Tiểu luận Cảm nhận sau chuyến đi thực tế bảo tàng Hồ Chí Minh về cuộc đời của Bác Hồ

Bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ đang hình thành phong trào cộng sản, nhất là sau khi Cách mạng tháng 10 Nga giành thắng lợi năm 1917. Sự thắng lợi của cách mạng Tháng Mười thể hiện sự ưu việt của chủ nghĩa Mác-Lênin so với các trào lưu cơ hội, xét lại trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Chính từ đây chủ nghĩa xã hội không chỉ còn là lý tưởng, là học thuyết mà là hiện thực cụ thể. Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười Nga chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin được Đại hội lần thứ hai Quốc tế Cộng sản họp năm 1920 thông qua, đã vạch ra đường lối cơ bản cho phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc. Lần đầu tiên trên báo Nhân đạo, ngày 16 và 17-7-1920 đã đăng Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin. Nguyễn Ái Quốc ngay lập tức đã chú ý tới bài báo này, Người nói “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: ‘Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!’”

docx9 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 17057 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Cảm nhận sau chuyến đi thực tế bảo tàng Hồ Chí Minh về cuộc đời của Bác Hồ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CẢM NHẬN SAU CHUYẾN ĐI THỰC TẾ BẢO TÀNG HỒ CHÍ MINH VỀ CUỘC ĐỜI CỦA BÁC HỒ Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh Nội dung trình bày: Thời niên thiếu của Bác Hồ, giai đoạn tìm đường cứu nước và chuẩn bị thành lập Đảng Bảo tàng Hồ Chí Minh hay còn gọi là Bến Nhà Rồng là một di tích lịch sử nổi tiếng của nước ta. Bến Nhà Rồng được xây dựng từ năm 1864, trước kia là một thương cảng lớn của Sài Gòn. Tại nơi đây, ngày 5/6/1911, người thanh niên Nguyễn Tất Thành (sau này lấy tên là Hồ Chí Minh) đã lên tàu Amiral Latouche Tréville với tên Nguyễn Văn Ba để ra đi tìm đường cứu nước giải phóng cho dân tộc Việt Nam. Bác Hồ lúc nhỏ có tên là Nguyễn Sinh Cung, sau đổi thành Nguyễn Tất Thành, sinh ngày 19/5/1890, quê ở làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Người cha của Bác, cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc là một nhà nho cấp tiến, có lòng yêu nước, thương dân sâu sắc. Tấm gương lao động cần cù, ý chí kiên cường vượt qua gian khổ để đạt được mục tiêu, đặc biệt là tư tưởng thân dân, lấy dân làm hậu thuẫn cho các cải cách chính trị-xã hội của cụ Phó bảng đã có ảnh hưởng sâu sắc đối với quá trình hình thành nhân cách của Nguyễn Tất Thành. Người mẹ của Bác-bà Hoàng Thị Loan cũng ảnh hưởng đến tư tưởng, tình cảm của Nguyễn Sinh Cung về đức tính nhân hậu, đảm đang, sống chan hòa với mọi người. Sinh ra trong gia đình nhà nho yêu nước, lớn lên ở một địa phương có truyền thống yêu nước, anh dũng chống giặc ngoại xâm. Lúc bấy giờ đất nước chìm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, thời niên thiếu và thanh niên của Người đã chứng kiến nỗi khổ cực của đồng bào và những phong trào đấu tranh chống thực dân, Người sớm có chí đánh đuổi thực dân, giành độc lập cho đất nước, đem lại tự do, hạnh phúc cho đồng bào. Người khâm phục tinh thần yêu nước của các chí sĩ Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh,... nhưng lại không tán thành con đường cứu nước của họ. Phong trào Đông Du, cầu viện Nhật Bản của Phan Bội Châu chẳng khác gì “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”. Còn chủ trương “ỷ Pháp cầu tiến bộ”, khai thông dân trí nâng cao dân khí của Phan Chu Trinh chẳng qua chỉ là việc “cầu xin Pháp rủ lòng thương” Các phong trào Đông Du, Duy Tân, các cuộc khởi nghĩa đều bị thực dân Pháp dập tắt. cách mạng lâm vào tình trạng khủng hoảng, thiếu hẵn một phương pháp cách mạng khoa học. Một đòi hỏi tất yếu là phải tìm ra con đường giải phóng cho dân tộc. Trước bối cảnh đó, người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã tự định ra cho mình một hướng đi mới: “phải tìm hiểu cho rõ bản chất của những từ Tự do, Bình đẳng, Bác ái của nước Cộng hòa Pháp, phải đi ra nước ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm thế nào, sẻ trở về giúp đồng bào mình.” Ngày 5/6/1911, Nguyễn Tất Thành với cái tên Văn Ba – làm nghề phụ bếp từ Bến cảng Nhà Rồng, thành phố Sài Gòn (nay là TP.Hồ Chí Minh) rời Tổ quốc đi sang Pháp trên con tàu Amiran Latusơ Tơrevin bắt đầu con đường đi tìm chân lý. Trong thời gian làm việc trên tàu, mặc dù phải làm việc hàng ngày từ 4 giờ sáng đến 9 giờ tối, nhưng Người vẫn tranh thủ học ngoại ngữ, học thêm kiến thức. Với đôi bàn tay trắng, Nguyễn Tất Thành đã bôn ba khắp bốn biển, đi qua nhiều nước thuộc địa, tư bản, đế quốc, chứng kiến cuộc sống của con người những nơi anh đi qua, xúc động trước cảnh khổ cực, bị áp bức của những người dân lao động. Việc ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành lúc bấy giờ là hết sức mới mẻ và xuất phát từ ý thức dân tộc, từ hoài bão cứu nước của của Người. Ngày đầu tiên đặt chân đến Pháp, anh nhận thấy ở Pháp cũng có những người lao động nghèo như ở Việt Nam và có những người rất tốt và lịch sự hơn những tên Pháp ở Đông Dương, đồng thời anh cũng thấy những tệ nạn xã hội ở Pháp và anh đã hỏi người đi cùng “Tại sao người Pháp không ‘khai hóa’ đồng bào của họ trước khi đi ‘khai hóa’ chúng ta”. Không dừng lại ở Pháp, năm 1912, Nguyễn Tất Thành làm thuê cho một chiếc tàu của Pháp đi vòng quanh châu Phi, đã có dịp dừng lại ở những bến cảng của một số nước như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Angiêri, Tuynidi, Côngô,… Đến đâu anh cũng thấy cảnh khổ cực của người lao động dưới sự áp bức bóc lột dã man, vô nhân đạo của bọn thống trị. Từ đó, Nguyễn Tất Thành hình thành tư tưởng phải đoàn kết các dân tộc thuộc địa bị áp bức với nhau để cùng chống lại chủ nghĩa đế quốc. Giữa tháng 12/1912, Nguyễn Tất Thành tới nước Mỹ, Người dành một phần thời gian để lao động kiếm sống, còn phần lớn thời gian dành cho học tập, nghiên cứu bản tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ, Cách mạng tư sản Mỹ năm 1776. Khi đứng dưới chân tượng Nữ thần tự do tại New York, Người nhận thấy một điều mâu thuẫn là dưới chân tượng nữ thần tự do không hề có tự do, vẫn có những người nô lệ da đen bị áp bức bóc lột tại nước Mỹ. Dừng chân ở Mỹ không lâu, Nguyễn Tất Thành chẳng những không bị choáng ngợp bởi vẻ hào hoa tráng lệ của một nước Mỹ đang trong thời kì phát triển mạnh mà ngược lại, anh đã nhận ra bộ mặt thật của bọn đế quốc Hoa Kỳ. Đằng sau khẩu hiệu “cộng hòa dân chủ” của giai cấp tư sản Mỹ là những thủ đoạn bóc lột nhân dân lao động rất tàn bạo và tinh vi. Anh cảm thông sâu sắc với đời sống của người dân lao động da đen và rất căm giận bọn phân biệt chủng tộc, hành hình người da đen một cách man rợ, mà sau này anh đã viết lại trong bài báo Hành hình kiểu Linsơ. Năm 1913, Nguyễn Tất Thành rời Mỹ sang Anh. Thời gian đầu tại Anh rất khó khăn với Nguyễn Tất Thành, anh phải chấp nhận làm đủ mọi công việc nặng nhọc để kiếm sống như cào tuyết, thợ đốt lò. Không lâu sau, Nguyễn Tất Thành được thuê làm phụ bếp ở khách sạn Carlton tại Haymarket. Ban đầu, anh làm công việc rửa bát, đĩa, nồi, chảo,... Khi thấy những người giàu bỏ những thức ăn thừa khá nhiều, anh gói lại những phần ngon còn sót lại chia cho những người nghèo. Việc làm này khiến vua đầu bếp Escophier khá cảm kích nên đã chuyển Nguyễn Tất Thành sang công việc làm bánh. Tại Anh, Nguyễn Tất Thành không chỉ lo làm việc kiếm sống, anh còn hăng hái tham dự những cuộc diễn thuyết ngoài trời của nhiều nhà chính trị và triết học, tham gia Hội những người lao động hải ngoại, ủng hộ cuộc đấu tranh yêu nước của nhân dân. Cuối năm 1917, Nguyễn Tất Thành nghỉ việc và sang Pháp. Do chưa có giấy tờ hợp pháp, anh phải sống ẩn náu, hạn chế đi lại để tránh sự kiểm tra của cảnh sát. Cuộc sống khi đó của Nguyễn Tất Thành gặp rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, anh vẫn kiên trì, hăng say học tập, lao động và hoạt động. Anh vẫn thường xuyên gặp gỡ với những người Việt Nam có tư tưởng và khuynh hướng tiến bộ tại Pháp như Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, từng bước tham gia vào cuộc đấu tranh của phong trào công nhân và lao động Pháp. Năm 1919, Nguyễn Tất Thành gia nhập Đảng xã hội Pháp. Khi được hỏi vì sao vào Đảng, anh trả lời: Vì đây là tổ chức duy nhất theo đuổi lý tưởng cao quý của Đại cách mạng Pháp: “Tự do, Bình đẳng, Bác ái”. Cũng trong năm 1919, Nguyễn Tất Thành đã khiến cho thế giới và nhân dân Pháp phải chú ý tới Việt Nam bằng việc gửi Bản Yêu sách của nhân dân An Nam tới Hội Nghị Vecxai đòi chính phủ Pháp thừa nhận quyền tự do, dân chủ và bình đẳng của nhân dân Việt Nam. Bản Yêu sách này được Nguyễn Tất Thành ký tên là Nguyễn Ái Quốc, được dịch ra 2 thứ tiếng và được chính Nguyễn Ái Quốc phân phát cho các trong các cuội hội họp, mittinh. Từ thời điểm này, thực dân Pháp bắt đầu chú ý nhiều hơn tới Nguyễn Ái Quốc. Tuy bản Yêu sách không được đáp ứng, nhưng nó lại có tác động mạnh mẽ người Việt Nam trong và ngoài nước, đồng thời, qua việc bản yêu sách không được chấp nhận, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy rằng “Chủ nghĩa Uynxon chỉ là một trò bịp bợm lớn”, và “Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình”. Từ yêu cầu đấu tranh đó, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy cần phải học viết báo để tố cáo tội ác của thực dân Pháp. Một trong số các bài báo do Nguyễn Ái Quốc đăng là “Vấn đề bản xứ” đăng trên báo Nhân Đạo (L’ Humanité) ngày 2/8/1919. Trong bài báo, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định nguyện vọng của nhân dân Việt Nam là chính đáng; đồng thời tố cáo, lên án những chính sách cai trị cùng các thủ đoạn đàn áp, cướp bóc của thực dân Pháp ở Đông Dương và tin tưởng rằng nhân dân tiến bộ Pháp sẽ đồng tình, ủng hộ cuộc đấu tranh vì tự do và công lý của nhân dân Việt Nam. Với bài báo trên, chúng ta thấy rõ Nguyễn Ái Quốc là một người yêu nước tiến bộ, căm thù chủ nghĩa thực dân Pháp. Người có khát vọng là đấu tranh giải phóng dân tộc, đem lại tự do hạnh phúc cho nhân dân. Nhưng Nguyễn Ái Quốc vẫn chưa tìm được con đường đúng đắn, vẫn chưa biết đi theo hướng nào. Bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ đang hình thành phong trào cộng sản, nhất là sau khi Cách mạng tháng 10 Nga giành thắng lợi năm 1917. Sự thắng lợi của cách mạng Tháng Mười thể hiện sự ưu việt của chủ nghĩa Mác-Lênin so với các trào lưu cơ hội, xét lại trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Chính từ đây chủ nghĩa xã hội không chỉ còn là lý tưởng, là học thuyết mà là hiện thực cụ thể. Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười Nga chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin được Đại hội lần thứ hai Quốc tế Cộng sản họp năm 1920 thông qua, đã vạch ra đường lối cơ bản cho phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc. Lần đầu tiên trên báo Nhân đạo, ngày 16 và 17-7-1920 đã đăng Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin. Nguyễn Ái Quốc ngay lập tức đã chú ý tới bài báo này, Người nói “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: ‘Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!’” Kể từ đó, Nguyễn Ái Quốc đã hoàn toàn đi theo Quốc tế 3, đi theo con đường cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác-Lênin. Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp, Nguyễn Ái Quốc được mời phát biểu. Trong bài phát biểu, Người lên án chủ nghĩa đế quốc Pháp, vì lợi ích của nó, đã dùng lưỡi lê chinh phục Đông Dương và trong suốt nửa thế kỷ, nhân dân Đông Dương không những bị áp bức và bóc lột một cách nhục nhã mà còn bị hành hạ và đầu độc một cách thê thảm. Bằng những sự thật, Nguyễn Ái Quốc tố cáo những sự tàn bạo mà bọn thực dân Pháp đã gây ra ở Đông Dương. Cũng tại Đại hội này, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành tham gia Quốc tế III Quốc tế Cộng sản, trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, và Người cũng trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Việc Người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp năm 1920 đánh dấu một bước nhảy vọt trong tư tưởng và lập trường chính trị của Người. Từ một người yêu nước trở thành một người cộng sản, Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Tại thời điểm này, sự lựa chọn của Nguyễn Ái Quốc là phù hợp với trào lưu tiến hóa của lịch sử, chuyển từ chủ nghĩa yêu nước sang chủ nghĩa cộng sản, đồng thời kéo theo cả một lớp người Việt Nam yêu nước chân chính đi theo chủ nghĩa Mác-Lênin. Từ đó chủ nghĩa Mác – Lênin bắt đầu thâm nhập vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, cách mạng Việt Nam từ đây có một phương hướng mới. Từ khi tìm được hướng đi đúng đắn cho con đường giải phóng dân tộc, Nguyễn Ái Quốc nhận thức được trách nhiệm to lớn của mình là phải mang toàn bộ khả năng và sức lực góp phần cùng Đảng Cộng sản Pháp quan tâm hơn nữa đến các dân tộc thuộc địa, bằng một kế hoạch hoạt động chính xác, một chính sách có hiệu quả và thiết thực. Thời kì từ năm 1920-1930 là thời kì hoạt động sôi nổi của Người trên các lĩnh vực, các đại hội quốc tế và trên báo chí, nhằm lên án tội ác của chủ nghĩa thực dân đối với nhân dân các nước thuộc địa, thức tỉnh nhân dân các nước thuộc địa, hướng họ vào cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do. Ngày 12/12/1921, Nguyễn Ái Quốc dự Đại hội Đảng bộ quận Xen (Seine), nơi Người cư trú và được bầu là đại biểu chính thức dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I của Đảng Cộng sản Pháp, họp từ ngày 25 đến 30/12/1921 tại Mácxây. Đại hội đã bầu Nguyễn Ái Quốc làm phụ tá của Chủ tịch Đại hội. Người khẳng định: “Chỉ có trong chủ nghĩa cộng sản người ta mới thấy tình hữu ái thực sự và quyền bình đẳng, và cũng chỉ có nó chúng ta mới có thể thực hiện sự hoà hợp và hạnh phúc ở chính quốc và ở các thuộc địa”. Sau đại hội, Nguyễn Ái Quốc đề nghị Ban lãnh đạo Đảng thành lập Ban Nghiên cứu thuộc địa, có nhiệm vụ giúp Đảng cập nhật thông tin về tình hình các thuộc địa, đề xuất các chính sách đấu tranh với giai cấp tư sản và bọn thực dân, giúp đỡ và phối hợp đấu tranh với các dân tộc thuộc địa,... Ý kiến này được chấp thuận và Nguyễn Ái Quốc được chỉ định tham gia ban đó. Tuy nhiên, trong đại hội lần thứ II của Đảng Cộng sản Pháp, vấn đề thuộc địa vẫn không có trong chương trình nghị sự. Nguyễn Ái Quốc lên tiếng phê bình Đảng Cộng sản Pháp chưa quan tâm đúng mức đến vấn đề thuộc địa. Theo đề nghị tích cực của Nguyễn Ái Quốc, Đại hội đã biểu quyết thông qua “Lời kêu gọi những người bản xứ ở các thuộc địa”, nhấn mạnh “Vì hoà bình thế giới, vì tự do và sự no ấm của mọi người, những người bị bóc lột thuộc mọi nòi giống, chúng ta hãy đoàn kết lại và đấu tranh chống bọn áp bức”. Với những hoạt động hiệu quả trong hai lần đại hội của Đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã thúc đẩy Đảng Cộng sản Pháp đi đúng tư tưởng chỉ đạo của Lênin về vấn đề thuộc địa. Qua hoạt động trong các buổi hội họp, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy để có thể thúc đẩy sự nghiệp cách mạng của nhân dân các thuộc địa, để có một bộ tham mưu tổ chức và lãnh đạo thống nhất cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc ở các thuộc địa, và để có được sự đồng tình và ủng hộ của Đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã cùng với đại biểu thuộc địa của Pháp đứng ra vận động thành lập Hội liên hiệp thuộc địa – một hình thức mặt trận của các dân tộc bị chủ nghĩa thực dân Pháp thống trị, liên minh với giai cấp vô sản ở chính quốc cùng đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Từ những đóng góp tích cực mình, Nguyễn Ái Quốc đã được bầu vào Ban chấp hành của Hội liên hiệp thuộc địa, đồng thời được phân công làm chủ nhiệm kiêm chủ bút của tờ báo Le Paria(Người cùng khổ) – Cơ quan ngôn luận của Hội liên hiệp thuộc địa. Nguyễn Ái Quốc phụ trách tờ báo từ số 1 đến số 15 (6/1923) trước khi rời Pháp đi Liên Xô. Trong thời gian này, Người viết 30 bài. Những bức tranh, ký họa của Người đăng trên báo ký tên Nguyễn Ái Quốc và một số bút danh khác. Nội dung các bài viết này tập trung vạch trần tội ác của chủ nghĩa thực dân trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội đối với nhân dân Việt Nam, nhân dân Đông Dương và các thuộc địa khác. Từ đó, giúp người đọc nhận thức rõ hơn về sự tàn bạo của chủ nghĩa thực dân nói chung và thực dân Pháp nói riêng; về mâu thuẫn không thể điều hoà giữa chủ nghĩa thực dân với nhân dân lao động tại các thuộc địa; về mối quan hệ giữa cách mạng thuộc địa và chính quốc. Năm 1923, Nguyễn Ái Quốc rời Pháp sang Liên Xô, Người tham dự Đại hội Quốc tế Cộng sản, đồng thời tham gia lớp học ngắn hạn của Trường đại học Phương Đông. Ngày 21-1-1924, Lênin qua đời. Vô cùng thương tiếc Lênin, ngày 23-1-1924, Nguyễn Ái Quốc đã có mặt trong dòng người vào vĩnh biệt Lênin. Sau đó, Người viết bài: Lênin và các dân tộc thuộc địa, đăng báo Sự thật, ngày 27-1-1924, và khẳng định: “Lênin bất diệt sẽ sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta”. Đây là lời thề của người chiến sĩ cộng sản Nguyễn Ái Quốc, Người sẽ phấn đấu hiện thực hoá tư tưởng của Lênin vĩ đại ở các thuộc địa. Người sẽ gắn bó cuộc cách mạng giải phóng dân tộc với con đường đi tới cuộc cách mạng xã hội xã hội chủ nghĩa sau đó. Nguyễn Ái Quốc dự Đại hội V Quốc tế Cộng sản họp từ ngày 17-6 đến 8-7-1924 tại Mátxcơva. Tại đại hội, Nguyễn Ái Quốc đặc biệt lưu tâm đến vấn đề dân tộc và và vấn đề thuộc địa. Người khẳng định: “Cách mạng ở phương Tây muốn thắng lợi thì nó phải liên hệ chặt chẽ với phong trào giải phóng chống chủ nghĩa đế quốc ở các nước thuộc địa và các nước bị nô dịch”. Với danh nghĩa đại biểu Đông Dương, Nguyễn Ái Quốc được mời tham dự Đại hội lần thứ III Quốc tế Công hội đỏ, họp từ ngày 7 đến ngày 22-7-1924. Trong bài tham luận tại hội nghị, Người đề nghị “Các tổ chức công nhân cách mạng Pháp phải tích cực giúp đỡ chúng tôi trong cuộc đấu tranh giải phóng của chúng tôi”. Với các hoạt động tích cực tại các đại hội trên, Nguyễn Ái Quốc đã giúp giai cấp công nhân thế giới và nhân dân Xô viết hiểu rõ hơn về tình cảnh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam nói riêng và nhân dân Đông Dương nói chung, đồng thời đặt nền móng cho sự liên minh, tình đoàn kết vô sản quốc tế giữa nhân dân Việt Nam và những người lao động thế giới. Người nói: “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở thuộc địa. Nếu muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi còn lại kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản, con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra”. Từ đó, Nguyễn Ái Quốc khẳng định muốn thủ tiêu tận gốc chủ nghĩa tư bản thì phải xây dựng tình đoàn kết giữa giai cấp vô sản ở các nước chính quốc và vô sản cùng với đội tiên phong của nó ở các nước thuộc địa, đoàn kết các dân tộc lại thành một mặt trận thống nhất chống chủ nghĩa đế quốc. Khi sống và hoạt động tại Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy rằng, Quốc tế Cộng sản và các đảng ở châu Âu hiểu biết rất ít về tình hình ở các thuộc địa. Đặc biệt, Người nhận thức rõ rằng, không thể áp dụng một cách máy móc, rập khuôn những nguyên lý về đấu tranh giai cấp của học thuyết Mác vào điều kiện cụ thể của các thuộc địa. Nắm vững những vấn đề cơ bản của học thuyết Mác-Lênin, Nguyễn Ái Quốc còn đề xuất nhiều luận điểm và phát triển một cách sáng tạo lý luận về cách mạng thuộc địa của Lênin, làm phong phú lý luận Mác – Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc trong quỹ đạo cách mạng vô sản. Nguyễn Ái Quốc chọn con đường về gần Tổ quốc, xúc tiến một lộ trình cho công cuộc giải phóng dân tộc Việt Nam. Khi biết sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, hiện có nhiều thanh niên yêu nước Việt Nam đang có mặt ở Quảng Châu, họ yêu nước, nhưng chưa có tổ chức và thiếu một đường lối đúng đắn trong hoạt động, Nguyễn Ái Quốc đã chọn Quảng Châu làm điểm dừng chân trên hành trình tiến gần về Tổ quốc, để tổ chức, đoàn kết, huấn luyện những thanh niên đầy nhiệt huyết đó đưa họ ra đấu tranh giành tự do, độc lập. Tháng 11 năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu. Nhằm tập hợp những thanh niên yêu nước trong và ngoài nước, 6/1925 Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Hội được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ, cấp dưới phục tùng cấp trên, thiểu số phục tùng đa số, lấy tự phê bình và phê bình làm phương châm phát triển của mình. Trong Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, tất cả các hội viên phải hoạt động trong quần chúng, tuyệt đối giữ bí mật hoạt động của hội. Hội được tổ chức thành 5 cấp: Tổng bộ, kỳ bộ, tỉnh bộ, huyện bộ và chi bộ. Việc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên là một sáng tạo, có chủ đích của Nguyễn Ái Quốc. Đây là một tổ chức quá độ, phù hợp với điều kiện của Việt Nam khi đó, nhằm đưa chủ nghĩa Mác – Lênin, đường lối và phương pháp đấu tranh cách mạng mới vào phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân ta. Cuối năm 1925, Nguyễn Ái Quốc mở lớp huấn luyện chính trị để chuẩn bị xây dựng một đội ngũ cán bộ làm nòng cốt cho việc tuyên truyền những nguyên lý cơ bản của học thuyết Mác – Lênin về trong nước. Nguyễn Ái Quốc còn chủ trương xuất bản sách và báo chí làm phương tiện tuyên truyền. Báo Thanh niên, cơ quan ngôn luận của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên do Nguyễn Ái Quốc sáng lập và trực tiếp chỉ đạo, đồng thời là cây bút chủ chốt, tờ báo này đã góp phần quan trọng vào việc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức để tiến tới thành lập chính đảng kiểu mới của giai cấp công nhân Việt Nam. Trong những năm tháng hoạt động cách mạng ở Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc thể hiện vai trò của một người chiến sĩ cộng sản quốc tế. Người tham gia những hoạt động giúp đỡ phong trào cách mạng các nước trong khu vực. Sau cuộc đảo chính phản cách mạng của Tưởng Giới Thạch (4/1927), Nguyễn Ái Quốc trở lại Mátxcơva vào tháng 5/1927. Từ tháng 7/1928 đến tháng 11/1929, Nguyễn Ái Quốc hoạt động ở Xiêm (nay gọi là Thái Lan), xây dựng lực lượng cách mạng trong Việt kiều yêu nước. Trong thời gian ở Xiêm, Người tiếp tục các hình thức hoạt động như ở Quảng Châu. Người hoà mình với đông đảo quần chúng, sống đời sống của quần chúng, làm những việc cùng với quần chúng, phát hành báo chí, mở lớp đào tạo ngắn hạn cho hội viên của chi hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, nắm tình hình trong nước và Quốc tế Cộng sản,... Trong những năm 1928-1929, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân ta tiếp tục phát triển mạnh về số lượng và chất lượng. Trong bối cảnh đó, những phần tử tiên phong trong phong trào cách mạng đã nhận thức được tình hình, và đứng ra thành lập những tổ chức cộng sản đầu tiên vào nửa cuối năm 1929 đầu năm 1930. Cuối năm 1929, đã có 3 tổ chức cộng sản ra đời là An nam Cộng sản Đảng, Đông Dương cộng sản Đảng và Đông Dương cộng sản liên đoàn. Sự tồn tại ba tổ chức cộng sản biệt lập, tranh giành ảnh hưởng lẫn nhau trong một đất nước, đã dẫn đến nguy cơ chia rẽ, phân liệt của phong trào đấu tranh cách mạng. Yêu cầu cấp bách của cách mạng Việt Nam lúc này là phải chấm dứt tình trạng chia rẽ giữa các tổ chức cộng sản, thống nhất các tổ chức đó thành một đảng cộng sản duy nhất trong cả nước. Tại Cửu Long, Hồng Kông, từ ngày 6-1-1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản đã được tiến hành dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc. Tham dự hội nghị có các đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng là Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh; An Nam Cộng sản Đảng là Nguyễn Thiệu và Châu Văn Liêm. Hội nghị hợp nhất đã diễn ra thuận lợi và đạt được sự nhất trí hoàn toàn, trên cơ sở bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, đặt tên đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt, chương trình tóm tắt của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Các văn kiện này trở thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Trong hội nghị hợp nhất 3 tổ chức cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã có vai trò hết sức quan trọng. Người đã thể hiện sự sáng tạo của mình trong cả hoạt động thực tiễn và lý luận. Nguyễn Ái Quốc đã nhận định: “Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản nước ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng” Tài liệu tham khảo: Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh Hồ Chí Minh – Biên niên tiểu sử Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch www.lichsuvietnam.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxBài cảm nhận sau chuyến đi thực tế thăm bảo tàng Hồ Chí Minh.docx
Tài liệu liên quan