Tiểu luận Các phương thức bảo vệ quyền sở hữu

LỜI MỞ ĐẦU 2

NỘI DUNG 3

I Khái quát chung về quyền sở hữu và bảo vệ quyền sở hữu 3

II Các phương thức bảo vệ quyền sở hữu 5

1 Kiện đòi lại tài sản (kiện vật quyền) 6

2 Kiện yêu cầu ngăn chặn hoặc chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp 7

3 Kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại (kiện trái quyền) 8

III Thực trạng 9

1. Ví dụ 9

2. Những khó khăn 17

IV Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chế độ bảo vệ quyền sở hữu 19

KẾT LUẬN 20

 

 

doc21 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3306 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Các phương thức bảo vệ quyền sở hữu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ực hiện thì thông qua biện pháp dân sự, cá nhân, tổ chức bị xâm phạm quyền sở hữu có thể dùng các phương thức dân sự để tự bảo vệ quyền sở hữu hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quyền sở hữu cho mình. Điều 255 BLDS quy định “chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền tự bảo vệ tài sản thuộc sở hữu của mình, tài sản đang chiếm hữu hợp pháp bằng các quy định của pháp luật”. Quyền tự bảo vệ quyền của chủ sở hữu được hiểu là quyền của chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có thể dùng bất kỳ biện pháp mà pháp luật không cấm để bảo vệ tài sản và quyền sở hữu tài sản của mình như cất giữ, quản lý… Ngoài ra, quyền tự bảo vệ của chủ sở hữu còn gắn liền với quyền ngăn cản bất kỳ chủ thể nào khác có hành vi xâm phạm quyền sở hữu của mình; có quyền truy tìm, đòi lại tài sản bị người khác chiếm hữu, sử dụng, định đoạt không có căn cứ pháp luật. Bên cạnh quyền tự bảo vệ, pháp luật dân sự còn quy định cho chủ sở hữu , người chiếm hữu hợp pháp có quyền “yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu và yêu cầu bồi thường thiệt hại”. Những phương thức này gọi chung là phương thức kiện dân sự - phương thức được áp dụng khi chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp không thể tự mình bảo vệ được quyền sở hữu trước hành vi xâm hại của chủ thể khác gây ảnh hưởng tới việc thực hiện quyền của chủ sở hữu của mình. Xuất phát từ tính chất đa dạng trong bản thân sự xâm hại tới quyền sở hữu mà phương thức kiện dân sự cũng có rất nhiều loại khác nhau. Chủ sở hữu và người chiếm hữu hợp pháp có quyền lựa chọn một trong ba phương thức kiện sau đây khi đáp ứng được đầy đủ các điều kiện do pháp luật quy định: Kiện đòi lại tài sản (kiện vật quyền): Kiện đòi lại tài sản là việc chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp yêu cầu tòa án buộc người có hành vi chiếm hữu trái pháp luật phải trả lại cho mình. Hình thức kiện này diễn ra khá phổ biến tại các Toà án trong những năm vừa qua, đặc biệt là kiện đòi nhà, đất. Khi xây dựng cơ chế kiện đòi lại tài sản, các nhà làm luật Việt Nam đã rất cân nhắc trong việc làm sao phải bảo đảm sự hài hoà giữa yêu cầu bảo vệ chủ sở hữu với bảo vệ quyền lợi chính đáng của người chiếm hữu ngay tình cũng như bảo đảm tính ổn định trong lưu thông dân sự. Vì vậy, một mặt, BLDS đã thiết kế các quy tắc kiện đòi lại tài sản dựa vào tiêu chí phân biệt giữa người chiếm hữu ngay tình và người chiếm hữu không ngay tình và mặt khác, dựa vào việc phân định giữa tài sản phải đăng ký quyền sở hữu và tài sản không phải đăng ký quyền sở hữu. Tuy nhiên điều kiện chung áp dụng cho phương thức kiện đòi tài sản được quy định tại Điều 256, 257, 258 BLDS khi có các điều kiện sau: Vật rời khỏi chủ sở hữu hay dời khỏi người chiếm hữu hợp pháp ngoài ý chí của họ; hoặc theo ý chí của họ nhưng người thứ ba có vật thông qua giao dịch không đền bù như tặng cho, thừa kế theo di chúc; Người thực tế đang chiếm giữ vật là người chiếm giữ bất hợp pháp; Vật hiện đang còn trong tay người chiếm hữu bất hợp pháp; Vật là bất động sản hoặc động sản phải đăng ký quyền sở hữu, trừ trường hợp khác do pháp luật quy định. 2 Kiện yêu cầu ngăn chặn hoặc chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp. Theo quy định tại Điều 259, BLDS 2005 thì “khi thực hiện quyền sở hữu, chiếm hữu của mình, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp luật phải chấm dứt hành vi đó; nếu không có sự chấm dứt tự nguyện thì có quyền yêu cầu tòa án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác bộc người đó chấm dứt hành vi vi phạm”. Đây là phương thức cho phép chủ sở hữu kiện tới toà án khi một người nào đó có hành vi trái pháp luật cản trở việc thực hiện quyền sở hữu hay quyền chiếm hữu hợp pháp để quyền yêu cầu người này phải chấm dứt hành vi đó. Nếu người này không tự nguyện chấm dứt thì chủ sở hữu có quyền yêu cầu Toà án, hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác buộc người đó chấm dứt hành vi vi phạm. Mục đích chính của phương thức này là nhằm bảo đảm để chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp được sử dụng và khai thác công dụng của tài sản một cách bình thường. Trong thực tế, các tranh chấp có đối tượng là hành vi trái pháp luật như trên chủ yếu liên quan đến bất động sản. Qua thực tiễn giải quyết các tranh chấp dạng này tại Toà án hoặc Uỷ ban nhân dân các cấp, có thể rút ra một số nhận xét sau: Trên thực tế, loại việc này thường liên quan đến bất động sản liền kề như nhà ở, công trình xây dựng, quyền sử dụng đất, lối đi chung… Hành vi là đối tượng của việc kiện phải là hành vi trái pháp luật. Hành vi trái pháp luật ở đây được hiểu không chỉ là trái với các quy định của BLDS, mà còn trái với quy định của các văn bản pháp luật khác (như đất đai, xây dựng…). Đặc điểm chung của các hành vi này là cản trở chủ sở hữu hay người chiếm hữu hợp pháp thực hiện những quyền năng của mình trong khuôn khổ pháp luật. 3 Kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại (kiện trái quyền). Kiện đòi bồi thường thiệt hại về tài sản là việc chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp yêu cầu tòa án buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu phải bồi thường thiệt hại cho mình. Trong trường hợp một người có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại tới tài sản của người khác thì chủ sở hữu của tài sản của có quyền kiện tới toà án yêu cầu bồi thường thiệt hại. Đây được gọi là phương thức kiện trái quyền bởi vì nó chỉ được áp dụng trong trường hợp khi người chiếm hữu hợp pháp hoặc bất hợp pháp đã bán tài sản cho người khác mà không tìm thấy người mua nữa hoặc tài sản bị tiêu huỷ…Lúc này chủ sở hữu không lấy lại đc tài sản của mình và luật cho phép chủ sở hữu lựa chọn phương thức kiện đòi bồi thường thiệt hại. Có thể thấy rằng việc pháp luật quy định người thứ ba ngay tình phải hoàn trả lại tài sản cho chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp sẽ là một bất lợi lớn đối với họ trong rất nhiều trường hợp. Nếu đó là tài sản mà người này đã đầu tư vào kinh doanh (ví dụ máy móc, trang thiết bị kỹ thuật…), thì khi phải trả lại, họ sẽ phải chịu những xáo trộn nhất định trong công việc của mình. Hoặc nếu đó là những tài sản quý hiếm (tranh quý, đồ mỹ nghệ, đồ trang sức…) mà họ đã bỏ tiền ra mua để sưu tập, làm kỷ niệm… nay dù không muốn trả lại thì họ vẫn buộc phải trả lại nếu chủ sở hữu có yêu cầu đòi lại tài sản. Điều 260 BLDS quy định: “Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu của mình bồi thường thiệt hại”. Ngoài chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp, người thứ ba ngay tình cũng có quyền khởi kiện yêu cầu người đã xác lập giao dịch với mình phải bồi thường thiệt hại (kiện trái quyền), nếu tài sản bị tịch thu, sung quỹ Nhà nước hoặc trả lại cho người có quyền nhận tài sản đó. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tài sản phát sinh từ hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân, pháp nhân như làm mất, phá huỷ, huỷ hoại tài sản… Ý nghĩa của chế định bồi thường thiệt hại về tài sản một mặt là nhằm khôi phục những thiệt hại về vật chất mà người gây thiệt hại đã gây ra cho chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp; mặt khác, giáo dục mọi người ý thức tuân thủ pháp luật, tôn trọng quyền sở hữu tài sản của người khác. Các yếu tố phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật; Có thiệt hại thực tế xảy ra; Có lỗi của người gây thiệt hại; Có mối liên hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại là phải toàn bộ, kịp thời. Các bên có thể thoả thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật, hoặc thực hiện một công việc, về phương thức bồi thường, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Tuy nhiên, người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình. Về cơ bản, các quy định của BLDS về bồi thường thiệt hại đối với tài sản được đánh giá là tương đối hoàn thiện và đã phát huy tác dụng trong thực tiễn áp dụng pháp luật. II THỰC TRẠNG 1. Ví dụ 1.1 Vụ án “Đòi nhà đất” tại Tòa án thành phố Hồ Chí Minh. Nội dung Năm 1944, cụ Vũ Tá T và cụ Hoàng Thị N mua của ông Ngô Ngọc Khánh một thửa đất diện tích 90m2 tại số 135 phố TS (số cũ 175 làng An Hạ). Đất được cấp bằng khoán điền thổ mang tên hai cụ, số thửa 42 (Trong giấy tờ mua bán năm 1929 giữa ông Khánh với chủ cũ thì trên đất có một nhà cấp 4). Năm 1946, toàn quốc kháng chiến gia đình hai cụ tản cư về quê. Theo lời khai của ông Vũ Ngọc L (con trai của hai cụ) thì nhà đất khóa cửa để lại, không gửi ai; vào các 1971,1990, 2002 ông L có quay về đòi nhà đất đã bị gia đình ông Đào Văn T chiếm giữ. Thang 4/2003, ông L khởi kiện ra Tòa án nhân dân quận Đ đòi nhà. Gia đình ông T không trả và cho rằng nhà đất được thừa kế từ cha, mẹ và gia đình ông đã sử dụng ổn định từ năm 1951 (nộp thuế đầy đủ); năm1991 ông T làm nhà hai tầng và mua thêm một ngôi nhà cấp 4, diện tích 27m2 của anh Nguyễn Văn Đ liền phía sau nhà hai tầng, tổng diện tích hiện gia đình ông T đang sử dụng là 60m2. Tòa án cấp sơ thẩm xác minh: + Nguồn gốc nhà đất gia đình ông T không có nên chưa làm được thủ tục đăng ký quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất (ông T có lời khác nhau về nguồn gốc: Do cha, mẹ ông lấn chiếm đất ao làm nhà; không rõ mua của ai; do mua 60m2 đất ao của cụ Vũ Tá T, nhưng ông T không có bằng chứng về việc mua bán). + Công văn của cơ quan quản lý nhà đất xác định: Nhà số 135 phố TS (Hiện gia đình ông T đang sử dụng) thuộc thửa số 18 bản đồ gốc 104-6G-II-44 có nguồn gốc là một phần thửa số 42 tờ bản đồ số 12 đứng tên cụ Vũ Tá T và vợ là cụ Hoàng Thị N. Quyết định - Bản án dân sự sơ thẩm số 19 ngày 6/10/2004 của Tòa án quận Đ quyết định: Xác nhận nhà mang biển số 175 An Hạ (cũ) nay là 135 phố TS thuộc thửa số 18 thuộc quyền sở hữu của cụ T và cụ N Chấp nhận yêu cầu kiện đòi nhà đất của ông Vũ Ngọc L Buộc gia đình ông T. trả lại diện tích nhà đất thực tế đo là 60m2 (gồm 1 nhà 2 tầng diện tích 38m2, 1 nhà cấp 4 diện tích 25m2) cho ông L. Ông L thanh toán giá trị xây dựng cho gia đình ông T. - Bản án dân sự phúc thẩm số 05 ngày 11/1/2005 của Tòa án thành phố H quyết định: Chấp nhận đơn kháng cáo của ông Đào Văn T, sửa bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án quận Đ: Bác yêu cầu đòi nhà đất của ông Vũ Ngọc L. Bình luận Đánh giá chứng cứ: Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng việc xác minh của cấp sơ thẩm về nguồn gốc nhà đất được hiểu không chính xác và không đầy đủ: “Bằng khoán điền thổ số 175 tổng An Hạ” được hiểu là “Nhà số 175”; Phần nhà đất của ông T. có hai thửa, thửa 18 sát đường (có nhà 2 tầng) và thửa 22 (nhà cấp 4) nhưng cấp sơ thẩm chỉ xác minh về thửa 18 là không đầy đủ. Trên đất có nhà hay không có nhà chưa có căn cứ. Nhận định của án phúc thẩm có phần khiên cưỡng, không toàn diện. Việc hiểu bằng khoán điền thổ 175 là nhà số 175 có thể chính xác hoặc chưa chính xác, nhưng thực chất thửa đất số 42 mang bằng khoán 175 và nhà số 175 cũng tọa lạc trên thửa đất 42 đứng tên cụ T và cụ N. Nội dung công văn của cơ quan nhà đất nêu trên đã giải thích: Thửa số 18 (gia đình ông T. đang sử dụng) là 1 phần của thửa số 42 mang tên cụ T và cụ N thuộc bằng khoán điền thổ số 175. Cấp sơ thẩm chỉ xác minh về thửa số 18 vì trước đó ngày 4/6/1998 cơ quan địa chính đã lập “Biên bản xác định mốc giới theo hiện trạng sử dụng đất” thửa số 18 có diện tích 60,8m2 (gồm cả thửa 18 và thửa 22), việc nhập hai thửa vào một có đơn đề nghị của ông T (tài liệu được lưu trong hồ sơ). Như vậy, kết luận của cấp phúc thẩm không có căn cứ. Về nhà trên đất: năm 1929, khi ông Khánh mua của chủ cũ, hợp đồng thể hiện có nhà cấp 4. Hợp đồng mua bán giữa ông Khánh với hai cụ không thể hiện có nhà, cấp phúc thẩm nhận định chưa đủ căn cứ xác định có nhà trên đất. Tuy nhiên cấp phúc thẩm cũng chưa có căn cứ để khẳng định điều này, để làm rõ tình tiết về nhà, cần xác minh việc cụ T cụ N có ở tại thửa đất này từ khi mua (năm 1944) đến khi đi tản cư; tờ biên lai nộp thuế thổ trạch năm 1953 ghi tên bà Th (mẹ ông T) nộp tiền, nhưng có dòng chữ ghi tên cụ Vũ Tá T. Áp dụng pháp luật: Bản án phúc thẩm nhận định Toà án cấp sơ thẩm áp dụng văn bản pháp luật cũng như xác định quan hệ pháp luật không đúng: Ông L đòi nhà đất mà ông T đã ở từ những năm 1951. Như vậy quan hệ được xác lập trước ngày 1/7/1991, nếu có nhà trên đất thì phải áp dụng Nghị quyết số 58/UBTVQH10 ngày 29/10/1998, nếu chỉ ien quan đến đất thì áp dụng Luật đất đai năm 2003 để giải quyết. Cấp sơ thẩm xác định quan hệ “Đòi nhà đất” và áp dụng quy định của BLDS để giải quyết là không đúng. Mặc dù nhận định như trên, nhưng Toà án cấp phúc thẩm không chỉ ra căn cứ pháp luật để giải quyết vụ án; Cấp phúc thẩm quyết định bác yêu cầu đòi nhà đất của ông L với nhận định cho rằng quyết định của cấp sơ thẩm chưa đủ căn cứ, thiếu chính xác là không đúng về tố tụng vì đây chỉ là căn cứ để cấp phúc thẩm quyết định huỷ án sơ thẩm để chứng minh, thu thập chứng cứ làm rõ yêu cầu của ông L. Vụ án “Đòi bồi thường thiệt hại về tài sản” tại Toà án tỉnh Bến Tre. Nội dung Ông Nguyễn Văn Lãnh là chủ sở hữu hai chiếc tàu TG 1986 và BĐ 2539. Ông thuê hai tài công sử dụng tàu đánh bắt tài sản. Khi tàu hoạt động có mua một số nguyên vật liệu của ông Trần Văn Tuấn và Trần Văn Bé. Ông Lãnh cho rằng khoản tiền mua nguyên liệu là do các tài công phải trả vì có thoả thuận miệng giữa ông với tài công về hưởng lợi nhuận và chịu chi phí, nhưng điều này không được các tài công thừa nhận, trong khi ông Lãnh lại ký xác nhận nợ với ông Tuấn và ông Bé. Do việc ông Lãnh không trả nợ cho ông Tuấn, ông Bé nên ngày 8/3/2000 các bên yêu cầu Công an huyện giải quyết và lập biên bản hoà giải với nội dung: Ông Lãnh đưa tàu BĐ 2539 về sửa chữa, để lại tàu TG 1986 cùng nhau thuê tài công tại địa phương để làm ăn khắc phục hậu quả. Tuy nhiên, hai bên đã không thực hiện thoả thuận này và ngày 18/11/2000 khi ông Lãnh định đưa tàu TG 1986 về thì bị ông Tuấn, ông Bé giữ tàu yêu cầu ông Lãnh thanh toán nợ mới được đưa tàu đi. Sự việc đã không được giải quyết dứt điểm đẫn dến tàu chìm thiệt hại 100%. Ngày 4/9/2002, ông Lãnh khởi kiện yêu cầu Toà án huyện Ba Tri buộc ông Tuấn, ông Bé ien đới bồi thường 70% giá trị còn lại của tàu (432.253.000đ x 70% = 302.773.000đ) và tiền mất thu nhập bình quân mỗi tháng 3.000.000đ tính từ tháng 11/2000. Quyết định - Bản án dân sự sơ thẩm số 124/2006/DS-ST ngày 7/8/2006 của Toà án huyện Ba Tri quyết định: Bác yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại về tài sản của ông Nguyễn Văn Lãnh đối với ông Trần Văn Tuấn, ông Trần Văn Bé. Buộc ông Lãnh phải trả cho ông Tuấn, ông Bé mỗi người số tiền là 33.790.000đ (Vốn 15.000.000, lãi 20.790.000đ) - Bản án dân sự phúc thẩm số 21 ngày 18/10/2006 của Tòa án tỉnh Bến Tre quyết định: Chấp nhận 1 phần kháng cáo của ông Lãnh, sửa án sơ thẩm, xử: Chấp nhận một phần yêu cầu của ông Lãnh về việc bồi thường số tiền 495.000.000đ trong đó tiền thiệt hại tàu là 375.000.000đ và tiền mất thu nhập là 120.000.000đ (48 tháng x 3.000.000đ). Buộc ông Lãnh trả cho ông Tuấn, ông Bé mỗi người số tiền 35.790.000đ trong đó tiền vốn là 15.000.000đ, lãi là 20.000.000đ - Ngày 11/7/2007, Viện kiểm sát nhân dân tối cao số 69/QĐ-KNGĐT-V5 kháng nghị bản án phúc thẩm trên. - Quyết định giám đốc thẩm số 232/2007/DS-GĐT ngày 24/8/2007 của Toà dân sự Toà án tối cao quyết định: Chấp nhận kháng nghị của VKSNDTC, huỷ án sơ thẩm, án phúc thẩm, xét xử sơ thẩm lại. Bình luận Quy định pháp luật: Điều 609 BLDS năm 1995 về “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại”, Điều 604.1 BLDS năm 2005 về “Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại” tuy tên điều luật có sửa đổi nhưng nội dung đều thể hiện: Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có lỗi khi thực hiện hành vi trái pháp luật xâm hại đến nhân thân, tài sản của người khác mà gây thiệt hại.. Bản án sơ thẩm quyết định bác yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại về tài sản của ông Lãnh không xem xét đến trách nhiệm của ông Tuấn, ông Bé đã chiếm giữ tàu không có căn cứ pháp luật. Bản án phúc thẩm buộc ông Tuấn, ông Bé ien đới chịu trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại theo lời khai của ông Lãnh mà không xem xét đến lỗi của các bên đối với thiệt hại xẩy ra. Tại biên bản giải quyết ngày 8/3/2000 các bên không thoả thuận về trách nhiệm giữ gìn, bảo quản tàu. Về nguyên tắc, chủ sở hữu có quyền khai thác, sử dụng, định đoạt tài sản đáp ứng nhu cầu của mình nhưng đồng thời có nghĩa vụ tự bảo quản, giữ gìn tài sản của mình. Vấn đề này đã không được Toà án đề cập khi xem xét trách nhiệm của ông Lãnh để xẩy ra thiệt hại. Nguyên tắc chung trong việc xác định trách nhiệm bồi thường được quy định trong BLDS và trong Nghị quyết số 01/2004/NQ-HĐTP ngày 28/4/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy dịnh của BLDS về bồi thường thiệt hại không được hai cấp Tòa án áp dụng khi giải quyết tranh chấp. Thực tiễn: Ông Lãnh yêu cầu ông Tuấn, ông Bé bồi thường thu nhập bị mất do tàu bị chiếm giữ, không khai thác đánh bắt hải sản như trong điều kiện bình thường. Toà án cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu của ông Lãnh mà không đề căn cứ xác định thiệt hại đối với thu nhập bị mất được quy định trong BLDS. Hướng dẫn trong Nghị quyết số 01 nói trên chỉ đề cập thu nhập từ lao động trực tiếp của người lao động, mà chưa có hướng dẫn trong trường hợp thu nhập có được từ lợi nhuận trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Toà án cấp phúc thẩm xác định do tàu bị chìm nên không thể xác định mức độ thiệt hại và chấp nhận lời khai của ông Lãnh: Tàu đóng được 6 năm trước thời điểm các bên thoả thuận việc sử dụng tàu để khắc phục hậu quả, giá trị còn lại của tàu là 70% tương ứng với số tiền là 375.000.000đ để buộc ông Tuấn, ông Bé bồi thường. Có ý kiến khác nhau: ý kiến đồng tình với nhận định của Tòa án cấp phúc thẩm, căn cứ xác định thiệt hại dựa trên giá trị còn lại của tàu theo lời khai của chủ sở hữu. ý kiến khác cho rằng giá trị còn lại của tàu cần được xác minh từ thực tiễn tại địa phương, nếu chỉ căn cứ lời khai của chủ sở hữu mà không xác minh là thiếu khách quan. Vụ án “Đòi Tài sản” tại Toà án tỉnh Vĩnh Phúc. Nội dung Ngày 20/2/2002, ông Đặng Huy S ký hợp đồng mua máy xúc đào hiệu DAEWOOSOLAR-130W-III sản xuất năm 1994 của Công ty thương mại Minh Anh với giá 115.000.000đ. Ngày 22/2/2002, bà Hoàng Thị Ch (vợ ông Đặng Huy S) và bà Nguyễn Thị Th (vợ ông Trần Văn B) ký giấy xác nhận hai gia đình mua chung máy xúc đào hiệu SOLAR 130 sản xuất năm 1998 với giá 270.000.000đ (giấy xác nhận ghi tên ông S, ông B nhưng không có chữ ký tên hai ông), có xác nhận của ủy ban nhân dân xã. Ngày14/5/2003, vợ chồng bà Ch, ông S bán máy xúc cho ông Luân với giá 300.000.000đ. Bà Th khởi kiện yêu cầu vợ chồng bà Ch trả 1/2 trị giá máy xúc mua chung là 135.000.000đ tính đến thời điểm 25/10/2002, sau thời điểm này gia đình bà Ch phải chịu lãi suất ngân hàng và trị giá chênh lệch tài sản. Bà Ch không thừa nhận việc mua chung máy xúc và chữ ký tên bà trên giấy xác nhận mua chung máy. Tòa án thu thập chứng cứ, xác minh cho thấy chỉ có một cái máy xúc. Kết luận giám định của Cơ quan công an tỉnh và Viện khoa học kỹ thuật hình sự Bộ công an đều xác định chữ ký, chữ viết tên là của bà Ch Quyết định Bản án dân sự sở thẩm số 07/DS/ST ngày 18/6/2004 của Tòa án huyện Tam Dương quyết định: Buộc gia đình ông S, bà Ch phải trả cho gia đình bà Th tiền bán máy xúc đào và tiền lãi là 164.775.000đ. Bản án dân sự phúc thẩm số 24/DSPT ngay7f 20/4/2005 của Tòa án tỉnh Vĩnh Phúc quyết định: Không chấp nhận kháng cáo của gia đình bà Ch. Y toàn bộ án sơ thẩm. Ngày 18/52005 Viện kiểm sát tỉnh Vĩnh Phúc có công văn số 742/BC-VKS-P5 đè nghị Viện kiểm sát tối cao kháng nghị bản án phúc thẩm theo thủ tục giám đốc thẩm. Viện kiểm sát tối cao có công văn trả lời VKS tỉnh không có căn cứ kháng nghị bản án phúc thẩm theo thủ tục giám đốc thẩm. Bình luận Nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự: VKS tỉnh cho rằng tài liệu chứng cứ còn nhiều mâu thuẫn: Hợp đồng giữa ông S với Công ty Minh Anh phản ánh máy xúc sản xuất năm 1994, giá mua 115.000.000đ, nhưng giấy xác nhận mua chung máy giữa hai gia đình thì giá mua là 270.000.000đ, máy sản xuất năm 1998. Do vậy, nếu chỉ căn cứ giấy xác nhận mua chung máy để buộc gia đình bà Ch phải thanh toán trả 1/2 trị giá máy xúc mua chung là không đúng, bởi lẽ chiếc máy xúc gia đình ông S mua với máy xúc ghi trong giấy xác nhận mua chung không phải là một. Vấn đề đặt ra: Người khởi kiện đưa ra yêu cầu đòi tài sản và xuất trình chứng cứ là giấy xác nhận mua chung tài sản chứng minh quyền sở hữu của mình đối với 1/2 tài sản. Người bị kiện có nghĩa vụ chứng minh nếu không thừa nhận người khởi kiện có quyền sở hữu. Chứng cứ mà người bị kiện xuất trình phải có giá trị phủ nhận đối với chứng cứ xác định có việc mua chung máy xúc. Đối tượng chứng minh là giá trị pháp lý của giấy xác nhận mua chung máy xúc. Các khả năng chứng minh có thể: giấy xác nhận mua chung máy xúc có sự giả mạo, đây là hợp đồng giả cách, bị lừa dối. Như vậy, để bác bỏ yêu cầu của nguyên đơn, thì bị đơn phải chứng minh được giấy xác nhận mua chung máy xúc không có giá trị pháp lý đồng nghĩa với việc không có sự kiện mua chung máy xúc hay yêu cầu của nguyên đơn là không có căn cứ. Những tình tiết liên quan đến máy xúc trong hợp đồng và trong giấy xác nhận có thể không đồng nhất, nhưng không có giá trị phủ nhận tình tiết về việc mua chung máy xúc. Như vậy, Bên cạnh nghĩa vụ chứng minh thì các vấn đề ien quan đến hoạt động chứng minh như xác định chứng cứ, giá trị chứng minh của chứng cứ, đánh giá chứng cứ cần được xem xét một cách toàn diện… 2. Những khó khăn Trong thực tế tranh chấp về quyền sở hữu là hết sức phức tạp. có nhiều vụ phải xử đi xử lại đến hàng chục lần, nhiều người phải mất hơn chục năm trời mang đơn đi khiếu kiện tại Toà án nhân dân từ địa phương lên trung ương. Trong việc giải quyết các tranh chấp thuộc loại này, Toà án thường gặp một số khó khăn vướng mắc sau : Thứ nhất, nhiều quy định của pháp luật còn thiếu hoặc chưa rõ ràng nên rất khó vận dụng, đặc biệt là các văn bản pháp luật về đất đai và nhà ở, nên mỗi địa phương vận dụng một kiểu; Thứ hai, vấn đề xác minh nguồn gốc tài sản, đặc biệt là nhà, đất ở Việt Nam hiện nay rất khó, nguyên nhân là tình trạng đất không có sổ đỏ, nhà không có giấy chứng nhận quyền sở hữu đang khá phổ biến. Tình hình triển khai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong thời gian qua rất chậm, gây không ít khó khăn cho các bên đương sự và Toà án các cấp trong việc xác định, đánh giá chứng cứ để giải quyết các tranh chấp có ien quan; Thứ ba, vấn đề xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng khi ly hôn gặp rất nhiều khó khăn. Nguyên nhân là do phong tục tập quán ở Việt Nam quan niệm hôn nhân là việc rất đặc thù, không phải là quan hệ dân sự nên không có chuyện hai bên nam nữ kê khai tài sản chung, tài sản riêng, tài sản có trước hay có sau thời kỳ hôn nhân… Nhưng khi ly hôn, có tranh chấp phát sinh về tài sản, thì các bên thường không đưa ra được chứng cứ để chứng minh tài sản của mình, nhất là trường hợp vợ chồng lại ở chung với cha mẹ (cha mẹ chồng hoặc cha mẹ vợ). Trong nhiều trường hợp, Toà án gặp rất nhiều vướng mắc trong việc xác định tài sản và nhiều khi phán quyết của Toà án chưa thực sự bảo vệ được quyền và lợi ích chính đáng của các bên. Thứ tư  là vấn đề xác định nguồn gốc tài sản là động sản. Như đã nói ở trên, có một tình trạng thực tế ở Việt Nam hiện nay là có những tài sản đã bị chuyển dịch một cách bất hợp pháp qua tay nhiều người, rất khó xác định được cụ thể đã qua tay những ai. Điển hình là việc mua bán xe máy trao tay không qua thủ tục sang tên trước bạ diễn ra khá phổ biến. Khi có tranh chấp, các bên đương sự và toà án các cấp gặp rất nhiều khó khăn để xác minh nguồn gốc của tài sản (có trường hợp một chiếc xe máy đã bị mua đi bán lại hàng chục lần nhưng không qua thủ tục sang tên trước bạ). Tóm lại, trong số các khó khăn vướng mắc trên, có nguyên nhân xuất phát từ quy định của Bộ luật dân sự và các văn bản hướng dẫn, có nguyên nhân xuất phát từ cơ chế thi hành pháp luật còn kém hiệu quả.    III MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH VỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRONG BLDS Nên cụ thể hoá hơn quy định về bảo vệ quyền chiếm hữu Rõ ràng, việc coi chiếm hữu là một trong những nội dung của quyền sở hữu kéo theo sự đồng nhất giữa bảo vệ quyền sở hữu và bảo vệ quyền chiếm hữu trong BLDS hiện hành của chúng ta trong thời gian qua đã tỏ ra bất cập. Chế định pháp luật này vô hình chung đã đặt lên vai người đi kiện (nguyên đơn) nghĩa vụ rất nặng nề là họ phải chứng minh được quyền sở hữu của mình đối với tài sản tranh chấp, trong điều kiện nước ta hiện nay việc này không hề đơn giản, nhất là đối với bất động sản (nhà, đất) không có giấy tờ chứng nhận mà trong đa số trường hợp, lỗi không phải do người dân mà do chính cơ quan hành chính Nhà nước triển khai chậm). Chính vì tình trạng cung cấp, xác minh, đánh giá chứng cứ gặp rất nhiều khó khăn mà thời hạn tố tụng bị kéo dài, dẫn đến số lượng án tồn đọng ngày càng tăng, nhiều bản án thiếu khách quan vì không phản ánh đúng bản chất của vụ việc, quyền và lợi ích h

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCác phương thức bảo vệ quyền sở hữu (9đ).doc
Tài liệu liên quan