Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Mỹ

A- LỜI MỞ ĐẦU.3

B- NỘI DUNG.5

I- VAI TRÒ CỦA NGÀNH DỆT MAY VÀ XUẤT KHẨU CÁC SẢN PHẨM DỆT MAY Ở VIỆT NAM.5

1- Ngành dệt may trong nền kinh tế quốc dân.5

2- Những thuận lợi, khó khăn hiện nay trong hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành dệt may Việt Nam.6

 2.1 Thuận lợi.6

 2.2 Khó khăn.6

II- ĐẶC ĐIỂM CỦA THỊ TRƯỜNG MỸ.7

1- Vài nét về thị trường Mỹ.7

2- Tìm hiểu chính sách ngoại thương của Mỹ.8

3- Biện pháp để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá sang thị trường Mỹ.9

III- THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG MỸ.11

1- Tình hình xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường Mỹ.11

 1.1 Cơ cấu mặt hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ.11

 1.2 Các phương pháp thâm nhập thị trường Mỹ Việt Nam đã áp dụng đối với hàng dệt may.12

2- Những khó khăn của sản phẩm dệt may Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ.12

 2.1 Điểm yếu của hoạt động xuất khẩu ngành may.12

 2.2 Sản phẩm dệt may khi xuất khẩu sang thị trường Mỹ thường gặp những khó khăn do những quy định ngặt nghèo của Mỹ như sau.13

3- Cơ hội và thách thức của ngành dệt may Việt nam khi xuất khẩu sang thị trường Mỹ.15

 3.1 Cơ hội.15

 3.2 Thách thức.15

4- Cơ chế- chính sách của Nhà Nước về quản lý xuất nhập khẩu.18

5- Kết luận- bài học kinh nghiệm.19

IV- GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG MỸ.20

1- Giải pháp nhằm nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam.20

 1.1 Nâng cao chất lượng và thực hiện đa dạng hoá sản phẩm.20

 1.2 Đảm bảo thực hiện các hợp đồng xuất khẩu lớn, đúng thời hạn quy định.24

 1.3 Nâng cao tính cạnh tranh về giá cho sản phẩm may.24

2- Các biện pháp đưa nhanh sản phẩm may Việt Nam thâm nhập vào thị trường Mỹ.26

 2.1 Trong thời gian đầu vẫn duy trì gia công, bán và phân phối qua trung gian để đưa hàng vào Mỹ.26

 2.2 Xuất khẩu trực tiếp cho các doanh nghiệp Mỹ. 26

 2.3 Tiến tới năm 2006-2010 : thiết lập hệ thống phân phối sản phẩm dệt may tại Mỹ. .27

3- Các giải pháp đối với doanh nghiệp.28

 4- Giải pháp đối với Nhà nước.29

 4.1 Nhà nước cần có các chính sách thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư trong nước và nước ngoài.29

 4.2 Hỗ trợ xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp ngành may.30

 4.3 Hoàn thiện cơ chế quản lý xuất nhập khẩu.30

C- KẾT LUẬN.32

 

 

doc33 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1333 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quy chế Tối Huệ Quốc) thì năm 1999 tăng vọt lên 600 triệu USD (chiếm hơn 90% kim ngạch xuất khẩu của nước này), 70% số này xuất khẩu sang Mỹ. Nhìn chung, những kinh nghiệm đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Mỹ kể trên đều có thể áp dụng ở mức độ khác nhau cho Việt Nam. III. Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Mỹ 1. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường Mỹ Từ trước đến nay, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã thực hiện được việc xuất khẩu mặt hàng dệt may sang Mỹ, nhưng với số lượng nhỏ, chỉ chiếm từ 5% đến 10% tổng lượng sản xuất của cả nước, cụ thể kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào Mỹ năm 1999 là 30 triệu USD, năm 2000 là 40 triệu USD. Sở dĩ như vậy là vì sản phẩm dệt may của Việt Nam tuy hoàn toàn không gặp trở ngại về mặt chất lượng khi thâm nhập thị trường Mỹ, nhưng phải chịu thuế suất nhập khẩu rất cao, từ 30% đến 90%, trong khi đó mức thuế suất thấp nhất mà các nước khác được hưởng là khoảng 20%. Với hơn 1000 doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may và với hàng vạn cơ sở sản xuất may cá thể, Việt Nam có lợi thế về nhân công lao động có thể làm ra lượng sản phẩm lớn, nhưng các nhà sản xuất hàng dệt may nắm rất ít thông tin về luật lệ kinh doanh và thị hiếu của thị trường Mỹ. Phần lớn sản phẩm dệt may Việt Nam trước đây không xuất khẩu trực tiếp sang Mỹ, mà phải đi qua nước thứ 3 khiến giá thành bị đội lên rất nhiều nên chưa tạo được chỗ đứng vững chắc trên thị trường này. Theo thống kê của Hải quan Mỹ, tổng kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may các loại vào Mỹ trong năm tài chính từ tháng 3/1999 đến tháng 3/2000 là 65,52 tỷ USD, tăng 6,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó nhập khẩu từ Việt Nam chỉ chiếm 0,5% tổng nhập khẩu từ ASEAN và 0,7% tổng nhập khẩu của Mỹ từ tất cả các nước. Về trị giá, Việt Nam đứng thứ 8 trong số các nước ASEAN và thứ 57 trong tất cả các nước có hàng dệt may xuất khẩu vào Mỹ. 1.1 Cơ cấu hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ đa phần là hàng may mặc, chia ra làm hai chủng loại chủ yếu là hàng dệt kim và hàng dệt thường, với kim ngạch xuất khẩu qua các năm như sau: Cơ cấu hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ Mặt hàng 1996 1997 1998 Kim ngạch (%) Kim ngạch (%) Kim ngạch (%) Dệt thường 20,01 84,79 21,96 83,15 24,53 81,22 Dệt kim 3,59 15,21 4,45 16,85 5,67 18,78 Tổng cộng 23,60 100,00 26,41 100,00 30,20 100,00 Nguồn : Tạp chí ngoại thương số 12/99 Số liệu trên cho ta thấy hàng dệt thường của Việt nam chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ. Một trong những nguyên nhân, ngoài thị hiếu của công chúng Mỹ đối với hàng dệt thường, là do thực trạng công nghệ dệt Việt Nam đang chú ý đổi mới trang thiết bị, lắp đặt các dây chuyền sản xuất đồng bộ nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và gia tăng hiệu quả xuất khẩu mặt hàng dệt kim vì lý do mặt hàng này có hiêụ quả kinh tế hơn. 1.2. Các phương pháp thâm nhập thị trường Mỹ Việt Nam đã áp dụng đối với hàng dệt may Việt Nam hiện nay đang áp dụng hữu hiệu các phương thức thâm nhập thị trường Mỹ sau: * Bán trực tiếp cho các nhà kinh doanh Mỹ ở những mặt hàng có mức thuế suất nhập khẩu chênh lêch không nhiều so với Quy chế tối huêh quốc; * Gia công trực tiếp, nhưng rất ít; * Gia công và bán qua trung gian các nước thứ ba như Hong Kong, Đài Loan, Singapore. 2. Những khó khăn của sản phẩm dệt may Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ. 2.1 Điểm yếu của hoạt động xuất khẩu ngành may: * Giá thành sản phẩm may mặc còn cao vì năng suất lao động của công nhân ngành may còn thấp hơn so với một số nước trong khu vực; công nghệ, thiết bị máy móc vẫn còn thua so với các đối thủ cạnh tranh; nguyên vật liệu ngành may chủ yếu còn phụ thuộc vào nhập khẩu làm giá thành nguyên vật liệu cao. * 70 % trị giá xuất khẩu hàng may mặc thực hiện qua phương thức gia công, trong khi đó thị trường Mỹ chủ yếu thực hiện nhập khẩu trực tiếp (mua đứt, bán đoạn sản phẩm). * Sản phẩm may của Việt Nam chưa có thương hiệu nổi tiếng thế giới. * Tiêu chuẩn hoá chất lượng sản xuất sản phẩm chưa được coi trọng. cho đến tháng 1/2000 ở Thành phố Hồ Chí Minh chiếm 60% năng lực may mặc của cả nước mới có một Công ty Total Phong Phú đạt được tiêu chuẩn quản trị ISO 9000. * Do xuất khẩu gia công, nên công tác thiết kế mẫu mã chưa được coi trọng. * Trình độ tiếp thị yếu, phụ thuộc vào phía đối tác nước ngoài đặt gia công. * Tay nghề công nhân chưa cao, vì đây được coi là ngành có sự dịch chuyển lao động lớn (hậu quả do chế độ tiền lương thấp). * Am hiểu về thị trường Mỹ chưa nhiều. 2.2 Sản phẩm dệt may khi xuất khẩu sang thị trường Mỹ thường gặp khó khăn do những quy định ngặt nghèo của Mỹ như sau: * Luật pháp Mỹ quy định rất chặt chẽ về chất lượng sản phẩm, về nhãn mác hàng hoá, về giấy chứng nhận xuất xứ hàng dêth may; * Sản phẩm dệt may không được ảnh hưởng đến sức khoẻ của người tiêu dùng, chẳng hạn sản phẩm có nguồn gốc từ động vật phải được kiểm tra thật kĩ lưỡng để không lây lan mầm bệnh từ vật sang người... Tất cả hàng hóa xuất sang Mỹ phải đáp ứng các qui định an toàn, sức khỏe cộng đồng Liên bang cũng như yêu cầu từng khách hàng đặt ra. Điều quan trọng là người bán phải tuân thủ đầy đủ các yêu cầu cần thiết như thông báo trong danh mục an toàn sản phẩm đề cập dưới đây: - Người tiêu dùng bị thương do sử dụng sản phẩm lỗi có thể kiện người mua ra luật pháp và nhà cung cấp có thể bị phạt một khoản tiền lớn vì những “thiệt hại” do tình trạng thương tật gây nên. Nghiêm trọng hơn nữa người mua có thể bị đưa ra tòa án Mỹ và ủy ban An toàn Sản phẩm Tiêu dùng Mỹ (CPSC) vì hoạt động nhập khẩu và tiêu thụ các sản phẩm vi phạm qui định về tính an toàn. - Cơ quan Chính phủ và Cục thẩm phán Mỹ có quyền dừng hoạt động nhập khẩu vào Mỹ hoặc có thể yêu cầu người mua ngừng bán các sản phẩm lỗi. - Chính phủ có thể yêu cầu người mua thu hồi các hàng hóa bị lỗi và bản thân người mua phải thông báo cho người tiêu dùng về tình trạng hàng hóa và hoàn lại tiền cho người tiêu dùng. Đây là quá trình rất tốn kém, mất nhiều thời gian và có thể bị phạt nặng nếu các biện pháp giải quyết không ổn thỏa. - CPSC có chức năng đưa ra các qui định an toàn sản phẩm và các qui định này bảo vệ người tiêu dùng tránh khỏi các sản phẩm không an toàn và đặt trách nhiệm này lên các nhà sản xuất, nhập khẩu và bán lẻ. CPSC đưa ra các yêu cầu báo cáo chặt chẽ đối với các nhà sản xuất, nhà phân phối, nhà nhập khẩu và nhà bán lẻ về các sản phẩm đã được liệt kê ra, kết hợp với đạo luật liên quan vấn đề thương tật và tử vong. - Hơn nữa CPSC còn áp dụng mức phạt rất nặng đối với các nhà sản xuất, nhà nhập khẩu và nhà bán lẻ có hành vi vi phạm. Vì vậy sẽ không có một chuyến giao hàng nào được thực hiện cho đến khi người mua nhận được kết quả kiểm tra liên quan đến tính an toàn sản phẩm. - Tất cả các loại vải 100% bông, tơ, gai, axêtat hoặc lụa và vải pha có chứa các loại sợi kể trên với trọng lượng nhỏ hơn 2,6oz/sq yd. - Tất cả các loại vải cào tuyết 100% bông hoặc tơ và các loại vải pha khác từ các loại sợi này. Tất cả màu sắc cũng đều phải kiểm tra vì nhuộm ở những lần khác nhau gây ảnh hưởng đến tỷ lệ đốt cháy vải cào tuyết. * Riêng với sản phẩm len xuất khẩu vào Mỹ, còn phải có Visa nhập khẩu của Hải quan Mỹ nhằm ngăn chặn những sản phẩm không phù hợp với quy định có thể được đưa vào trong nước. * Số lượng sản phẩm dệt may xuất khẩu vào Mỹ sau khi hiệp định thương mại Việt-Mỹ có hiệu lực sẽ được điều tiết bằng hàng rào hạn ngạch (quota), do vậy phải cạnh tranh bình đẳng với tất cả các nước và lãnh thổ xuất khẩu hàng dệt may khác trên thế giới đã có mặt rất lâu trên thị trường Mỹ như HongKong, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan...với kim ngạch hàng năm thực hiện rất lớn. * Mỹ ít thực hiện gia công mà mua đứt bán đoạn ở sản phẩm dệt may. 3. Cơ hội và thách thức của ngành dệt may Việt Nam khi xuất khẩu sang thị trường Mỹ 3.1 Cơ hội Ngành dệt may Việt Nam hiện có 750 doanh nghiệp (149 liên doanh và 100% vốn nước ngoài), sử dụng khoảng nửa triệu lao động, năm 1999 xuất khẩu 1.680 triệu USD, nhưng trong đó có tới 74% là giá trị vật tư phía nước ngoài đưa đến gia công. - Trước đây, hàng dệt may của nước ta vào Mỹ bị đánh thuế nhập khẩu cao hơn từ 4 đến 5 lần tuỳ theo từng mặt hàng so với các nước khác có quy chế NTR. Hiệp định thương mại Việt-Mỹ có hiệu lực, thuế nhập khẩu hàng may vào thị trường Mỹ giảm bình quân 30-40% nên kim ngạch sẽ gia tăng. Theo ước tính sau 3-4 năm, hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ có thể đạt trên 1 tỷ USD. Hơn nữa, chất lượng và chủng loại của hàng dệt may Việt Nam thời gian gần đây được các thị trường khó tính Nhật và Tây Âu chấp nhận, sẽ dễ dàng chinh phục khách hàng Mỹ. - Nguồn lao động của Việt Nam khá dồi dào. - Các bên có thẩm quyền của Việt Nam và Mỹ quan tâm chuẩn bị đàm phán Hiệp định về may mặc khi có điều kiện. - Nhà nước có những chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu : xúc tiến thương mại, thưởng xuất khẩu. 3.2 Thách thức Mặc dù hàng dệt may Việt Nam có nhiều cơ hội xuất khẩu sang thị trường Mỹ nhưng thách thức cũng không ít : * Trước hết, đối với hàng dệt may, khi hiệp định thương mại có hiệu lực thì một hiệp định về hàng dệt may Việt-Mỹ sẽ được đàm phán. Hiện hai bên vẫn chưa đưa ra lịch trình cụ thể về việc đàm phán hiệp định về hàng dệt may, trong đó có thể Mỹ sẽ áp dụng chế độ hạn ngạch đối với hàng dệt may Việt Nam như đã từng áp dụng đối với Campuchia. Vì vậy vấn đề là phải tranh thủ hết mức trước khi Mỹ đưa ra hạn ngạch. * Cần phấn đấu nâng cao chất lượng nguồn nguyên liệu, phụ liệu ở trong nước, đáp ứng yêu cầu ràng buộc về tỷ lệ nội địa hoá để được hưởng chế độ thuế quan ưu đãi hay quy chế thuế quan phổ cập (GSP) của Mỹ dành cho các nước đang phát triển. Yêu cầu tỷ lệ nội địa hoá đối với ngành may rất cao, lên đến 60%, trong khi tỷ lệ nội địa hoá thực tế còn thấp hơn nhiều, do chất lượng vải của ta còn quá kém, nên hầu hết nguyên liệu sử dụng cho ngành may xuất khẩu hiện nay đều phải nhập. Ngay áo quần đang xuất khẩu vào EU, chỉ có tỷ lệ nhỏ đáp ứng tiêu chuẩn để cấp Form A, còn hầu hết xuất khẩu theo chứng chỉ xuất xứ Form T, nghĩa là chưa được hưởng mức thuế quan ưu đãi cao nhất. Đối với Mỹ, điều kiện để được hưởng chế độ thuế quan ưu đãi đối với một số mặt hàng, trong đó có hàng dệt may còn khó khăn và phức tạp hơn so với quy định của EU, hơn nữa quy định này hàng năm đều được Mỹ xem xét điều chỉnh. * Khâu thiết kế mẫu mã sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu. Bên cạnh đó, tỷ lệ sử dụng nguyên phụ liệu trong nước để sản xuất ra sản phẩm dệt may còn rất thấp. * Nguồn nhân lực trình độ cao còn hạn chế Chất lượng nguồn lao động hiện nay đang là vấn đề khó đối với các nhà quản lý ngành dệt may. Theo số liệu của hội Dệt-May-Thêu-Đan thành phố Hồ Chí Minh, số người lao động trong ngành tốt nghiệp cấp 3 chỉ đạt 4%, văn hoá cấp 2 chiếm 61%, cấp 1 chiếm 21% ; về chất lượng chuyên môn chỉ có 12,5% trưởng dây chuyền được đào tạo chính quy; 12,7% được đào tạo tại chức; 14,5% được đào tạo ngắn hạn, trong khi có tới 60,3% chưa hề được đào tạo bên ngoài. Và hiện rất ít công ty quan tâm đến việc đào tạo tay nghề cũng như kiến thức cho những lao động giữ vị trí then chốt trong dây chuyền sản xuất, hoặc nếu có thì cũng xuất phát từ việc sử dụng những lao động làm việc lâu năm, có năng suất cao, có kinh nghiệm lên đảm nhiệm. Ông Lê Quốc Ân - chủ tịch HĐQT tổng công ty dệt may Việt Nam, trong bài viết Ngành dệt may với vấn đề hội nhập đã chỉ ra : “... một trong những yếu tố chính và điểm mạnh chính làm cho hàng dệt may Việt Nam tăng tính cạnh tranh được như hiện nay đó là chất lượng..., không ít công đoạn còn có sự can thiệp trực tiếp của con người làm cho chất lượng sản phẩm không ổn định...”. Sau quyết định số 55/2001/QĐ/TTg của Chính phủ, các doanh nghiệp liệu có thực hiện được khi điểm 5 điều 2 của Quyết định cho phép “ Dành toàn bộ nguồn thu phí hạn ngạch dệt may cho việc mở rộng thị trường xuất khẩu, trong đó có chi phí cho các hoạt động tham gia các tổ chức dệt may quốc tế, cho công tác xúc tiến thương mại và đào tạo nguồn nhân lực cho ngành dệt may”. Trong khi đó tại hội nghị khách hàng về nhu cầu tuyển dụng lao động năm 2001 do Sở lao động - thương binh và xã hội thành phố Hồ Chí Minh tổ chức, nhiều doanh nghiệp rất bức xúc và thực sự quan tâm đến vấn đề đào tạo chuyền trưởng (CT), tổ trưởng (TT) và nhân viên kiểm tra chất lượng của sản phẩm (KCS), nhưng vẫn còn nhiều lúng túng không biết tổ chức giải quyết như thế nào. * Mỹ không đặt đơn hàng nhỏ lẻ. Một đơn hàng của Mỹ có thể lên tới cả triệu sản phẩm mà thời gian cung ứng hàng lại rất nhanh. Do vậy, cần đưa năng lực sản xuất của các doanh nghiệp ngành may lên cao và cần liên kết lại nhằm đủ sức thực hiện một đơn hàng. * Sự cạnh tranh ở mặt hàng may mặc trên thị trường Mỹ rất quyết liệt. Thật vậy, Trung Quốc là đối thủ cạnh tranh lớn với ưu thế phong phú về chủng loại hàng hoá, giá rẻ. Một số nước ASEAN như Philippines, Thái Lan, Indônêsia là những nước xuất khẩu lớn, có sẵn thị trường tiêu thụ. Tuy giá nhân công cao hơn Việt Nam nhưng họ có ưu thế nhờ sự tự túc được nguyên liệu vải và các phụ kiện may chất lượng cao nên đã góp phần giảm giá thành sản phẩm. Nhiều nhãn hiệu uy tín có thể kể đến là áo thun “cá sấu” của Thái Lan, quần lót hiệu “Soel” của Philippin... Bên cạnh đó, Mêhicô, Canađa và các nước vùng Caribê đang là các quốc gia có xu thế và điều kiện thuận lợi để gia tăng xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ trong những năm tới đây, sẽ là những đối thủ cạnh tranh mạnh mẽ nhất trong rất nhiều đối thủ cùng cung cấp mặt hàng này cho thị trường Mỹ. * Việt Nam chưa là thành viên của WTO nên không được hưởng lợi ích từ hiệp định ATC (Agreement on Textile and Clothing), Hiệp định điều chỉnh việc xoá bỏ quota áp dụng trong hiệp định Đa Sợi MFA (Multifibre Agreement). Đặc biệt trong tương lai, đến năm 2005, WTO xoá bỏ hoàn toàn hàng rào bảo hộ mậu dịch đối với hàng dệt may. Đến đó, nếu Việt Nam chưa ra nhập WTO thì khó có điều kiện cạnh tranh với các đối thủ khác trên thị trường Mỹ. 4. Cơ chế - chính sách của Nhà nước về quản lý xuất nhập khẩu Xét về mặt cơ sở pháp lý và chính sách, các chính sách quản lý cả vĩ mô và vi mô đều cần phải được cải cách triệt để và toàn diện. Việc cải cách các doanh nghiệp Nhà nước tiến hành chậm, chưa đạt hiệu quả cao như mong muốn. Thị trường tín dụng, tài chính vẫn còn manh nha, nhỏ bé. Việc quản lý đất đai, hình thành khung khổ điều tiết hành chính cũng là một phần của vấn đề đó. Chính sách tỷ giá hối đoái, chính sách tài chinh tín dụng cũng là những vấn đề bức xúc hiện nay. Bên cạnh đó, cải cách doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện cho khu vực tư nhân phát triển một cách hiệu quả là một trong những thách thức lớn của ngành dệt may. Cơ chế quản lý kinh tế nói chung và quản lý xuất nhập khẩu của nước ta nói riêng còn nhiều bất cập, gây khó khăn không nhỏ cho các doanh nghiệp. Quy định thiếu nhất quán, thủ tục phiền hà, đặc biệt là thủ tục miễn giảm thuế quan và thủ tục hoàn thuế nhập khẩu. Doanh nghiệp cần in tên sản phẩm, tên doanh nghiệp, nơi sản xuất lên sản phẩm của mình cũng phải xin giấy phép của Bộ Văn Hoá thông tin để được in và giấy phép nhập khẩu máy in. Hàng dệt may xuất khẩu của ta chủ yếu theo hạn ngạch nhưng cơ chế phân bổ hạn ngạch hiện nay còn nhiều bất hợp lý. Cơ chế phân bổ hạn ngạch đồng đều tuy giải quyết được những vấn đề xã hội nhưng còn nhiều hạn chế về phương diện kinh tế vì các nhà kinh doanh nước ngoài thường muốn ký hợp đồng với một hoặc một số doanh nghiệp có uy tín thay vì phải ký hợp đồng với nhiều doanh nghiệp cùng một lúc. Đó là chưa kể đến sự lãng phí do bỏ lỡ đặc tính “lợi ích tăng theo quy mô” của các doanh nghiệp có quy mô lớn song không đủ hạn ngạch để sản xuất. Khắc phục thiếu sót này, từ tháng 12/1998, việc đấu thầu một phần hạn ngạch dệt may đã được tiến hành thí điểm tạo ra một bước tiến mới trong cơ chế quản lý xuất nhập khẩu. Việc cung cấp các thông tin cần thiết (về thị trường, sản phẩm) cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam từ các cơ quan chức năng là chưa hiệu quả, thiếu một sự chỉ đạo thống nhất, chặt chẽ cấp Nhà nước. Tình trạng này dẫn đến hiện tượng là thông tin thị trường mà các doanh nghiệp có được thường chậm và thiếu chính xác, không đồng bộ ; việc sử dụng các thông tin của nhau cũng rất khó khăn. Đây là một trở ngại lớn, làm giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. 5. Kết luận - bài học kinh nghiệm Thị trường Mỹ là thị trường lớn nhất toàn cầu, không những thị trường có dung lượng lớn, mà hàng nhập khẩu rất đa dạng và phong phú về mẫu mã, chủng loại và chất lượng. Tuy nhiên tính cạnh tranh trên thị trường Mỹ rất quyết liệt vì thị trường Mỹ hoạt động theo cơ chế tự do cạnh tranh, hàng hoá của Mỹ nhập khẩu từ gần 150 nước. Hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam trong những năm qua đưa vào Mỹ mặc dù chưa được hưởng quy chế Tối Huệ Quốc, nhưng có tốc độ tăng khá nhanh về kim ngạch cũng như chủng loại sản phẩm. Tuy nhiên, tính cạnh tranh của hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam không cao hơn so với của các đối thủ cạnh tranh như : Trung Quốc, Thái Lan, Mêhicô, Philippines, ấn Độ... thì khó có thể thâm nhập sâu và rộng vào thị trường này. Cho nên, muốn đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ cần phải áp dụng những giải pháp hợp lý mang tính đặc thù của ngành, vừa phải áp dụng các biện pháp chung mà bất cứ ngành hàng nào muốn đẩy mạnh xuất khẩu cũng phải áp dụng. Ngoài sự nỗ lực của các doanh nghiệp, thì rất cần sự hỗ trợ của Nhà nước để hàng hoá của Việt Nam có chỗ đứng ổn định và vững chắc trên thị trường Mỹ. Thâm nhập thành công ở thị trường Mỹ, sẽ giúp nền kinh tế Việt Nam hội nhập thành công ở khu vực và toàn cầu. IV. Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ 1. Giải pháp nhằm nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam 1.1 Nâng cao chất lượng và thực hiện đa dạng hoá sản phẩm thông qua việc nâng cao tay nghề công nhân, có chính sách ưu đãi để giữ công nhân giỏi. - Tiếp tục đầu tư để đổi mới trang thiết bị, máy móc ; Đầu tư chiều sâu phải đồng bộ và hoàn thiện cho từng dây chuyền sản xuất để đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm, loại bỏ những thiết bị quá cũ và lạc hậu. Không nhất thiết phải sử dụng những thiết bị thật hiện đại mà tùy thuộc vào điều kiện tài chính, mặt hàng, tính đồng bộ về công nghệ trong dây chuyền để chọn thiết bị đầu tư cho thích hợp. Mặt khác, cần ưu tiên phụ tùng thay thế, công nghệ, thiết bị tạo ra các mặt hàng ưu tiên. Đối với từng chuyên ngành hẹp cần quan tâm: Ngành sợi: Các dây chuyền thuộc thế hệ thập kỷ 60, 70 cần được thay đổi. Các hệ thống máy bông cần được thay đổi trước. Nâng cấp máy chải để đạt độ phân chải cao. Bổ sung hệ thống chải kỹ bông hiện đại cho các dây chuyền làm sợi chất lượng cao. Thay thế bộ kéo dài máy ghép cũ bằng các bộ kéo dài hiện đại, bổ sung máy ghép mới để cân đối dây chuyền. Máy sợi và máy con cần thay thế các bộ kéo dài đã cũ để tăng tốc độ lên 10-15%. Trang bị máy nối vê hiện đại cho các dây chuyền làm sợi cao cấp, sợi cho dệt kim. Xây dựng các buồng bảo trì, sửa chữa nhỏ có trình độ tiên tiến được trang bị máy đủ chính xác. Hướng chọn thiết bị, công nghệ, phụ tùng cần tập trung vào những nhà máy có dây chuyền làm sợi cao cấp, sợi bông chất lượng cao, dệt sản phẩm xuất khẩu của các nước Tây Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản ... Trong khi đó, các nhà máy làm sợi chi số trung bình, có chất lượng đảm bảo tiêu chuẩn thì chọn thiết bị của châu á. Mặt khác, cũng tùy thuộc vào từng điều kiện cụ thể mà lựa chọn thiết bị, công nghệ phù hợp. Ngành dệt: Đối với dệt thoi, nhất thiết phải trên cơ sở mặt hàng mũi nhọn đã xác định để lựa chọn thiết bị và công nghệ cho phù hợp trên cơ sở 8 nhóm sản phẩm đã hình thành trong những năm qua và những sản phẩm mới theo yêu cầu của thị trường. Do đó, hướng đầu tư là hiện đại hóa công nghệ từng bước, song sản phẩm phải đạt tiêu chuẩn quốc tế. Về máy dệt, đầu tư các thiết bị không thoi hiện đại, giảm dần máy dệt có thoi, nhất là các máy khổ hẹp. Phấn đấu đến năm 2010 chỉ còn một lượng nhỏ máy dệt có thoi dùng để dệt một số mặt hàng truyền thống. Công đoạn hồ mắc các thiết bị cũ phải được thay thế để đạt được trục hồ chất lượng cao cung cấp cho dệt hiện đại. Đối với dệt thoi, cho đến nay ngành dệt kim Việt nam có 4 loại thiết bị: dệt kim tròn, dệt kim đan dọc, dệt kim phẳng, dệt kim bít tất. Song để có được sản phẩm dệt kim hoàn chỉnh phải đặc biệt quan tâm đến hai khâu nhuộm - xử lý hoàn tất và cắt - may. Từ nay đến năm 2005, Ngành dệt Việt nam cần thay thế toàn bộ thiết bị cũ, bổ sung nâng cấp một số thiết bị còn sử dụng được. Đầu tư đồng bộ một số dây chuyền sản xuất công nghệ tiên tiến để làm một số mặt hàng chủ yếu theo từng vùng qui hoạch làm nòng cốt cho từng khu vực. Hơn thế nữa, từng bước đầu tư các thiết bị xử lý hoàn tất để nâng cao chất lượng và giá trị sản phẩm theo yêu cầu của thị trường. Đến năm 2010, Ngành dệt cần hoàn thiện thiết bị cũng như công nghệ trong toàn Ngành đối với các doanh nghiệp lớn và sản xuất hàng xuất khẩu. Ngành nhuộm - xử lý hoàn tất: Đây là công đoạn quan trọng nhất trong Ngành dệt, ngoài yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm, giá trị của sản phẩm được quyết định bởi khâu xử lý hoàn tất. Do vậy, lựa chọn thiết bị - công nghệ ở công đoạn này cần được đặc biệt quan tâm và đầu tư thích đáng. Muốn chất lượng sản phẩm cao và nâng cao giá trị mặt hàng phải nhanh chóng đổi mới thiết bị và công nghệ nhuộm - xử lý hoàn tất. Ngành may: Công nghệ Ngành may cần được đầu tư, nâng cấp để theo kịp các nước trong khu vực và đảm bảo yêu cầu của thị trường. Đối với Ngành may, thị trường mẫu mốt thay đổi rất nhanh và nhạy cảm. Vì vậy, công nghệ và thiết bị phải đáp ứng được những yêu cầu thay đổi nhanh chóng của thị trường. Đối với khâu sản xuất, áp dụng đưa thiết kế giác sơ đồ trên máy tính, máy trải vải tự động và khâu cắt cho các doanh nghiệp lớn. Thay đổi, bổ sung các máy ép dính có chất lượng cao cũng như trang bị các máy cắt tự động theo chương trình, cắt bằng tia laze. Đối với khâu ráp sản phẩm, thay mới các máy may công nghiệp và may chuyên dùng có thời gian sử dụng trên 10 năm. Tăng tỷ lệ các máy may có cắt chỉ, lại mũi tự động. Đưa thiết bị tự động có chuyên môn hóa cao vào các dây chuyền sản xuất. Đối với khâu hoàn thiện sản phẩm, đầu tư cho các dây chuyền các loại máy: thùa khuyết, đính cúc tự động, máy là ép định hình sản phẩm, thiết bị là ủi chất lượng cao. Đầu tư thêm một số phân xưởng giặt mài hoàn thiện sản phẩm dệt may. Nói cách khác, trong hoạt động đầu tư chiều sâu, cần đầu tư các nhà máy mới trong toàn Ngành tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao, nâng cao trình độ quản lý, trình độ chuyên môn kỹ thuật, trình độ công nghệ, tay nghề công nhân, vươn lên tiếp cận thị trường tiến tới hòa nhập dần vào khu vực và thế giới. Đây cũng là một bước thực hiện chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo nghị quyết của Đảng đã đề ra. Ngành công nghiệp dệt may phát triển sẽ kéo theo và giúp một số ngành khác cùng phát triển theo như: cơ khí, giao thông, dịch vụ thương mại ... Ngành dệt may phát triển sẽ tạo ra một số sản phẩm công nghiệp dệt mới phục vụ lại cho các ngành khác, giảm kim ngạch nhập khẩu cho đất nước. Do đặc thù của các doanh nghiệp dệt may phần lớn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tổ chức sản xuất có hiệu quả cao nhưng có thể gặp khó khăn trong tìm kiếm thị trường và giao dịch xuất khẩu. Giải pháp cho vấn đề này có thể là hình thức tổ chức sản xuất liên kết dọc theo kiểu vệ tinh: một công ty mẹ với nhiều công ty vệ tinh cùng sản xuất một loại sản phẩm. Công ty mẹ sẽ chịu trách nhiệm đặt hàng và cung ứng nguyên phụ liệu cho các công ty con, sau đó thu gom và xuất khẩu dưới nhãn hiệu của một công ty lớn, đảm bảo về thị trường tiêu thụ ổn định. Hình thức tổ chức này có thể là giải pháp cho vướng mắc hiện nay của các doanh nghiệp nhỏ khi chế độ đấu thầu hạn ngạch được áp dụng. Công ty mẹ sẽ đứng ra đấu thầu và phân bổ hạn ngạch cho các vệ tinh của mình. Quan hệ mật thiết hơn giữa công mẹ và các vệ tinh có thể là hình thức thay thế tốt hơn cho hình thức xuất khẩu ủy thác hiện đang được áp dụng ở một số doanh nghiệp may xuất khẩu. Nó cho phép gom những lô hàng lớn, thuận tiện hơn cho người nhập khẩu như hiện nay, khách hàng đặc biệt là các nhà nhập khẩu Đức thường xuyên yêu cầu, đồng thời giảm được chi phí về thủ tục xuất khẩu. - Quan tâm thoả đáng để đầu tư vào công nghiệp thiết kế thời trang, có chính sách khuyến khích và hỗ trợ cho các công ty may lớn đầu tư vào máy tính trợ giúp thiết kế và sản xuất - công nghệ CAD - CAM (Computer Added Design - Computer Added Manufacturing); công nghệ CAD - CAM có nhiều công dụng : vẽ phác thảo trên máy, tạo ra những mẫu cắt chính xác, mô tả được chất liệu vải, tạo ra bản vẽ kỹ thuật đầy đủ... Việc sử dụng loại máy này giúp doanh nghiệp tạo ra được những mẫu mã đáp ứng yêu cầu đa dạng của thị trường Mỹ. - Tạo những thương hiệu sản phẩm may có uy tín; - Chú ý đến tính độc đáo của sản phẩm thông qua việc sử dụng chất liệu thổ cẩm, sản phẩm thêu tay, đan, ren...; - Chú ý đến chất liệu làm ra sản phẩm may : đa số người Mỹ có sở thích tiêu dùng hàn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0716.doc
Tài liệu liên quan