bởi thực vật. Vì vậy, khi tỉ lệ cho 
ăn tăng, chất thải và dinh dưỡng nạp vào ao tăng. Nói cách khác, ao trở nên giàu 
dinh dưỡng hoặc nhiễm bẩn do tỉ lệ cho ăn tăng. Nếu tỉ lệ cho ăn quá cao, cá sẽ bị 
sốc do chất lượng nước quá xấu. Trở ngại về chất lượng nước đầu tiên xảy ra 
thường xuyên là hàm lượng oxy thấp vào sáng sớm. Trở ngại này có thể được giải 
quyết bằng sục khí, nhưng nếu tỉ lệ cho ăn đủ cao, hàm lượng ammonia có thể trở 
nên đủ cao gây độc. Mặc dù thí dụ là là đối với cá nheo, nguyên lý có thể áp dụng 
tốt cho ao nuôi các loài thủy sản khác. 
Một ảnh hưởng của cho ăn quá mức lên ao nuôi cá và giáp xác là làm tăng tỉ lệ 
chuyển hóa thức ăn. Bởi vì tỉ lệ cho ăn tăng, hàm lượng oxy hòa tan vào ban đêm 
giảm. Hàm lượng oxy hòa tan thấp kéo dài có ảnh hưởng xấu đến bắt mồi và trao 
đổi chất của cá và giáp xác, giá trị chuyển hóa thức ăn dường như tăng mạnh nếu tỉ 
lệ cho ăn tăng đến mức làm hàm lượng oxy hòa tan giảm thấp hơn 2-3 mg/L vào 
ban đêm. 
NITƠ 
Chu trình nitơ được trình bày ở Hình 13. Nitơ có thể đi vào ao nuôi từ không khí 
dạng nitơ phân tử (N2) , và một số phân t73 nitơ có thể được cố định trong chất hữu 
cơ nhờ tảo lam và vi khuẩn. Nước mưa rơi vào ao có chứa nitrate và vài dạng khác 
nhau của nitơ có thể đi vào ao qua cấp nước. Nitơ vô cơ có thể được đưa vào trong 
phân bón và nitơ hữu cơ trong thức ăn và phân hữu cơ. Trong ao, nitơ trải qua sự 
biến đổi từ hoạt động sinh học. Các hoạt động này sẽ được thảo luận sau. 
Hấp thu của thực vật 
Tất cả thực vật có thể dùng nitrate và ammonium, và như đã trinh bày ở trên, tảo 
lam có thể cố định nitơ. Thực vật phù du có thể hấp thu một lượng lớn ammonium 
và chúng là nhân tố chi phối hạn chế hàm lượng ammonia trong nước ao. Trong 
thực vật nitơ bị khử thành ammonia và kết hợp với carbon hữu cơ tảo thành a-xit 
amin. A-xít amin kế đến liên kết với nhau tao thành protein. Thực vật có thể được 
tiêu thụ bởi động vật và chúng có thể chết đi và trở thành xác hữu cơ. 
 28 
Hình 13: Chu trình nitơ trong ao cá 
Phân hủy nitơ trong vật chất hữu cơ 
Một số vật chất hữu cơ chết (xác hữu cơ hoặc hạt vật chất nhỏ hơn trong đất và 
trong nướ) được tiêu thụ trực tiếp bởi động vật. Cuối cùng, hầu hết chất hữu cơ chết 
trở thành chất nền (thức ăn) cho vi sinh vật (vi khuẩn, khuẩn tia, nấm). Nhân tố ảnh 
hưởng đến tốc độ phân hủy hữu cơ là nhiệt độ, pH, nguồn oxy và bản chất của chất 
hữu cơ. Vi sinh vật phân hủy hữu cơ thí hiện diện trong tất cả ao và mật độ của 
chúng tăng khi vật chất hữu cơ tăng. Sự phân hủy vi sinh tăng cùng với sự tăng 
nhiệt độ đến 40oC và trong khoảng nhiệt độ này, nhiệt độ tăng 10 oC sẽ làm tốc độ 
phân hủy tăng gấp đôi. Sự phân hủy vật chất hữu cơ diễn ra nhanh ở pH 7-8. Vì 
vậy, trong ao a-xít dường như vật chất hữu cơ tích tụ trừ khi được bón vôi để cải 
thiện pH. Vật chất hữu cơ có hàm lượng nitơ cao so với hàm lượng carbon của nó 
(tỉ lệ C/N thấp) sẽ phân hủy nhanh hơn vật chất có tỉ lệ C/N cao. Ngoài ra, nhiều 
nitơ sẽ được giải phóng ra môi trường dạng ammonia nhờ vi sinh vật phân hủy khi 
chất nền có tỉ lệ C/N thấp. Nếu vật chất hữu cơ có nitơ thấp, sẽ không có đủ nitơ 
trong nó để hoàn thành quá trình phân hủy bởi vi sinh vật. Trường hợp này, vi 
khuẩn và vi sinh vật khác phải hấp thụ nitrate hoặc ammonia từ trong nước để sử 
dụng trong quá trình phân hủy vật chất hữu cơ. Loại bỏ nitơ trong môi trường bởi vi 
sinh vật làm thiếu hụt nitơ trong chất hữu cơ được gọi là sự hấp thụ nitơ. 
Nitrate hóa 
Ammonia giải phóng vào nước ao bởi quá trình phân hủy có thể được sử dụng bởi 
thực vật hoặc nó bị nitrate hóa thành nitrate bởi vi khuẩn hóa tự dưỡng. Sự oxy hóa 
NH3 + H
+ ⇔ NH4+ NO2- 
NO3
- 
N trong không khí 
N trong thực vật N trong động vật 
 29 
ammonium thành nitrite bởi vi khuẩn thuộc giống Nitrosomonas là bước đầu của 
quá trình nitrate hóa: 
 NH4+ + 1 ½ O2 → NO2- + 2H+ + H2O 
Bước thứ 2, nitrite bị oxy hóa bởi vi khuẩn giống Nitrobacter: 
 NO2- + 1½ O2 → NO3- 
Vi khuẩn này dùng năng lượng giải phóng từ sự oxy hóa ammonium thành nitrite để 
khử CO2 thành carbon hữu cơ. Nói cách khác, vi sinh vật này có thể sản xuất chất 
hữu cơ không bằng con đường quang hợp. Dĩ nhiên, lượng vật chất hữu cơ sản xuất 
bởi quá trình nitrate hóa trong ao thì nhỏ so với quá trình quang hợp. Quá trình 
nitrate hóa thì quan trọng trong việc làm giảm hàm lượng ammonia trong ao và điền 
này có lợi cho nuôi thủy sản bởi vì ammonia có khả năng gây độc. Tuy nhiên, quá 
trình nitrate hóa cũng có ảnh hưởng bất lợi đến chất lượng nước. Nó là một nguồn 
a-xít trong ao bởi vì ion H+ được giải phóng và nó sử dụng oxy vì nó cần oxy để 
oxy hóa ammonia 
Phản nitrate hóa 
Trong điều kiện thiếu oxy nhiều vi sinh vật có thể sử dụng nitrate hay hợp chất nitơ 
oxy hóa khác như nguồn oxy và điện tử nhận hydro trong quá trình hô hấp. Vì vậy, 
sự phân hủy vật chất hữu cơ có thể diễn ra trong điều kiện thiếu oxy. Quá trình dị 
dỡng này được gọi là phản nitrate (khử nitơ) bởi ví khí N2 được giải phóng như là 
chất trao đổi và mất khỏi ao. Thí dụ, nitrate có thể bị khử thành nitrite, kế đó nitrite 
bị khử thành oxide nitơ và cuối cùng oxide nitơ bị khử thành khí N2. Về mặt sinh lý, 
quá trình này đúng nhất có thể được gọi là hô hấp nitrate. Phản nitrate xảy ra trong 
đất ao nơi có hàm lượng oxy hòa tan thấp. Phản nitra1te thì làm mất một lượng lớn 
nitơ trong ao và được tóm tắt qua phương trình: 
 6NO3 + 5CH3OH → 5CO2 + 3N2 + 7H2O + 6OH- 
Trong phương trình phản nitrate hóa ở trên, methanol được dùng làm nguồn carbon. 
Dĩ nhiên, nhiều hợp chất carbon hữu cơ có thể được dùng bởi vi khuẩn phản nitrate 
hóa. 
Sự bay hơi của ammonia 
Một số ammonia thoát khỏi ao trực tiếp vào không khí khi áp lực khí ammonia 
trong nước cao hơn áp lực khí ammonia trong không khí. Quá trình này xảy ra 
nhiều ở pH trên 9. Sự quan trọng của bay hơi ammonia trong cân bằng nitơ trong ao 
thì ít được biết đến, nhưng nó được cho rằng là không có ý nghĩa trong hầu hết các 
ao bởi vì pH thì không quá cao đủ để giúp làm mất nhanh vào không khí. 
 30 
Tóm tắt 
Bởi vì t ỉ lệ cao nitơ tuần hoàn bên trong hệ sinh thái ao và sự cố định nitơ bởi tảo 
làm và vi khuẩn, không cần thiết sử dụng lượng lớn nitơ trong phân bón. Trong ao, 
một lượng lớn nitơ đi vào ao qua thức ăn và một lượng lớn ammonia đi vào nước từ 
sinh vật nuôi và từ quá trình phân hủy thức ăn thừa và phân (động vật). Vì vậy, mối 
quan tâm lớn trong ao nuôi thâm canh là sự tích lũy quá mức hàm lượng ammonia 
trong nước ao. 
PHỐT-PHO 
Hàm lượng phốt-pho trong nước ao thấp. Phốt-pho được đưa vào ao qua phân bón 
để kích thích thực vật phù du nở hoa, làm tăng sinh vật làm thức ăn tự nhiên và làm 
tăng năng suất nuôi. Trong ao có cho ăn, một phần phốt-pho trong thức ăn không 
được đồng hóa bởi sinh vật nuôi đi vào nước làm tăng năng suất thực vật phù du. 
Phân hủy phốt-pho trong ao 
Chu trình phốt-pho trong ao được minh họa ở hình 14. Khi phốt-phát được cung cấp 
qua phân bón hóa học, hàm lượng cao của phốt-phát sẽ lưu lại trong nước vài giờ 
hoặc vài ngày. Tuy nhiên, hàm lượng sẽ giảm nhanh vê mức ban đầu. Một số phốt-
pho mất trong nước do thực vật và vi khuẩn hấp thụ. Thực vật phù du nở hoa quá 
mức có thể hấp thụ một lượng lớn phốt-pho. Tuy nhiên, phần lớn phốt-pho sẽ bị hấp 
thụ trong đất. Ngay cả phốt-pho ban đầu được thực vật phù du hấp thụ cuối cùng 
cũng bị khoáng hóa tứ vật chất hữu cơ và đi vào trong đất. 
Lượng phốt-pho đi vào ao từ nguồn tự nhiên, bao gồm giải phóng từ đất thì thường 
khá nhỏ ngay cả trong ao năng suất cao. Phốt-pho phải được cung cấp qua phân bón 
để duy trì năng suất. Phốt-pho trong phân hữu cơ được giải phóng khi phân được 
phân hủy bởi vi khuẩn. Lượng phốt-pho thu hoạch từ động vật thủy sinh thường 
thấp hơn 1/3 lượng phốt-pho cung cấp vào ao. Tuy nhiên, sinh khối động vật thu 
hoạch từ ao nuôi là mất phốt-pho nhiều nhất trong hệ sinh thái. Hầu hết phốt-pho 
đưa vào ao giữ lại trong ao ở dạng hợp chất phốt-phát không hòa tan trong đất. 
Không may, phốt-pho trong đất không thể dùng được đối với loài thực vật không có 
gốc trong ao. 
Phản ứng với bùn 
Phốt-pho vô cơ trong đất hoặc bùn xuất hiện ở dạng phốt-phát can-xi, phốt-phát sắt 
hay phốt-phát nhôm. Trong đất phèn, ion nhôm xuất hiện ở hàm lượng khá cao và 
phản ứng với phốt-phát để tạo thành phốt-phát nhôm không hòa tan theo phản ứng: 
 Al3+ + H2PO4- = AlPO4 +2H+ 
Ở cùng điều kiện pH, ion nhôm xếp trước ion sắt vài bậc trong bùn hiếu khí. Vì vậy, 
phốt-phát đầu tiên phản ứng với nhôm, nhưng sự tồn tại của phốt-phát sắt cho thấy 
 31 
một số phốt-phát nhôm được chuyển thành phốt-phát sắt. Khi bùn trở nên yếm khí, 
phốt-phát sắt hòa tan và nước yếm khí ở đáy ao có thể có nhiều phốt-phát. Vì vậy, 
khi nước trở nên hiếu khí trở lại thì phốt-phát sắt sẽ kết tủa. Khi pH đất ao tăng, 
hàm lượng ion nhôm giảm, do đó, ít phốt-phát kết tủa dưới dạng phốt-phát nhôm. 
Nơi nào có pH từ 6-7, sự kết tủa của phốt-phát nhôm là nhân tố chi phối loại phốt-
phát trong nước. Khi pH trong đất tăng, hàm lượng can-xi tăng và phốt-phát kết tủa 
dạng phốt-phát can-xi. Thời gian dài, phốt-phát can-xi bị chuyển hóa thành dạng 
khống apatic (đá phốt-phát) không hòa tan. Khi pH và hàm lượng can-xi cao apatic 
có thể kết tủa trực tiếp từ trong nước. Bùn cũng chứa phố-pho hữu cơ. Sự phân hủy 
vật chất hữu cơ nhờ vi sinh vật sẽ giải phóng phốt-phát mà sẽ thàm gia phản ứng 
với nhôm, sắt và can-xi. 
Thực vật phù du có thể hấp thụ nhanh phốt-phát từ trong nước, vì vậy một tỉ lệ lớn 
của phốt-pho cung cấp cho ao có thể đi vào tế bào thực vật phù du và thức đẩy sinh 
trưởng. Tế bào tảo có thể được tiêu thụ bởi động vật thủy sinh, nhưng hầu hết thì 
chết và lắng tụ xuống đáy. Các nghiên cứu cho thấy khoảng 70% phốt-phát cung 
cấp vào ao qua phân bón hay thức ăn cuối cùng tìm thấy chúng trong bùn. Phốt-pho 
trong đất đáy ao thi cân bằng với phốt-pho trong nước, nhưng mặc dù vậy, hàm 
lượng phốt-pho trong nước rất thấp. Vì vậy, trầm tích ao dường như là chất lắng 
hơn là nguồn phốtphô. 
Hình 14: Chu trì phốt-pho trong ao nuôi cá 
Tóm tắt 
Phốt-phát phải được được cung cấp định kỳ thường xuyên qua bón phân nhằm duy 
trì mật độ mong muốn của thực vật phù du. Trong ao có cho ăn, sự phân hủy của 
- Rửa trôi 
- Cấp nước 
- Không khí 
- Xác T.vật 
- Hoạt động 
của ĐV 
- Phân bón 
- Thức ăn 
Xác hữu cơ 
Phốt-pho 
hữu cơ 
hòa tan 
Phốt-phát 
Mất trong 
trầm tích 
TV phù du 
SV tiêu thụ 
Thực vật lớn 
Hoạt động 
vi sinh 
Cấp vào Mất 
- Tháo nước 
- Hoạt động 
của ĐV 
- Thu hoạch 
 32 
thức ăn thừa và phân động vật liên tục cung cấp phốt-pho cho nước. Sự hấp thụ bởi 
đất là một hiện tượng mong muốn trong ao có cho ăn bởi vì nó kiểm soát hàm lượng 
phốt-pho trong nước và là một nhân tố quan trọng ngăn ngừa sự phát triển quá mức 
của thực vật phù du. Dĩ nhiên, nếu tỉ lệ cho ăn đủ lớn, hàm lượng phốt-pho dư thừa 
trong nước có thể trở nên đủ lớn gây trở ngại về thực vật phù du nở hoa cho dù đất 
hấp thụ. 
ĐẤT AO 
Đất đóng nhiều vai trò quan trọng trong ao nuôi thủy sản. Đất đáy ao và bờ ao đóng 
vai trò như lòng chảo chứa nước. Đất đáy ao giữ và phóng thích cả chất dinh dưỡng 
và vật chất hữu c và cũng là môi trường cho sinh vật đáy, thực vật và vi khuẩn phát 
triển. Những sinh vật này có thể làm nguồn thức ăn cho những sinh vật khác hoặc 
cá, và chúng cũng tái tạo lại chất dinh dưỡng và phân hủy vật chất hữu cơ. Một số 
loài thủy sản nuôi kiếm ăn trên nền đáy và một số làm tổ và đẻ trứng trên nền đáy 
ao. 
Bùn đáy ao có nguồn gốc từ bờ. Tuy nhiên, điều kiện đất trong đáy ao khác với điều 
kiện đất trên bề mặt, trên bờ. Vật chất hữu cơ bổ sung vào ao hoặc được tạo ra trong 
ao, vật chất rắn lơ lửng vào ao từ nước chảy tràn và các chất lơ lửng từ đáy ao do 
dòng chảy liên tục tích tụ trên đáy ao tạo thành lớp bùn đáy. Hàm lượng oxy hòa tan 
thường thấp dưới nền đáy và các quá trình phân hủy vật chất hữu cơ xảy ra thường 
chậm hơn so với trên bờ. Cũng như vậy, carbonat, hydroxyt sắt và phốt-phát trong 
nước thường kết tủa dưới nền đáy. Đáy ao là nơi tiếp nhận cuối cùng các dư lượng 
của vật chất được bổ sung vào hoặc tạo ra trong ao. Mô tả chi tiết về đất đáy ao 
được trình bày trong tài liệu của Boyd (1995). 
KẾT CẤU CỦA ĐẤT 
Kết cấu của một loại đất là tỉ lệ của các hạt sỏi, cát, bùn và sét có trong đất. Phân 
tích kích thước hạt của đất nông nghiệp sẽ cho kết quả tỉ lệ của cát, bùn và sét và từ 
đó tên kết cấu của đất – ví dụ như đất mùn cát, mùn sét,… có thể được ấn định với 
sự hỗ trợ của một tam giác đất (xem các giáo trình nào về đất). Tuy nhiên, trong 
nghiên cứu đất ao thì việc sử dụng hệ thống phân loại đất nông nghiệp thường 
không có giá trị. Mặt khác, cũng nên biết có bao nhiêu đất sét trong đất ao vì sét là 
phần đất xảy ra các phản ứng hóa học. Đất cũng chứa vật chất hữu cơ và vật chất 
hữu cơ như đất sét có phản ứng hóa học rất cao. 
Thường có khái niệm không đúng cho rằng đất ao nên chứa một lượng lớn đất sét 
để chống thẩm lậu. Đất dùng làm đáy ao và bờ ao nên chứa một ít sét nhưng với 
khoảng 10-20% là được, nếu đất đó có chứa hạt với nhiều kích thước khác nhau. 
Đất chứa 25% hoặc nhiều hơn nữa hạt sét thường rất dính và khó trải rộng và nén 
nện trong quá trình làm ao. Bờ ao đắp bởi loại đất này sẽ rất trơn. Quá trình phơi ao 
 33 
và các bước xử lý khác với đáy ao có nhiều sét giữa các vụ nuôi cũng thường rất 
khó khăn. 
SỰ TRAO ĐỔI CATION 
Các hạt keo của chất hữu cơ và khoáng sét trong đất ao có cực âm và hấp dẫn các 
cation xung quanh (ion dương). Có một sự cân bằng xảy ra giữa hàm lượng cation 
trong nước xung quanh các hạt đất và số lượng cation hấp thụ trên các hạt đất (Hình 
15). Nếu một lượng lớn ion K được đưa vào nước có hệ cân bằng như mô tả ở Hình 
15 thì hàm lượng ion K gia tăng trong nước sẽ phá vỡ sự cân bằng này. Để thiết lập 
lại các điều kiện cân bằng, ion K sẽ thay thế một số ion được hấp thụ trên bề mặt 
hạt đất và hàm lượng của tất cả các ion trong nước sẽ tăng lên. 
Hình 15: Trao đổi cation giữa đất và nước 
Cation trên các chất keo và nước xung quanh là các cation trao đổi và vị trí hấp thụ 
trên bề mặt keo đất được gọi là vị trí trao đổi. Một số cation được giữ chặt hơn một 
số khác trên bề mặt keo. Nhìn chung mức độ về lực hút giữa các cation với chất keo 
gia tăng theo số hoá trị của cation. Như vậy, ion Al (hoá trị +3) được giữ chặt hơn 
ion can-xi (hoá trị +2) và ion Ca được hút mạnh hơn ion K (hóa trị +1). 
Số lượng cation có thể được hấp thụ trên đất được gọi là khả năng trao đổi cation 
(CEC). CEC được đo bằng milli đương lượng cation trên 100g đất khô (meq/100 g). 
Như vậy, CEC của đất càng lớn thì khả năng trao đổi và giữ ion càng lớn. CEC của 
bùn đáy ao nằm trong khoảng nhỏ hơn 1 meq/100 g đến lớn hơn 100 meq/100 g. 
CEC tăng khi tỉ lệ sét, chất hữu cơ hoặc cả hai tăng. Một số loại đất sét có khả năng 
trao đổi cation lớn hơn một số loại khác. Đất ao với giá trị CEC từ 10-40 meq/100 g 
là tốt nhất cho nuôi trồng thủy sản. CEC là đặc tính tự nhiên của đất, thường không 
thể thay đổi được bằng việc xử lý ao. 
ĐỘ PHÈN (ĐỘ AXÍT) 
Các cation được hấp thụ trên bề mặt trao đổi trong đất là axít (ion Al3+, Fe3+ và H+) 
hoặc bazơ (ion Ca2+, Mg2+, K+, Na+ và NH4+). Tỉ lệ của tổng khả năng trao đổi 
chiếm bởi các ion axít được gọi là độ không bão hòa bazơ. Trong hầu hết các loại 
 34 
đất, số lượng nhỏ ion H+ hoặc Fe3+ sẽ xuất hiện ở vị trí trao đổi. Ion axít chủ yếu là 
ion Al3+. 
Phản ứng axít của nhôm có thể được thấy như sau : 
Al-đất = Al3+ + 3H2O = Al (OH)3 +3H+. 
Do độ không bão hòa bazơ của đất gia tăng nên một lượng nhỏ ion Al3+ đủ để phản 
ứng với nước và làm gia tăng ion H+. Vì thế pH đất giảm với sự gia tăng độ không 
bão hòa bazơ. 
Dùng vôi trung hòa tính axít trong bùn được minh họa ở Hình 16. Carbonate can-xi 
phản ứng với H+ và trung hòa chúng. Điều này làm giảm đi nồng độ H+ trong dung 
dịch và nhiều ion Al3+ được phóng thích ra từ trong đất. Ion Al3+ phóng thích từ đất 
được thay thế bởi ion Ca2+ tạo ra từ quá trình trung hòa H+ bằng CaCO3. Kết quả 
cuối cùng như sau: nhôm được loại ra khỏi đất và kết tủa dưới dạng hydroxyt nhôm; 
can-xi thay thế nhôm trong đất; độ không bão hòa bazơ của đất giảm; pH đất tăng. 
Hình 16: Trung hòa độ axít của đất băng carbonat can-xi 
Các ao đôi khi được xây dựng ở những vùng đã từng là những đầm lầy nước lợ 
trước đây. Khi các dòng sông với lượng lớn trầm tích được tống ra biển, lượng trầm 
tích này được tích tụ ở vùng gần bờ biển. Sau khi lượng tích tụ này vượt trên mức 
nước thấp trung bình, thảm thực vật bắt đầu hình thành. Do quá trình tích tụ tiếp 
tục, vùng ven biển dần dần bồi tụ và rừng ngập mặn phát triển. Trong rừng ngập 
mặn, rễ cây giữ lại các loại rác hữu cơ và vô cơ và sự phân hủy khối lượng lớn rác 
tạo ra môi trường yếm khí. Kết quả là vi khuẩn khử lưu huỳnh trở nên ưu thế và 
sun-phít hình thành bởi vi khuẩn tích tụ trong các khe hở trong bùn đáy dưới dạng 
H2S hoặc dạng kết hợp với sắt hình thành kết tủa của sun-phít sắt. Sun-phít sắt tiếp 
tục trải qua phản ứng hóa học tạo thành sắt di-sun-phít kết tinh để tạo thành py-rit 
sắt. 
 35 
Chừng nào bùn đáy chứa pyrite vẫn còn bị ngập nước và yếm khí thì nó tồn tại tình 
trạng khử và ít thay đổi. Tuy nhiên, nếu được tháo cạn nước và phơi khô, quá trình 
oxy hóa xảy ra và axít sun-phua-ric được tạo ra. Phản ứng tóm tắt quá trình hình 
thành axít sun-phua-ric từ pyrite sắt như sau: 
FeS2 +3,75O2 + 3,5H2O Æ Fe (OH)3 + SO42- + 4H+. 
Hydroxit sắt kết tinh dưới dạng một chất màu nâu đỏ trong nền đáy. Sau khi tháo 
cạn, nền đáy chứa pyrite được gọi là đất phèn tiềm tàng hoặc “đất sét mèo”. 
Dưới điều kiện hiếu khí đất phèn sẽ có pH dưới 4,0. pH của đất phèn thường sẽ 
giảm xuống đến 3 đơn vị khi phơi khô. Nhận dạng đất phèn tại hiện trường đôi khi 
có thể dựa vào mùi H2S từ nền đáy khi bị khuấy động, nhưng để đánh giá chính xác, 
nên đo pH trước và sau khi phơi khô. 
Trong ao, vấn đề phèn thường bắt nguồn từ bờ bao. Đáy ao thường ngập nước và 
yếm khí vì thế axít sulfuric không được tạo thành. Tuy nhiên, bờ bao khô và axít 
sulfuric hình thành trong suốt thời kỳ khô và chảy vào ao khi mưa. Phèn trên bờ có 
thể được kiểm soát bằng việc bón vôi và tạo ra một màng phủ với những loài cỏ có 
khả năng chịu phèn. Rất may đất phèn không phải là vấn đề thường gặp trong các 
ao nước ngọt. 
CHẤT HỮU CƠ VÀ QUÁ TRÌNH OXY HÓA-KHỬ 
Chất hữu cơ tích tụ ở bề mặt giữa nước và đất và hoạt động của vi khuẩn rất mạnh 
trên lớp bề mặt. Do nước không di chuyển tự do trong nền đáy nên hoạt động vi 
khuẩn nhanh chóng làm giảm hàm lượng oxy trong nước ở nền đáy. Thường, điều 
kiện hiếu khí (có sự hiện diện của oxy) sẽ chỉ xảy ra ở vài mm lớp trên cùng của 
nền đáy. Khi hàm lượng oxy giảm, đ iện thế oxy hoá - khử giảm xuống và nhiều hợp 
chất bị khử. Một hợp chất được cho là bị khử khi một hoặc nhiều quá trình sau đây 
xảy ra: nó lấy được hydro, mất oxy hoặc trở thành điện tích âm. Một số hợp chất 
khử đặc trưng xảy ra trong bùn đáy bao gồm: 
 NO3- thành NO2- 
 NO2- thành NH3 
 NO2- thành N2 
 NH3 thành N2 
 Fe3+ thành Fe2+ 
 Mn4+ thành Mn2+ 
 SO42- thành H2S 
 CO2 thành CH4 (metan). 
 36 
Dưới các điều kiện nhất định quá trình khử này có thể tự xảy ra khi không có oxy, 
nhưng thường được xúc tiến nhờ vi sinh vật. Dưới đ iều kiện yếm khí, điện tử và ion 
H+ được hình thành khi vi sinh vật phân hủy vật chất hữu cơ và không thể phản ứng 
với oxy. Vì thế, điện tử và ion H+ được phóng thích nhờ phản ứng với các hợp chất 
vô cơ oxy hóa. Dĩ nhiên, trong quá trình đó thì hợp chất vô cơ sẽ bị khử. 
Sự phân hủy chất hữu cơ trong bùn gây ra điều kiện oxy hòa tan thấp và sự phân 
hủy liên tục chất hữu cơ sẽ tạo ra sự khử của các hợp chất vô cơ. Vì vậy chất hữu cơ 
là nguồn năng lượng khử mà thường dẫn tới nồng độ nitrite, ammonia, sắt II (Fe2+), 
ion mangan hóa trị 2, H2S và metan cao trong bùn đáy. Thiếu oxy trong nền đáy có 
thể làm chậm lại tốc độ phân hủy chất hữu cơ chứ không làm ngừng quá trình phân 
hủy. Thật ra, yếm khí là điều kiện bình thường trong nền đáy ao, thường đất trong 
các ao nuôi thủy sản thường không tích tụ lượng lớn chất hữu cơ trừ khi các nguồn 
đầu vào chứa một lượng chất hữu cơ quá mức. Chẳng hạn, trong ao nếu bón một 
lượng lớn phân chuồng, đất đáy ao có thể tích tụ lượng lớn chất hữu cơ. Tuy nhiên, 
nếu lượng chất hữu cơ đưa vào trong ao quá lớn đến nỗi tình trạng hiếu khí không 
thể duy trì được ở bề mặt đất-nước thì sinh vật nuôi trong ao có thể bị tiếp xúc trực 
tiếp với các hợp chất khử và khí độc. 
Phản ứng của sắt (Fe) trong nước là phương tiện để xác định xem tầng mặt của lớp 
bùn đáy có bị yếm khí hay không. Trong điều kiện thiếu oxy, sắt III (Fe3+) bị 
chuyển thành sắt II (Fe2+). Sắt II có màu nâu đen hoặc đen. Vì vậy khi thấy bề mặt 
của bùn đáy trở nên đen thì lúc đó nền đáy đang trong tình trạng yếm khí. Khi bề 
mặt nâu hoặc có màu tự nhiên của đất thì có sự hiện diện của oxy. Dĩ nhiên, nếu dỡ 
bỏ lớp bùn mặt hiếu khí, lớp bên dưới sẽ yếm khí và có màu đen. Tốt nhất là duy trì 
oxy hòa tan ở tầng trên cùng của lớp bùn đáy. Các sinh vật làm thức ăn cho cá sống 
trong bùn cần oxy và sự hiện diện của oxy trong bùn sẽ tránh được sự hình thành 
các hợp chất khử độc hại. 
Hàm lượng chất hữu cơ trong bùn đáy ao thường được chú ý đặc biệt. Tuy nhiên, 
việc đánh giá số liệu về hàm lượng chất hữu cơ trong đất ao thì không đơn giản. Do 
chất hữu cơ lắng tụ trên nền đáy, sau đó bị phân hủy và dần dần trộn lẫn với lớp bùn 
bên dưới bởi các quá trình lý học và sinh học, hàm lượng chất hữu cơ giảm rất 
nhanh theo độ sâu của nền đáy. Lớp trên cùng, lớp xốp xốp của bùn vừa lắng tụ có 
thể chứa đến 50% hoặc cao hơn chất hữu cơ nhưng hàm lượng hữu cơ của toàn bộ 
lớp 1-2 cm phía trên sẽ ít khi vượt quá 10% trừ những chỗ ao được xây dựng trên 
vùng đất có hàm lượng hữu cơ tại chỗ cao (đất hữu cơ). Khi chất hữu cơ phân hủy, 
hầu hết những chất dễ phân hủy được phân rã trước và những chất khó phân hủy sẽ 
tích tụ lại. Vì thế, rất nhiều dư lượng hữu cơ trong đất ao chứa chất kháng lại quá 
trình phân hủy. Nhu cầu oxy cao trong bùn đáy liên quan đến tỉ lệ đầu vào của vật 
chất hữu cơ tươi, dễ hủy hơn là số lượng chất hữu cơ dư tồn, khó phân hủy tích tụ 
 37 
theo thời gian. Hiện tại, chúng ta không có phương pháp nào đáng tin cậy để phân 
biệt hai loại chất hữu cơ này. 
ĐẤT AO VÀ NĂNG SUẤT NUÔI 
Mặc dù rất ít thông tin về mối quan hệ giữa tính chất của bùn đáy ao với năng suất 
tôm cá nuôi nhưng có một nghiên cứu cho rằng tính chất của đất có vai trò qu
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 quan_ly_chat_luong_nuoc_ao_nuoi_thuy_san_6395.pdf quan_ly_chat_luong_nuoc_ao_nuoi_thuy_san_6395.pdf