MỤC LỤC
Lời nói đầu . 4
Phần nội dung . 6
Chương 1: Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về mối liên hệ phổ biến . 6
1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến . 6
2. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến đòi hỏi phải rút ra quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử cụ thể .8
Chương 2: Biện chứng giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế .9
1. Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế-xu thế, thời cơ và thách thức 9
2. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, tạo thế cân bằng giữa lợi ích của quốc gia dân tộc với lợi ích kinh tế toàn cầu .15
3. Hội nhập kinh tế và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ là mối liên hệ phổ biến mang tính khách quan .17
Chương 3: Hội nhập kinh tế và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ở nước ta hiện nay .17
1. Tình hình kinh tế nước ta hiện nay .17
2. Nước ta xác định: “ phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực từ bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững” .20
3. Giải Pháp .21
Lời kết 24
Các tài liệu tham khảo .25
35 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1515 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Biện chứng giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhau, của tất cả các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên thế giới, làm nổi bật hàng loạt biến cố có quan hệ lẫn nhau mà từ đó chúng có thể phát sinh một loạt điều kiện mới. Toàn cầu hóa khiến cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt, làm sâu sắc hơn sự chuyên môn hóa và phân công lao động quốc tế, kích thích gia tăng sản xuất không chỉ ở cấp độ quốc gia mà còn mở rộng ra trên toàn thế giới.”
Khái niệm trên đưa đến cho chúng ta nhận thức rằng, TCH đang “đụng chạm” đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, nhưng biểu hiện rõ nhất là toàn cầu hóa về kinh tế. Vậy TCH bắt nguồn từ đâu? Do điều kiện khách quan hay cho ý muốn chủ quan của con người? Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu ở phần tiếp theo này.
Nguyên nhân của toàn cầu hóa:
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, TCH nói chung bắt nguồn từ những giao lưu văn hóa, từ buôn bán, di dân, từ sự mở rộng các tôn giáo ra ngoài phạm vi biên giới các quốc gia và cho đến nay là sự phát triển của một loạt các công ty xuyên quốc gia, các ngân hàng và các tổ chức quốc tế, là sự trao đổi công nghệ, sự phát triển gắn với hiện đại hóa…
Gốc rễ xâu xa củaTCH, làm cho sự xuất hiện và biến đổi của nó trở thành một xu thế khách quan và phổ biến với đời sống quốc tế là ở sự phát triển của lực lượng sản xuất đã vượt ra khỏi khuôn khổ của từng nước, từng khu vực, trở thành lực lượng sản xuất có tính chất quốc tế và quy mô thế giới. Chúng ta không thể phủ nhận rằng, ở khắp mọi nơi, trong từng văn phòng, trong từng công ty, các viện nghiên cứu, các trường đại học trên toàn thế giới người ta đang soạn thảo các báo cáo, văn bản với một công cụ hỗ trợ giống nhau là một máy tính cá nhân với phần mềm Microsoft Word, quản lý thống kê tài chính với phần mềm Excel…, ở bất cứ một bệnh viện nào trên toàn cầu người ta cũng thấy có các máy chụp X-quang cắt lớp, các dao phẫu thuật sử dụng tia laze, các thiết bị nội soi…, các nhà quản lý kinh tế đều được trang bị những kiến thức như nhau để quản lý và điều hành các công ty…Có thể nói, lực lượng sản xuất đã mang tính xã hội hóa trên toàn thế giới.
Nguyên nhân thứ hai của TCH là phân công lao động quốc tế đã đạt tới trình độ rất cao, không chỉ giới hạn ở chuyên môn hóa sản phẩm mà đã là chuyên môn hóa các chi tiết sản phẩm cho mỗi quốc gia. Phương châm kinh doanh lấy thế giới làm nhà máy của mình, lấy các nước làm phân xưởng của mình, mà qua đó phân công lao động quốc tế có thể lợi dụng được ưu thế kĩ thuật, tiền vốn, sức lao động và thị trường của các nước, góp phần thúc đẩy quốc tế hóa sản xuất phát triển lên nhanh chóng. Thí dụ, một loại xe của hãng Toyota, mặc dù sản xuất tại Nhật Bản nhưng có đến 25% linh kiện được sản xuất ngoài nước.
Việc phát triển lực lượng sản xuất và phân công lao động trên phạm vi quốc tế có sự đóng góp rất lớn của những thành tựu KHCN và sự tích tụ, tập trung sản xuất. Cách mạng khoa học-công nghệ hiện nay, đặc biệt với các ngành công nghệ mũi nhọn như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới và công nghệ tự động hóa đã và đang thúc đẩy sự phát triển vượt bậc của lực lượng sản xuất. Giao thông vận tải và thông tin liên lạc cũng đang ngày càng phát triển, góp phần không nhỏ tạo nên thị trường thế giới mà ở đó có sự phụ thuộc lẫn nhau một cách tất yếu giữa các nền kinh tế, giữa các quốc gia dân tộc.
Cùng với các nhân tố nêu trên, sự xuất hiện và bành trướng của các công ty xuyên quốc gia với những lợi thế về quy mô vốn lớn, kĩ thuật hiện đại, quản lý tiên tiến và mạng lưới thị trường rộng lớn, chi phối hầu hết các hoạt động đầu tư nước ngoài cũng là một nhân tố làm xuất hiện và phát triển mạnh mẽ xu thế toàn cầu hóa. Hoạt động của các công ty xuyên quốc gia cho phép họ lựa chọn các nguồn nguyên liệu, mở rộng sản xuất và chinh phục thị trường các nước khác, đồng thời thích ứng được với những điều kiện không ngừng thay đổi. Theo thống kê của Liên Hợp Quốc, năm 1996, thế giới có 44.000 công ty xuyên quốc gia, theo đó có vào khoảng 28 vạn công ty con, tổng giá trị sản xuất chiếm 40% GDP thế giới, mậu dịch chiếm 50% của thế giới, tổng kim ngạch tài sản năm 1996 lên đến 3200 tỷ USD, đầu tư trực tiếp nước ngoài của các công ty này chiếm đến 90% đầu tư trực tiếp của thế giới. Bên cạnh đó, để tồn tại và phát triển được trong cạnh tranh, hiện nay cũng có nhiều công ty tìm đến con đường là sát nhập để tăng vốn và mở rộng thị trường. Chẳng hạn như vụ sát nhập của 3 ngân hàng lớn ở Nhật Bản vào tháng 8-1999 với số vốn lên đến 1200 tỷ USD đã bằng tổng giá trị vốn sát nhập của 7700 vụ sát nhập năm 1998.
Nguyên nhân tiếp theo dẫn đến TCH là tự do hóa thương mại và các hình thức tự do kinh tế khác, đã khiến các quốc gia phải hạn chế chính sách bảo hộ mậu dịch và làm cho mậu dịch thế giới trở nên tự do hơn. Kết quả là biểu giá giảm mạnh, nhiều rào cản thuế quan trong buôn bán hàng hóa và dịch vụ bị loại bỏ. Các hình thức tự do hóa khác đã làm gia tăng sự chuyển dịch vốn vào các yếu tố sản xuất còn lại.
Sự phát triển của toàn cầu hóa còn là do có sự đồng thuận toàn cầu giữa các quốc gia dân tộc không kể chính trị xã hội về kinh tế thị trường và hệ thống mậu dịch tự do. Điểm khởi đầu của sự việc này được đánh dấu bằng cuộc cải cách được tuyên bố ở Trung Quốc vào năm 1978 và sau là sự kết thúc chiến tranh lạnh. Quá trình này dẫn đến một tư tưởng: thay cho mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường của các nước tư bản Phương Tây và kinh tế XHCN ở Liên Xô cũ và một số các nước ở Phương Đông, trên thực tế hiện nay chỉ còn tồn tại cách nhìn thống nhất toàn cầu về hệ thống kinh tế thị trường, tạo điều kiện rất thuận lợi cho TCH kinh tế.
Sự liên kết kinh tế giữa các quốc gia khiến cho một loạt các tổ chức kinh tế, thương mại, tài chính ra đời. Đó là tổ chức thương mại thế giới WTO, qũy tiền tệ thế giới IMF, ngân hàng thế giới WB, liên minh Châu Âu EU, khu vực thương mại tự do bắc Mỹ NAFTA, liên minh các nước Đông nam á ASEAN…Thông qua các tổ chức kinh tế, thương mại tài chính này, qui mô lưu thông vốn quốc tế phát triển chưa từng thấy, tốc độ tăng trưởng mậu dịch thế giới vượt xa tốc độ tăng trưởng kinh tế; các lĩnh vực hợp tác trong kinh tế không ngừng phát triển. Bên cạnh đó, nhờ các thể chế riêng, các tổ chức này cũng góp phần bảo vệ quyền lợi cho các thành viên. Do đó, việc liên kết kinh tế giữa các quốc đã và đang trở thành một xu hướng chung.
Quá trình liên kết về kinh tế hiện đại tác động đến lĩnh vực chính trị, dẫn đến sự hình thành các tổ chức phi chính phủ mà lớn nhất là Liên Hợp Quốc. Liên Hợp Quốc cùng với các tổ chức của nó như: WHO (tổ chức y tế thế giới), FAO (tổ chức lương thực thế giới, UNESCO (tổ chức văn hóa thế giới), UNICEF (tổ chức về vấn đề trẻ em Liên Hợp Quốc)…đang có ảnh hưởng lớn đến tất cả các khu vực, các nước trên phạm vi toàn cầu. Các tổ chức này cùng với các nước thành viên góp phần giải quyết các vấn đề mang tính chất toàn cầu như bùng nổ dân số, HIV/AIDS…
Như vậy, toàn cầu hóa kinh tế là kết quả tất yếu của quá trình xã hội hóa sản xuất, của trình độ phát triển nhanh của lực lượng sản xuất, bắt nguồn từ sự thúc đẩy của khoa học, kĩ thuật, và công nghệ hiện đại; nó là kết quả tất yếu của sự phát triển sâu rộng kinh tế thị trường trên phạm vi toàn thế giới, sự gia tăng phân công lao động quốc tế, sự mở rộng cao hơn nữa trong không gian và thời gian các mối quan hệ giao lưu phố biến của loài người và sự hiện diện nóng bỏng của những vấn đề cấp bách. Nói cách khác, nó là kết quả của các quá trình tích lũy về số lượng đã tạo ra một khối lượng tới hạn để số lượng biến thành chất mới; xu hướng quốc tế hóa, khu vực hóa đã chuyển thành xu hướng toàn cầu hóa trong thời đại ngày nay.
1.3 Sự tác động của TCH đến nền kinh tế các quốc gia:
Mặc dù TCH kinh tế đang trở thành một xu thế trên thế giới hiện này tuy nhiên hệ quả của TCH thì vô cùng phức tạp, có mặt tích cực và mặt tiêu cực, mang lại những thời cơ đồng thời cũng đặt ra không ít thách thức với mọi quốc gia.
1.3.1 Tác động tích cực của toàn cầu hóa:
Toàn cầu hóa thúc đẩy sự phát triển và xã hội hóa các lực lượng sản xuất, đem lại sự tăng trưởng kinh tế cao. Toàn cầu hóa đã làm tăng nhanh tổng sản lượng thế giới: ngày nay tổng sản phẩm thế giới ước đạt 30.000tỷ USD, tăng 23 lần tổng sản phẩm thế giới vào cuối những năm 50 của thế kỉ XX (1300 tỷ USD). Bên cạnh đó, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng có những thay đổi cơ bản tích cực: tỉ trọng nông nghiệp giảm xuống, tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng lên. TCH còn làm tăng năng xuất lao động nhờ hợp lý hóa sản xuất cũng như áp dụng được các thành tựu KHCN.
TCH kinh tế thúc đẩy quá trình tự do hóa thương mại, nhờ đó mà làm giảm hoặc hủy bỏ các rào cản thương mại, làm cho hàng hóa của mỗi nước có thị trường tiêu thụ quốc tế rộng hơn, do đó kích thích sản xuất phát triển. Cũng nhờ vậy mà thúc đẩy phân công lao động quốc tế theo hướng chuyên môn hóa, làm cho các nguồn lực ở mỗi nước và trên thế giới được sử dụng hợp lý và có hiệu quả cao hơn.
Tự do hóa thương mại đặt ra cho các doanh nghiệp phải tiến hành cải cách sâu rộng để nâng cao sức cạnh tranh và hiệu qủa kinh tế, phát huy lợi thế của mình và hạn chế những rủi ro, thách thức trong cuộc cạnh tranh quốc tế khốc liệt. Nhìn chung các nước phát triển thường có lợi thế hơn do họ có nến kinh tế mạnh, khả năng cạnh tranh lớn, lại nắm trong tay các công nghệ cao, vốn lớn, lao động có trình độ tay nghề cao…Trong khi đó các nước đang phát triển thì ở vào vị trí khó khăn hơn vì nền kinh tế còn kém phát triển, khả năng cạnh tranh yếu, vốn ít, trình độ công nghệ thấp…Song, các nước này nếu biết lợi dụng những ưu thế của mình, phát huy nội lực, tranh thủ kĩ thuật cao, “đI tắt đón đầu” thì vẫn đạt được những tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Các nước NIC là những thí dụ. Có những thời kì, các nước này đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế hơn 8% chủ yếu do biết tận dụng được những mặt tích cực của tự do hóa thương mại và chính sách hướng vào xuất khẩu.
TCH làm tăng các nguồn chuyển giao vốn và công nghệ. TCH làm tăng các hoạt động đầu tư quốc tế, chủ yếu là FDI, chủ thể đầu tư cũng như chủ thể thu hút vốn đầu tư cũng ngày càng đa dạng. TCH cũng thực hiện chuyển giao trên quy mô ngày càng lớn những thành tựu của KHCN cũng như các kinh nghiệm tổ chức, quản lý kinh tế…Nhờ đó mà ngay cả những nước nền kinh tế còn kém phát triển nhưng hoàn toàn có thể đưa vào ứng dụng những thành tựu mới nhất của KHCN vào trong sản xuất hay như có mạng lưới thông tin phát triển không kém bất kì một quốc gia có nền kinh tế phát triển nào.
Không chỉ có thế, sự xích lại gần nhau giữa các quốc gia còn giúp cho việc giải quyết các vấn đề toàn cầu như bùng nổ dân số, các bệnh dịch, ô nhiễm môi trường…Bệnh dịch SARS vừa qua là một ví dụ. Nhờ sự hiệp đồng chặt chẽ giữa các quốc gia mà căn bệnh này đã được ngăn chặn ở nhiều nước và không trở thành một đại dịch lớn, nguyên nhân của căn bệnh cũng nhanh chóng được tìm ra, ngay cả việc giải quyết các hậu quả hậu SARS cũng đang được các nước cùng nhau tiến hành.
1.3.2. Tác động tiêu cực của toàn cầu hóa:
TCH không chỉ đem lại những mặt tích cực mà còn bao hàm trong đó cả những mặt tiêu cực mà hậu quả của nó là những cản trở không nhỏ tới chính sự phát triển kinh tế của các quốc gia.
TCh tất yếu dẫn đến phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội. Nguyên nhân là do các nước tham gia TCH với những điều kiện khác nhau. Các nước tư bản phát triển luôn có thế và lực hơn hẳn các nước đang phát triển. Chính vì vậy, để chạy theo lợi nhuận, họ sẵn sàng sử dụng các luật chơi bất bình đẳng, thuyết phục các nước đang phát triển mở cửa thật nhanh để vào nắm lấy nguồn nguyên liệu, nhân công lao động rẻ mạt và biến các nước này trở thành thị trường tiêu thụ. Không chỉ có thế, các nước này đôi khi còn lợi dụng sự kém phát triển về KHCN của các nước đang phát triển để biến các nước này thành bãi thải công nghiệp cho mình.
Trong cạnh tranh, không những đa phần hàng hóa của các nước kém phát triển không cạnh tranh nổi với các nước phát triển mà ngay cả những hàng hóa có khả năng cạnh tranh cũng vẫn bị các nước tư bản dùng các điều luật riêng để kiềm chế.
TCH kinh tế đồng thời cũng làm bành trướng thế lực của các nước tư bản phát triển, tạo nên sự thách thức mới với nền độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia. Trong quá trình TCH, các nước đều phải cắt giảm hoặc xóa bổ các rào cản thuế quan, vai trò của nhà nước bị thu hẹp, mậu dịch quốc tế diễn ra nhanh hơn nhưng nguy cơ bị thôn tính thì luôn thường trực. Đơn cử như cuộc chiến tranh Iraq năm 2003 do Mỹ và Anh thực hiện, với cái cớ là tiêu hủy vũ khí hủy diệt nhưng cũng không thể phủ nhận một trong những động cơ đằng sau là muốn bành trướng sức mạnh kinh tế và thế lực quân sự trên toàn cầu.
TCH kinh tế buộc các quốc gia phải nương tựa vào nhau để phát triển kinh tế trong khi sự vận động của các nguồn vốn lại chưa được kiểm soát do đó nếu kinh tế trong nước không vững vàng thì việc lâm vào nguy cơ khủng hoảng kinh tế là không thể tránh khỏi. Khủng hoảng tài chính tiến tệ Châu á 1997 là một ví dụ. Hậu quả của nó vô cùng to lớn và khắc phục kinh tế sau đó cũng không mấy dễ dàng, thậm chí đẩy các nước này về con số không.
TCH không chỉ làm cho nền kinh tế trở nên bất ổn định mà còn làm cho quan hệ giữa các nước có cùng lợi ích kinh tế trở nên ngày càng căng thẳng đặc biệt là các nước đang phát triển đang cần vốn, kĩ thuật để phát triển kinh tế. Đây cũng là điều mà các nước tư bản phát triển muốn tận dụng để đưa ra những tiêu chí nhằm có lợi cho mình.
Có thể nói rằng TCH kinh tế đã đem lại không ít lợi ích nhưng cũng không thể phủ nhận mặt tiêu cực mà TCH đem lại và người phải chịu những hậu quả này không ai khác là các người dân ở những nước đang và kém phát triển. Chính bởi vậy mà hiện nay các cuộc biểu tình chống toàn cầu hóa đang ngày càng tăng lên. Chỉ tính riêng ở hội nghị các nước G8 diễn ra ở Pháp vào cuối tháng 5/2003, hàng chục nghìn người đã biểu tình để phản đối mặt trái của TCH. Đây là một điều cần phải suy nghĩ!
1.4. Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đang trở thành một xu thế khách quan của thời đại:
Mặc dù TCH hàm chứa nhiều tiêu cực nhưng cũng phải thừa nhận rằng, TCH là một xu thế khách quan tất yếu mà không có bất kì quốc gia nào muốn đứng ngoài.
Không thể phủ nhận rằng TCH kinh tế thế giới hiện nay đang bị các nước tư bản phát triển chi phối. Tuy nhiên chúng ta phải thấy rằng TCH kinh tế hiện nay về bản chất không hoàn toàn thuộc về các nước tư bản phát triển mà là do yêu cầu nội tại của sự phát triển của lực lượng sản xuất. Thứ nhất, lực lượng sản xuất ngày càng mang tính chất xã hội hóa, quốc tế hóa cao đòi hỏi quan hệ sản xuất phải được mở rộng ra trên phạm vi toàn thế giới từ sở hữu, tổ chức quản lí sản xuất đến phân phối tiêu dùng.
Thứ hai, do sự phát triển như vũ bão của KHCN nhất là công nghệ thông tin, hệ thống Internet đang bao trùm toàn cầu làm cho sức sản xuất và mối liên hệ giữa các dân tộc, các quốc gia và các khu vực ngày càng được đẩy mạnh.
Thứ ba là do sự phát triển của kinh tế thị trường và quy luật sản xuất hàng hóa đòi hỏi phải mở rộng thị trường đầu tư và tiêu thụ, phá bỏ mọi rào cản, thực hiện chuyên môn hóa và phân công lao động xã hội cao trên phạm vi quốc tế. Ngày nay một sản phẩm hàng hóa thường là kết quả của sự hợp tác, phân công lao động xã hội, chuyên môn hóa cao trên phạm vi toàn cầu.
Tất cả các quốc gia trên thế giới dù phát triển hay không phát triển cũng đều dành ưu tiên cho phát triển kinh tế bởi muốn giữ vững được an ninh trật tự, muốn có vị thế trên trường quốc tế cần có được một địa vị kinh tế nhất định.
Vậy là, thay cho sự tự cô lập trước kia, ta thấy mối liên hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến giữa các quốc gia dân tộc. Sự phụ thuộc này là hoàn toàn khách quan tất yếu. Có người đã ví rằng, TCH hiện nay như là một cuộc hành quân ô hợp. Trong cuộc trường chinh này, Mỹ và các nước phương tây là những kẻ giàu có ngồi trên những chiếc xe hơi sang trọng và đắt tiền (sức mạnh kinh tế), với đám vệ sĩ xung quanh (sức mạnh quân sự), các nước bậc chung là những kể ngồi trên lưng những con lạc đà, hai bên treo những túi lớn nhỏ với thái độ cảnh giác cao độ sợ bị cướp mất, các nước nghèo, chậm phát triển thì như những kẻ đang gồng gánh, cố bước theo sau. Thoáng nhìn người ta tưởng rằng vị thế trung tâm phải là các nước tư bản phát triển nhưng thực sự giữa những kẻ giàu có ở đầu hàng và những kẻ khổ sai phía sau lại có quan hệ cộng sinh với nhau. Chính những kẻ khổ sai này lại mang vác những chiến lợi phẩm vô cùng quí giá mà các nước tư bản phát triển không thể chiếm không được như nguyên liệu, dầu mỏ… Tuy nhiên những kẻ khổ sai này vẫn phải cần mẫn bước theo đoàn quân bởi có thế thì mới có được rượu vang (viện trợ kinh tế, đầu tư trực tiếp…), nếu không sẽ bị bỏ đói nơi xa mạc (cấm vận kinh tế) hoặc bị tiêu diệt (tấn công quân sự lật đổ). Chính bởi vậy mà dù cuộc hành quân còn chứa nhiều mâu thuẫn nhưng xét cho cùng sự phụ thuộc phổ biến giữa các quốc gia là tất yếu.
2/ Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, tạo thế cân băng giữa lợi ích quốc gia dân tộc với lợi ích kinh tế toàn cầu.
2.1. Bản chất của nền kinh tế độc lập tự chủ:
Nếu như CNDVBC khẳng định sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng thì đồng thời cũng lại khẳng định rằng sự tác động lẫn nhau giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, các thuộc tính, các mặt khác nhau của một sự vật mới giữ vai trò quyết định đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật đó. Tức là khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của nhân tố bên trong.
Có nhiều quan niệm khác nhau về nền kinh tế độc lập tự chủ tuy nhiên quan niệm về nền kinh tế độc lập tự chủ trong thời gian trước đây và hiện nay có những nét khác nhau. Nếu như trước kia khái niệm về nền kinh tế độc lập tự chủ làm người ta liên tưởng đến một nền kinh tế khép kín, tự lực cánh sinh, biệt lập, ít giao lưu và kém hiệu quả thì ngày nay, khái niệm này được hiểu một cách mềm dẻo, linh hoạt hơn.
Nền kinh tế độc lập tự chủ là một nền kinhtế có thể tự thân vận động, sử dụng và phát huy được nội lực, chủ động hội nhập vào kinh tế thế giới, đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ, không bị lệ thuộc vào bất cứ ai, bất cứ thế lực nào, có khả năng đối phó với những thử thách, tác động tiêu cực từ bên ngoài.
Việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ được đặt ra trong thời điểm này cũng thực sự bắt nguồn từ chính yêu cầu của quá trình TCH và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Thực tiễn cho thấy nếu không có một nền kinh tế độc lập tự chủ thì sẽ không thể có sự độc lập về chính trị, không đảm bảo được những lợi ích của dân tộc cũng như chủ quyền quốc gia và ngay cả sự hội nhập kinh tế quốc tế cũng không đem lại kết quả như mong muốn.
2.2. Sự cần thiết phải xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ.
Tất cả các quốc gia tham gia HNKT đều vì lợi ích của quốc gia dân tộc mình chứ tuyệt nhiên không vì lợi ích của đối tác.Tuy nhiên những lợi ích có được thông qua TCH không phải tự nhiên mà có, nó mới chỉ ở dạng tiềm năng còn có trở thành hiện thực hay không thì còn phụ thuộc rất nhiều vào nội lực của nền kinh tế. Nước nào mạnh hơn, nước đó sẽ thu được nhiều lợi thế hơn. HNKT là quan trọng, là động lực nhưng không phải động lực chủ yếu để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mỗi nước. Các nhà quản lí kinh tế Trung Quốc đã đưa ra một sự khái quát: nếu các nước tính toán và có thực lực mạnh thì trong quá trình HNKT có thể được 7 mất 3, nếu thực lực là trung bình thì có thể được 5 mất 5, còn nếu thực lực yếu thì được 3 mất 7 hoặc được ít hơn nữa hay mất nhiều hơn nữa. Trên thực tế đã có rất nhiều nước tham gia vào quá trình HNKT quốc tế, tham gia các tổ chức tài chính, thương mại quốc tế từ lâu những nền kinh tế vẫn nằm trong tình trạng trì trệ, thậm chí bị phụ thuộc, mất tự do còn tăng lên.
TCH, tự do hóa kinh tế vừa tạo ra sự hợp tác, phụ thuộc lẫn nhau nhưng đồng thời cũng tạo nên sự cạnh tranh khốc liệt và rất không cân sức giữa các nền kinh tế. Sự cạnh tranh đó gay gắt đến mức có thể gây ra mất ổn định về kinh tế và chính trị giữa các nước, thậm chí có thể chuyển thành xung đột. Chính vì lẽ đó, các nước đều nhận thấy không thể ngồi yên chờ đợi, thụ động chịu tác động của TCH kinh tế mà phải chọn lựa cho mình các chiến lược, chính sách để sao cho vừa HNKT quốc tế, vừa nâng cao năng lực nội sinh để có thể bảo vệ cho nền kinh tế của mình, lại chiếm giữ được những vị thế kinh tế nhất định, từ đó có thể chi phối được nền kinh tế của các nước khác và nền kinh tế thế giới. Như vậy có thể thấy mỗi nước không thể thực hiện những mục đích đề ra nếu không có một nền kinh tế đủ mạnh của chính mình.
TCH kinh tế hiện nay ẩn chứa những vấn đề bất ổn, bất lường thậm chí bất công mà khả năng phòng tránh khắc phục nó phụ thuộc rất nhiều vào nền kinh tế của các quốc gia. TCH kinh tế buộc kinh tế các nước phải lệ thuộc vào nhau, do đó mà nguy cơ khủng hoảng kinh tế , tài chính tiền tệ là rất lớn. Một trong những bài học kinh nghiệm sâu sắc rút ra là từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á năm 1997-1998, là sự phụ thuộc về vốn, thị trường nước ngoài, công nghệ và sự đầu cơ trục lợi của các nhà kinh doanh tiền tệ thông qua thị trường chứng khoán và các nguồn vốn ngắn hạn. Hay sự khủng hoảng kinh tế của Achentina năm 2002 là hậu quả của một nền kinh tế “bong bóng”, phụ thuộc quá nhiều vào kinh tế Mỹ.
Không những thế những thay đổi, những diễn biến trong đời sống chính trị cũng ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống kinh tế. Chẳng hạn như sự kiện 11-9-2001 ở Mỹ hay chiến tranh Iraq năm 2003, đã làm cho kinh tế không ngừng biến động. Trước những nguy cơ tiềm ẩn đó nếu không xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ thật vững vàng thì nguy cơ lâm vào khủng hoảng kinh tế là không thể tránh khỏi.
Đối với nhiều nước ngay cả với những nước tư bản chủ nghĩa thì phát triển kinh tế không phải là mục đích duy nhất mà còn phải tăng phúc lợi xã hội và nâng cao mức sống người dân. Nhưng các nước khi tham gia HNKT thì đều phải dốc hết nguồn lực và ngân sách để nâng cao sức cạnh tranh, do đó duy trì nền kinh tế độc lập tự chủ trở nên cần thiết hơn bao giờ hết.
Khi tham gia TCH cần phải thực hiện chuyển giao công nghệ. Nhưng muốn thực hiện chuyển giao công nghệ hiện đại thì trước hết mỗi nước cần phải đạt đến một trình độ công nghệ nhất định và phải hạn chế được những rào cản mà các công ty độc quyền trong lĩnh vực công nghệ đưa ra. Điều này thì không thể trông chờ những nguồn lực từ bên ngoài mà phải phát huy nội lực bên trong.
TCH không phải là một quá trình bất biến. Theo thời gian, ứng với mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, kinh tế thế giới phát triển theo những xu hướng khác nhau. Do đó xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ một cách mềm dẻo, linh hoạt luôn là một sự lựa chọn sáng suốt.
3. Hội nhập kinh tế quốc tế và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ là mối liên hệ phổ biến mang tính khách quan
Qua sự phân tích ở trên ta thấy rằng toàn cầu hóa sở dĩ có sức mạnh như vậy vì nó gắn liền với xu thế vận động khách quan của nền sản xuất xã hội. Tuy nhiên đây là một quá trình khách quan trong sự phát triển của xã hội nên nó phải được thể hiện thông qua hoạt động chủ quan của con người. Hiện nay, tất cả các quốc gia trên thế giới đều chủ động hội nhập kinh tế quốc tế bởi đó là con đường để tháo gỡ những khó khăn trong nước, để có nền kinh tế phát triển cao. Đó là quá trình sử dụng ngoại lực để thúc đẩy nội lực phát triển.
Khẳng định vai trò của TCH, ta lại thấy được tầm quan trọng của xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ. Chính nền kinh tế độc lập tự chủ sẽ tạo tiền đề cho hội nhập kinh tế quốc tế, hạn chế được những mặt trái của TCH, xây dựng một nền kinh tế phát triển bền vững, ổn định. Là quá trình phát huy nội lực để sử dụng có hiệu quả ngoại lực.
Chương 3: Hội nhập kinh tế và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ở Việt Nam
1/ Tình hình nước ta hiện nay:
Những thành tựu đã đạt được:
Có thể nói trong hơn mười năm đổi mới, nhờ có những chính sách và hướng đi đúng đắn của Đảng và nhà nước mà kinh tế nước ta đã không ngừng phát triển. Bình quân GDP giai đoạn 1991-2000 đạt 7.6%, đói nghèo giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 37% năm 1998. Bên cạnh đó cuộc sống của người dân ngày càng được cải thiện. Theo báo cáo về phát triển con người năm 2001 của Liên Hợp Quốc, chúng ta đã tiến hành phổ cập giáo dục được 94% dân số, tuổi thọ trung bình là 67,8 tuổi, xếp thứ 102 trong số 162 nước được xếp hạng-một vị trí cao hơn rất nhiều so với các nước có cùng mức GDP. Mặc dù sự kiện 11-9 ở Mỹ, chiến tranh Iraq 2003, và bệnh dịch SARS có ảnh hưởng không nhỏ đến kinh tế toàn cầu nhưng tốc độ tăng trưởng GDP của chúng ta năm 2002 vẫn đạt 7.04% (đứng thứ hai trong khu vực Châu á-Thái Bình Dương) và 6.88 % vào quý I năm 2003, báo hiệu một giai đoạn phát triển khởi sắc cho kinh tế nước ta.(Bảng 1) Bên cạnh đó, cơ cấu kinh tế cũng đang chuyển dịch theo hướng tích cực: tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ tăng lên, tỉ trọng nông nghiệp giảm xuống(Bảng 2).
Với điều kiện thiên nhiên thuận lợi, nguồn nhân công rẻ, chính trị ổn định chúng ta đã không ngừng thu hút được vốn đầu tư nước ngoài để phát triển kinh tế và thực hiện chuyển giao công nghệ. Tính đến tháng 6-2002, chúng ta đã có 3348 dự án FDI đưa vào thực tiễn, với tổng vốn đạt 38,58 tỷ USD, chiếm 13% GDP.
Có được những thành tựu như vậ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29958.doc