MỤC LỤC
I. BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU . 1
1. Biến đổi khí hậu là gì? . 1
2. Biểu hiện của thay đổi khí hậu . 1
3. Nguyên nhân gây ra biến đổi khí hậu . 1
4. Hiện tượng và bản chất tăng nhiệt độbềmặt trái đất . 8
5. Hiện tượng và bản chất dâng cao m ực nước đại dương . 10
II. ẢNH HƯỞNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ĐỐI VỚI VIỆT NAM . 11
1. Biến đổi khí hậu và những ảnh hưởng đến đời sống của con người. 13
2. Biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp. 14
3. Biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến các tỉnh ven biển Việt Nam. 17
III. NHỮNG VIỆC LÀM CẤP THIẾT ĐỂNGĂN NGỪA VÀ ĐỐI PHÓ
VỚI SỰBIẾN ĐỔI KHÍ HẬU . 21
26 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 23479 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Biến đổi khí hậu toàn cầu và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến suy thoái các nguồn tài nguyên thiên nhiên và đói nghèo ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
9
hiện tượng vỏ Trái đất ấm lên ? Dưới đây tổng hợp những kiến giải chính rút ra
từ các công trình nghiên cứu và kết quả thảo luận ở các hội nghị quốc tế.
Loại ý kiến thứ nhất được đại đa số các nhà khoa học nhất trí, đó là việc
tăng hàm lượng khí CO2 và các loại khí thải tạo hiệu ứng nhà kính do hoạt động
con người gây ra trong bầu khí quyển Trái đất. Nguyên nhân này chiếm 90,
thậm chí 99% mức gia tăng của nhiệt độ bề mặt Trái đất hiện đang được báo
động. Rõ ràng mối liên quan giữa quá trình gia tăng hàm lượng CO2
và các khí
thải gây hiệu ứng nhà kính do con người gây ra với sự gia tăng nhiệt độ bề mặt
Trái đất đã được minh chứng qua các số liệu mấy thế kỷ và nhất là trong vài
thập kỷ gần đây. Nhiệt độ bề mặt Trái đất có được là nhờ hấp thụ nhiệt từ Mặt
trời và nhận dòng nhiệt của chính mình tỏa ra từ bên trong lòng đất. Sự có mặt
của một hàm lượng khí CO2
cần thiết trong bầu khí quyển vốn là tấm áo giáp
ngăn chặn bức xạ nhiệt (bức xạ hồng ngoại) từ Trái đất thoát vào vũ trụ mênh
mông lạnh lẽo. Thiếu nó thì mặt đất sẽ không có được một nhiệt độ điều hòa cho
sự sinh sôi phát triển sự sống. Các công trình nghiên cứu áp dụng công nghệ
hiện đại cho chúng ta biết suốt thiên niên kỷ trước khi có cuộc cách mạng công
nghiệp, hàm lượng khí CO2
trong khí quyển dao động ở mức 280 phần triệu
(ppm). Tuy nhiên, tính từ đầu thế kỷ XIX đến nay hàm lượng đó đã tăng liên tục
đến 360 ppm. Số liệu quan trắc trong 4 thập kỷ gần đây cho thấy, cứ mỗi thập kỷ
hàm lượng CO2
trong khí quyển lại tăng 4%. Nói cách khác, hiệu ứng nhà kính
do khí CO2
gây ra là quá mức cần thiết, gây tăng nhanh nhiệt độ bề mặt địa cầu
kéo theo nhiều hệ lụy như đã nêu trên. Tôi cho rằng những cứ liệu và luận giải
đã được nêu ra là đầy sức thuyết phục. Điều đáng tiếc là cho đến nay, Hoa Kỳ là
nước xả khí thải gây hiệu ứng nhà kính
nhiều nhất vào khí quyển (trên 30% tổng
khí thải công nghiệp) vẫn chưa phê chuẩn Nghị định thư Kyoto.
Loại ý kiến thứ hai tuy thừa nhận vấn đề gia tăng nhiệt độ do hiệu ứng nhà
kính, song cho rằng cần nhấn mạnh hơn đến chu kỳ nóng lên của Trái đất do
hoạt động nội tại. Hiện tượng nhiệt độ bề mặt Trái đất nóng lên và lạnh đi vốn là
hiện tượng tự nhiên xảy ra có tính chu kỳ trong lịch sử hình thành và phát triển
của Trái đất. Không phải chỉ bây giờ, lịch sử Trái đất hàng triệu triệu năm đã trải
10
qua nhiều lần nóng lên rồi lại lạnh đi kéo theo những biến động to lớn trong đời
sống sinh vật trên Trái đất, làm thay đổi cả diện mạo địa hình lục địa và đại
dương. Tính từ 1,6 triệu năm đến nay đã có 5-6 chu kỳ biến động lớn. Đó là các
thời kỳ băng hà kéo theo mực nước biển hạ thấp (biển lùi) và các thời kỳ gian
băng (băng tan) kéo theo mực nước biển dâng cao (biển tiến). Vào các thời kỳ
băng hà, nhiệt độ bề mặt Trái đất khô lạnh. Vào thời kỳ gian băng nhiệt độ bề
mặt Trái đất đan xen giữa nóng ẩm và khô hạn. Vào các thời kỳ đó, biên độ dao
động của nước biển (dâng, hạ) lên đến hàng chục, hàng trăm mét. Mỗi chu kỳ
kéo dài hàng vạn, chục vạn năm. Mỗi chu kỳ như vậy còn được chia ra các chu
kỳ ngắn hơn với thời gian kéo dài nhiều trăm năm đến nghìn năm với biên độ
dao động mực nước biển 2-3 m hoặc hơn. Khí thải CO2
làm tăng hiệu ứng nhà
kính là hiện tượng do con người gây ra trong mấy trăm năm gần đây. Vì vậy,
theo tôi cả hai nguyên nhân trên đều có cơ sở thực tế và chúng cùng tác động
gây ra tình trạng Trái đất nóng lên một cách bất thường như hiện nay. Do đó,
cần phải nhìn nhận hiện tượng nóng lên của Trái đất hiện nay bằng quan điểm
biện chứng: chu kỳ nóng ấm của Trái đất mang tính nội sinh và ngoại sinh tự
nhiên được đẩy nhanh và trở nên nghiêm trọng hơn do những tác động của khí
thải công nghiệp và hiệu ứng nhà kính.
5. Hiện tượng và bản chất dâng cao mực nước đại dương
Hệ quả đồng hành với việc bề mặt Trái đất nóng lên luôn luôn là sự tan
những khối băng vĩnh cửu ở hai đầu địa cực và trên đỉnh những dãy núi cao.
Nhưng có lẽ chưa bao giờ tốc độ tan băng lại diễn ra với tốc độ nhanh và quy
mô lớn như ngày nay. Thử điểm một vài tin chính: ở Nam Cực, tháng 3/2002,
các nhà khoa học tận mắt chứng kiến khối băng 500 tỷ tấn tan rã thành hàng
nghìn mảnh; ở Bắc Cực, mùa hè 2002, lượng băng tan ở Greenland cao gấp đôi
so với 1992, diện tích băng tan đã lên tới 655.000 m2. Hơn 110 sông băng và
những cánh đồng băng vĩnh cửu ở bang Montana đã biến mất trong vòng 100
năm qua. Các sông băng sẽ hầu như biến mất khỏi dãy Alpes vào năm 2050 (nếu
độ tan chảy duy trì như hiện nay). Mùa hè 2002, các nhà khoa học ghi nhận một
khối băng 3,5 triệu tấn tách ra, gây ra lũ băng từ dãy núi Mali trên đỉnh Kavkaz
11
thuộc Nga. Trong vòng 13 năm gần đây, số băng tan ở châu Âu tăng gấp đôi so
với lượng băng tan của 30 năm trước (1961-1990).
Băng tan và nhiệt độ tăng làm nở thể tích trung bình của nước được coi
như hai nguyên nhân chính dẫn đến mực nước đại dương cao dần lên, làm tràn
ngập các đồng bằng thấp ven biển. Các số liệu quan trắc mực nước biển thế giới
cho thấy mức tăng trung bình trong vòng 50-100 năm qua là 1,8 mm/năm.
Nhưng chỉ trong 12 năm gần đây, các số liệu đo đạc của vệ tinh NASA cho thấy
xu thế biển dâng đang gia tăng rất nhanh, với tốc độ trung bình là 3 mm/năm.
Báo cáo của IPCC, do hàng chục nhà khoa học soạn thảo và hơn 2000 nhà khoa
học từ 130 quốc gia tham gia đóng góp ý kiến, đưa ra dự báo: đến cuối thế kỷ
XXI, nhiệt độ bề mặt Trái đất sẽ tăng thêm từ 1,4 đến 4°C, mực nước biển sẽ
dâng thêm khoảng 28-43 cm. Nhiều nhà khoa học còn đưa ra những dự báo mực
nước biển đang dâng nhanh hơn nhiều, nhất là do hiện tượng tan băng đang xảy
ra với tốc độ đáng kinh ngạc trong thời gian gần đây. Nhà địa lý học Richard
Alley ở Đại học Pennsylvania, Hoa Kỳ nói: Chỉ cần 15% lớp băng ở Greenland
bị tan cũng tạo ra một khối nước mới trong các đại dương đủ để làm ngập tiểu
bang Florida của Hoa Kỳ và nhiều vùng duyên hải khác trên thế giới.
II. ẢNH HƯỞNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ĐỐI VỚI VIỆT NAM
Việt Nam là 1 trong 5 quốc gia trên thế giới bị ảnh hưởng nặng nề
nhất do biến đổi khí hậu. Riêng năm 2007, tổng thiệt hại do thiên tai gây ra
trên toàn quốc ước tính lên tới 11.600 tỷ đồng. 73% dân số bị ảnh hưởng.
Tại hội thảo liên quan đến vấn đề biến đổi khí hậu do Bộ Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) tổ chức, Bộ trưởng Cao Đức Phát nhận
định: 73% dân số, chủ yếu là người nghèo (liên quan đến 6 lĩnh vực chính trong
ngành NN&PTNT là: nông nghiệp, lâm nghiệp, diêm nghiệp, thuỷ sản thuỷ lợi
và phát triển nông), là đối tượng chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu nhiều
nhất. Hiện tượng El Nino đã gây ra hạn hán nghiêm trọng tại các tỉnh Tây
Nguyên, Nam Bộ với thiệt hại 312 triệu USD. Ở Trung Bộ, những năm có La
Nina, số lượng trận lũ tăng 1,4 lần, hạn hán đông xuân thường xảy ra nghiêm
trọng. Trong 5 năm gần đây, các tỉnh thuộc Đồng bằng sông Hồng liên tục phải
12
đối phó với hạn hán gay gắt do mực nước sông Hồng liên tục xuống thấp đến
mức lịch sử. 10 năm qua, nhiều đợt hạn hán đã hoành hành gây thiệt hại nặng nề
đối với sản xuất nông lâm nghiệp. Trong khi đó, bão lũ lại liên tiếp xảy ra ở các
địa phương khác. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, chỉ riêng trong năm
2007, tổng thiệt hại do thiên tai gây ra ở 50 tỉnh thành phố trên cả nước ước tính
lên tới 11.600 tỷ đồng. Cùng với đó là gần 440 người chết, mất tích; hàng trăm
nghìn ha lúa bị hư hại; hàng chục nghìn công trình dân sinh, thủy lợi bị phá hủy;
tình trạng thiếu đói xảy ra liên miên;...
Trận lụt lịch sử ở nước ta năm vừa qua. (Ảnh: Việt Hưng)
Bộ Tài nguyên - Môi trường chính thức thông báo: trong thập kỷ tới,
khoảng từ năm 2010-2020, nhiệt độ trung bình của Việt Nam sẽ tăng không
dưới 1,5 độ C; số trận lũ lụt trên cả nước sẽ tăng khoảng 20%. TS Nguyễn Hữu
Ninh cảnh báo: Việt Nam có hai thành phố ven biển lớn nhất là Hải Phòng và
TP Hồ Chí Minh nằm trong danh sách 10 thành phố trên thế giới sẽ bị ảnh
hưởng nặng nề nhất bởi biến đổi khí hậu trong vòng 20-50 năm tới. Như những
trận triều cường lịch sử ở TPHCM cuối năm qua, chủ yếu là do ảnh hưởng của
nước biển dâng và gia tăng nhiệt độ toàn cầu.
13
1. Biến đổi khí hậu và những ảnh hưởng đến đời sống của con người
Khí hậu là yếu tố sống còn cho sự sinh tồn trên trái đất vì nó ảnh hưởng
đến sự an toàn thực phẩm, cuộc sống, tài sản, nguồn nước và sự phát triển bền
vững. Ngoài ra, trong một phạm vi nhất định, khí hậu còn có tác động đến tâm
trạng, tính cách, thậm chí cả tư duy và văn hóa của con người. Tuy nhiên, đã có
những bằng chứng ngày càng rõ nét là con người đã và đang làm thay đổi những
đặc tính của lớp khí quyển mỏng manh bao quanh trái đất có liên quan đến khí
hậu mà nó tạo ra. Chúng ta đã biết đến những biến đổi khí hậu đã xảy ra trong
quá khứ. Tuy nhiên, những biến đổi đó là do những nguyên nhân tự nhiên.
Những biến đổi gần đây theo số liệu đo đạc được trong hơn một thế kỷ qua cho
thấy nhiệt độ trên toàn cầu tăng lên 0,60C. Sự nóng lên này được ghi nhận có
mối liên quan với sự tăng nồng độ khí CO2 lên 32% về thể tích tính từ năm
1750 đến cuối năm 2001. Cùng thời gian đó nồng độ khí Mê-tan trong khí quyển
tăng 151%, Ô-xít-ni-tơ tăng 170%. Kết quả là độ dày lớp băng ở Bắc Băng
Dương và ở Nam Cực giảm 40% làm cho mực nước biển trên toàn cầu được
nâng lên 10-20 cm. Hơn 30 năm qua, những hiện tượng thời tiết cực đoan như
bão, lụt, hạn hán,... đã xảy ra nhiều nơi trên thế giới mà điển hình là thập niên 90
của thế kỷ 20, đe dọa nghiêm trọng đến đời sống của 1,2 tỉ người dân sống dựa
vào đất đai, kèm theo đó là những biến đổi nghiêm trọng của hệ động, thực vật
trên khắp hành tinh của chúng ta. Sự biến đổi khí hậu cũng làm ảnh hưởng đến
sức khỏe của con người bằng nhiều đường bởi các loại truyền bệnh trung gian
(vi trùng, côn trùng), các tác nhân gây bệnh, chất lượng nước và không khí,...
Các nhà khoa học đã tính được rằng, trong tương lai nhiệt độ bề mặt trung
bình toàn cầu sẽ tăng 1,4 – 5,80C, mực nước biển sẽ dâng từ 9 – 88 cm trong
thời kỳ từ năm 1990-2100, làm ảnh hưởng đáng kể đến nền kinh tế, xã hội ở
những vùng đất thấp duyên hải, các hải cảng, một số vùng đất nông nghiệp,
nguồn nước ngọt và các khu du lịch. Cũng trong thế kỷ 21 mưa sẽ tăng mạnh mẽ
hơn ở vùng vĩ độ vừa và cao, ngược lại ở vùng có vĩ độ thấp mưa sẽ giảm ở một
số khu vực này nhưng lại tăng mạnh ở một số khu vực khác, làm cho tình hình
hạn hán, lũ lụt ngày càng trở nên phức tạp hơn. Tỉnh Bình Định cũng nằm trong
14
xu thế biến đổi khí hậu như trên. Theo các tài liệu thống kê có được ở Bình Định
từ những năm 60 của thế kỷ trước trở lại đây đã cho thấy sự tăng trưởng nhiệt độ
trung bình tháng giêng là 0,50C, trong tháng 7 là 0,70C. Những hiện tượng thời
tiết cực đoan như bão, lụt, hạn hán, diễn biến phức tạp và khốc liệt hơn, mức độ
thảm họa gây ra cho nhân dân trong tỉnh nhiều hơn; điển hình là các trận lụt
trong các năm 1996, 1999, các trận bão ở các năm 1995, 2001 đã gây thiệt hại
cho nền kinh tế của tỉnh hàng nghìn tỉ đồng và hàng trăm người thiệt mạng. Tình
trạng ít mưa kéo dài trong những năm 1993, 1997, 1998, 2001 gây hạn hán, ảnh
hưởng lớn đến nền sản xuất của nhân dân. Sự ô nhiễm nguồn nước đưa đến sự
biến đổi hệ sinh thái của vật nuôi, cây trồng và sức khỏe của nhân dân ngày càng
thể hiện rõ nét ở Bình Định. Trong tương lai, tốc độ phát triển công nghệ tiên
tiến sẽ dẫn đến giảm độ bất định của khí hậu và có ảnh hưởng sâu sắc đến đời
sống của chúng ta. Các nhà khoa học đang nghiên cứu các giải pháp công nghệ
để giải quyết mối quan hệ giữa hoạt động kinh tế của con người với các yếu tố
môi trường, ví dụ sử dụng năng lượng sạch trong đời sống.
2. Biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp
Với mục tiêu phát triển kinh tế bằng mọi giá, từ hàng thế kỷ nay, loài
người đã và đang khai thác kiệt quệ, tàn phá nguồn tài nguyên sinh thái dẫn đến
hậu quả là môi trường sống của chính con người đang bị đe doạ nghiêm trọng và
khí hậu đang ngày càng bị biến đổi nhanh. Đồng thời với các hành động tàn phá
trực tiếp thiên nhiên, hàng ngày con người đã trực tiếp và gián tiếp thải vào môi
trường hàng chục triệu tấn chất thải rắn, lỏng và khí, mà trong số đó có nhiều
chất gây biến đổi hiệu ứng nhà kính. Bão tố, động đất, lũ lụt với sức tàn phá ghê
gớm là hậu quả tất yếu do cách đối xử tàn bạo của con người đối với thiên
nhiên. Theo dự báo của các nhà khoa học, hậu quả của biến đổi khí hậu (BĐKH)
sẽ không dừng lại ở đó mà sẽ gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng đến nhiều lĩnh
vực kinh tế và đời sống, trong đó có sản xuất nông nghiệp.
BĐKH sẽ khiến nhiệt độ trái đất tăng và băng ở bắc cực tan dẫn đến nước
biển dâng cao và lúc đó một phần diện tích vùng đồng bằng của nước ta sẽ bị
ngập trong nước biển. Dự báo diện tích rộng lớn của đồng bằng sông Mê Công,
15
sông Hồng và ven biển Miền Trung sẽ bị ngập lụt. Trước hết là các khu vực
rừng ngập mặn của Cà Mau, thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu và Nam Định
sẽ bị nhấn chìm trong nước biển. Thay đổi chế độ mưa có thể gây lũ nghiêm
trọng vào mùa mưa và hạn hán vào mùa khô; gia tăng về cường độ và tần suất
các cơn bão, giông tố gây lũ lớn và ngập lụt, lũ quét, trượt lở đất và xói mòn; gia
tăng thiếu hụt nước và tăng nhu cầu dùng nước, đòi hỏi đáp ứng cấp nước và
mâu thuẫn trong sử dụng nước. Năng suất và sản lượng cây trồng và vật nuôi có
thể bị giảm do biên độ giao động của nhiệt độ, độ ẩm và các yếu tố ngoại cảnh
khác tăng lên. Nguồn cung cấp thức ăn chăn nuôi giảm hạn chế phát triển chăn
nuôi. Nhiệt độ tăng cùng với biến động về các yếu tố khí hậu và thời tiết khác có
thể làm giảm sức đề kháng của vật nuôi, đồng thời tạo môi trường thuận lợi cho
các tác nhân gây bệnh phát triển bùng phát, gây ra những đại dịch trên gia súc,
gia cầm. Đa dạng sinh học bị ảnh hưởng mạnh mẽ của BĐKH, thành phần và
phân bố địa lý của các hệ sinh thái sẽ thay đổi. Vùng khô hạn và bán khô hạn sẽ
trở lên khắc nghiệt hơn. Hầu hết các vùng đất cát ven biển miền Trung sẽ trở lên
nóng và khô hạn hơn làm tình trạng sa mạc hoá diễn ra trầm trọng. Đến năm
2070 các loại cây trồng có thể lên đến độ cao 550 mét và hướng lên phía bắc
100-200 km so với hiện tại, cây á nhiệt đới giảm. Phân bố ranh giới các kiểu
rừng nguyên sinh, thứ sinh có thể dịch chuyển, tăng nguy cơ tiệt chủng của động
thực vật, nguồn gien quí hiếm. Nhiệt độ tăng làm nguồn thủy, hải sản bị phân
tán. Các loài cá nhiệt đới (kém giá trị kinh tế trừ cá ngừ) tăng lên, các loài cá cận
nhiệt đới (giá trị kinh tế cao) giảm, trữ lượng các loài hải sản kinh tế bị giảm sút.
BĐKH tăng một số nguy cơ đối với sức khoẻ con người làm thay đổi đặc tính
trong nhịp sinh học của con người. Sẽ xuất hiện nhiều bệnh mới lạ và đang "toàn
cầu hóa" nhiều loại bệnh trước đây chỉ khu trú trong một khu vực địa lý nhỏ.
Thế giới đã ghi nhận 30 căn bệnh mới xuất hiện trong 3 thập kỷ qua, sự bùng nổ
bệnh mới chưa từng thấy kể từ khi cuộc cách mạng công nghiệp đưa con người
sống tập trung các đô thị. Theo WHO, trái đất nóng lên có thể sẽ làm hơn
150.000 người chết và 5 triệu người bị mắc các chứng bệnh khác nhau. Con số
trên có thể sẽ tăng gấp đôi vào năm 2030. Trước nguy cơ tiềm ẩn của BĐKH,
16
loài người phải có các hành động thiết thực, cụ thể và khẩn trương để cứu lấy
môi trường sống của chính mình. Các hoạt động giảm thiểu và thích ứng với
BĐKH của ngành NN&PTNT sẽ là bộ phận quan trọng của Chiến lược quốc gia
về thích ứng và giảm thiểu tác động BĐKH. Để phát triển bền vững ngành
NN&PTNT trong bối cảnh BĐKH, vấn đề xây dựng và triển khai thực hiện
Chương trình Hành động thích ứng và giảm thiểu BĐKH của ngành NN&PTNT
là hết sức cần thiết. Đối với ngành chăn nuôi, đồng thời với sự phát triển ồ ạt các
loại vật nuôi, cần phải có chiến lược giảm thiểu ô nhiễm môi trường, bởi vì chất
thải chăn nuôi không được xử lý là một trong những “thủ phạm” gây biến đổi
hiệu ứng nhà kính do các loại khí CO2, NH4… có trong phân và nước tiểu của
động vật phát tán vào bầu khí quyển.
Theo dự báo của Trung tâm Quốc tế về Quản lý Môi trường (ICEM),
nhiều vùng như Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, An Giang, Đồng
Tháp, Tiền Giang, Vĩnh Long, Cà Mau... của Việt Nam sẽ ngập chìm từ 2- 4m
trong vòng 100 năm tới. Theo đánh giá của Chương trình Phát triển Liên hiệp
quốc (UNDP): Việt Nam nằm trong top 5 nước đứng đầu thế giới dễ bị tổn
thương nhất đối với biến đổi khí hậu và khi mực nước biển tăng 1 mét ở VN sẽ
mất 5% diện tích đất đai, 11% người mất nhà cửa, giảm 7% sản lượng nông
nghiệp (tương đương 5 triệu tấn thóc) và 10% thu nhập quốc nội GDP. Để xây
dựng một chương trình hành động chuẩn xác và đi đúng hướng, hầu hết các
chuyên gia về môi trường cho rằng: Cần phải xây dựng một kịch bản cho Việt
Nam, bởi kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học trên thế giới về lĩnh vực này
còn có nhiều sự khác biệt. Cụ thể, Ngân hàng Thế giới (WB) tính toán mực nước
biển sẽ dâng là 1m, nhưng kết quả nghiên cứu của Ủy ban liên chính phủ về
Thay đổi khí hậu (IPCC) mực nước biển dâng là 69cm kèm theo trong điều kiện
băng tan không đột biến; sự tan băng ở các vùng cực của trái đất cũng khác nhau
và vấn đề khí hậu và biến đổi khí hậu ở mỗi quốc gia cũng có những diễn biến
khác nhau. Hơn nữa, vấn đề biến đổi khí hậu không chỉ đơn giản là của ngành
nông nghiệp mà nó còn liên quan đến nhiều vấn đề kinh tế, xã hội khác nữa. Do
vậy, các nhà khoa học phải chỉ rõ vùng nào của Việt Nam sẽ chịu ảnh hưởng
17
nhiều nhất của băng tan, phân tích cụ thể diện tích vùng bị ngập, vùng phải di
chuyển và ảnh hưởng đến các vùng khác chưa được đề cập tới.
Hiện nay, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) đã xây
dựng chương trình hành động với cả hai kịch bản dự báo của WB và IPCC.
Theo Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Đào Xuân Học: Cho
dù là kịch bản nào thì vấn đề biến đổi khí hậu đã xảy ra và sẽ tác động mạnh mẽ
đến nước ta, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp. Bởi vì, Việt Nam có 74% diện
tích đất nông nghiệp, gần 80% người dân đang sinh sống ở vùng nông thôn và
sống nhờ vào sản xuất nông nghiệp. Song song với việc nghiên cứu, xây dựng
chương trình hành động, Việt Nam vẫn cần tiếp tục tiến hành những việc liên
quan đến giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu như: trồng rừng, sử dụng
công nghệ sạch, vấn đề giảm khí thải vào không khí...
Dự kiến, đến tháng 6/2008, Bộ NN & PTNT sẽ hoàn thành báo cáo trình
lên Thủ tướng Chính phủ cùng với các vấn đề biến đổi khí hậu chung của cả
nước. Trên cơ sở đó, Việt Nam sẽ hình thành kinh phí và lộ trình thực hiện, trở
thành chương trình hành động chung của cả nước.
3. Biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến các tỉnh ven biển Việt Nam
Biến đổi khí hậu là mối đe doạ thực sự đối với sự phát triển kinh tế -
xã hội của Việt Nam, đặc biệt, các vùng ven biển Việt Nam chịu ảnh hưởng
nhiều nhất do BĐKH gây ra như hạn hán, bão, lũ lụt , gây thiệt hại rất lớn
về người và của. Đây là nguyên nhân làm chậm tốc độ tăng trưởng kinh tế
của khu vực kém, tỷ lệ nghèo gia tăng, làm giảm khả năng ứng phó đối với
các thiên tai do BĐKH gây ra.
Việt Nam có lịch sử lâu dài đối phó với thiên tai và có nhiều biện pháp
ứng phó khi có thiên tai xảy ra. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, BĐKH
khiến nhiệt độ trung bình năm tăng khoảng 0,1C/ thập kỷ, mực nước biển dâng
cao,lượng mưa tăng vào mùa mưa gây nên lũ lớn đặc biệt và giảm vào mùa khô
gây nên hạn hán, tần suất thiên tai ngày càng cao đã gây nhiều thiệt hại cho
nhiều vùng ở Việt Nam. Các vùng ven biển Việt Nam có dân số khỏang 18 triệu
người, chiếm gần ¼ dân số cả nước trong đó diện tích đất sử dụng chỉ chiếm
18
16% tổng diện tích cả nước. 58% dân cư vùng ven biển chủ yếu sống dựa và
nông nghiệp và đánh bắt thuỷ sản, khoảng 480.000 người trực tiếp làm nghề
đánh bắt hải sản, 10.000 người chế biến hải sản và 2.140.000 người cung cấp
các dịch vụ liên quan đến nghề cá. BĐKH đã gây ảnh hưởng trực tiếp đến việc
phát triển kinh tế ở các cùng ven biển Việt Nam. Nuôi trồng thuỷ sản ở vùng ven
biển được coi là ngành có tăng trưởng quan trọng, có giá trị xuất khẩu cao và
cũng là ngành chịu nhiều thiệt hại nhất do BĐKH. Theo Bộ NN&PTNT, năm
2006, kim ngạch xuất khẩu thuỷ hải sản đạt 3,2 tỷ USD và tính đến hết tháng
11/2007, tổng sản lượng thuỷ, hải sản xuất khẩu ước đạt 3.684 nghìn tấn, đạt
96,93% kế hoạch năm và tăng 7,96% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, sản
lượng khai thác tăng 0,6%, đạt 1.898 nghìn tấn; sản lượng nuôi trồng đạt 1.786
nghìn tấn, tăng 17%. ước giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản tháng 11 đạt 350
triệu USD, nâng tổng giá trị kim ngạch XKTS 11 tháng năm 2007 đạt 3.427
triệu USD, bằng 95,19% kế hoạch và tăng 11,8% so với cùng kỳ 2006.
Mặc dù, đạt những kết quả như vậy, nhưng do ảnh hưởng của BĐKH như áp
thấp nhiệt đới, bão, lũ lụt ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc phát triển của ngành
nuôi trồng và chế biến thuỷ sản ở các vùng ven biển Việt Nam. Chỉ tính riêng
năm 2006, hai cơn bão Chanchu và cơn bão Xangsane đã ảnh hưởng trực tiếp và
gây thiệt hại nặng nề cho ngành chế biến thuỷ sản các tỉnh ven biển miền Trung:
3.974 ha đầm nuôi cá, tôm bị ngập kéo theo 494 tấn cá tôm bị phá huỷ, 951 tầu
thuyền đánh cá bị chìm, ước tính thiệt hại hàng nghìn tỷ đồng. Tháng 11/2007,
do ảnh hưởng của bão số 7, áp thấp nhiệt đới trên biển Đông và ảnh hưởng của
gió mùa đông bắc hoạt động mạnh đã làm hạn chế các hoạt động khai thác thuỷ
sản. Tại các tỉnh miền Trung như Quảng Bình, Khánh Hoà, Phú Yên, đây là
những nơi có sản lượng nuôi tôm thẻ chân trắng, tôm sú, cá biển, nhuyễn thể,
cua, ghẹ lớn …Do ảnh hưởng của thời tiết, khí hậu thay đổi trong thời gian vừa
qua, mưa nhiều khiến cho dịch bệnh phát triển, nguồn nước thay đổi nhanh
khiến cho các đối tượng nuôi khác như tôm hùm, rong sụn tại một số địa phương
như Khánh Hoà, Phú Yên bị chết, khiến cho nhiều bà con nông, ngư dân bỗng
chốc trắng tay. Ngoài việc ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc nuôi trồng thuỷ sản
19
của các vùng ven biển Việt Nam, BĐKH mà cụ thể là mực nước biển dâng cao
còn làm cho tình trạng xâm mặn ở các vùng ven biển ngày càng trở nên nghiêm
trọng hơn. Nó đã trở thành một trong những vấn đề nan giải tại một số địa
phương. Đồng bằng sông Cửu Long với 1,77 triệu ha đất nhiễm mặn, chiếm
45% diện tích và đây là địa phương có diện tích đất nhiễm mặn lớn nhất. Nếu
mực nước biển sẽ tiếp tục dâng cao lên 30cm theo kịch bản BĐKH năm 2050,
tình trạng nước mặn kèm theo mất đất và xâm mặn ở đồng bằng sông cửu long
và một số khu vực đồng bằng sông hồng, là những khu vực nông nghiệp quan
trọng là nơi cung cấp một lượng gạo xuất khẩu lớn nhất cả nước. Nếu tình trạng
này xảy ra, nó sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh lương thực quốc gia.
Ngoài ra, nếu mực nước biển dâng cao, các trại nuôi trồng thuỷ sản phải di dời
và xâm mặn, diện tích rừng ngập mặn giảm sẽ làm mất nơi cư trú của các sinh
vật nứơc ngọt. BĐKH khiến cho thiên tai như lũ lụt, bão xuất hiện với tần suất
nhiều hơn, xâm mặn, hạn hán và bão, cả nền nông nghiệp lẫn các hệ sinh thái
thiên nhiên chắc chắn còn bị ảnh hưởng do nhiệt độ tăng tối thiểu, số ngày có
nhiệt độ dưới 20 C giảm đi (0-50 ngày vào năm 2070) và số ngày có nhiệt độ
trên 25C tăng lên (0-80 ngày vào năm 2070). Sự thay đổi này sẽ ảnh hưởng xấu
đến các thời kỳ sinh trưởng, thời vụ và phân bố cây trồng, làm tăng hoạt động
của sâu hại và vi-rút . Theo dự báo, BĐKH sẽ làm sản lượng lúa hè thu giảm từ
3 đến 6% vào năm 2070 so với giai đoạn 1960-1998, sản lượng vụ lúa đông
xuân có thể giảm tới 17% vào năm 2070 đối với miền Bắc, giảm 8% vào năm
2070 đối với miền Nam, sản lượng ngô đông xuân có thể giảm 4% ở miền Trung
và 9% ở miền Nam. BĐKH còn ảnh hưởng trực tiếp đến sức khảo của dân cư
sống tai các vùng ven biển Việt Nam. Nhiệt độ tăng sẽ tạo điều kiện cho các vi
rút, vật mang bệnh khác nhau sinh trưởng và phát triển làm cho tỷ lệ các bệnh
truyền nhiễm như sốt rét, bệnh Denga cao hơn. Hơn nữa, thời tiết khắc nghiệt và
tăng tần suất, tăng cường độ thiên tai như bão và lũ lụt, sẽ đe doạ tính mạng
người dân và có thể dẫn đến nhiều tử vong hơn, nếu không áp dụng các biện
pháp giảm thiểu và thích ứng quan trọng. Theo Báo cáo BĐKH và Phát triển con
người ở Việt Nam, các vụ thiên tai lớn gần đây đã ảnh hưởng rất lớn đến sự tăng
20
trưởng kinh tế cũng như thiệt hại về con người. Cụ thể như tính từ năm 1996 đến
năm 2005, các trận lũ ở Đồng bằng sông Hồng và ảnh hưởng của các cơn bão ở
miền Bắc và Bắc Trung Bộ đã làm chết gần 100 người, làm đổ và hư hỏng
197.696 căn nhà, gần 2,3 triệu ha lúa bị ngập úng, gần 67.000 ha đất nông
nghiệp bị thiệt hại, 830.000 ha tôm, cá nuôi trồng bị thiệt hại kéo theo gần 180
tấn cá, tôm bị thiệt hại. Ngoài ra, trong năm 2000-2001, các trận lũ ở đồng bằng
sông Cửu Long đã làm chết 874 người, làm sập và hư hỏng 1.240.737 căn nhà,
422.032 ha ruộng lúa bị ngập và phá huỷ, 87.106 ha đất nông nghiệp b
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Biến đổi khí hậu toàn cầu và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến suy thoái các nguồn tài nguyên thiên nhiên và đói nghèo ở Việt Nam.pdf