Pháp luật quy định các con đều có quyền bình đẳng với nhau trong việc được cha mẹ cấp dưỡng. Do đó, con trai, con gái, con đẻ, con nuôi, con trong thời kì hôn nhân, con ngoài hôn nhân được cha mẹ cấp dưỡng như nhau. Quy định này xuất phát từ nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình là: Nhà nước và xã hội không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các con, thể hiện tính tiến bộ của chế độ hôn nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa so với chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến trước đây.
Khi cha mẹ ốm đau, già yếu, tàn tật thì con có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha, mẹ (khoản 2 Điều 36). Nghĩa vụ cấp dưỡng của con đối với cha, mẹ xuất phát trên cơ sở này, được quy định cụ thể tại Điều 57 Luật hôn nhan và gia đình: “Con đã thành niên không sống chung với cha mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cha mẹ không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.”. Khi cha, mẹ không có khả năng lao động (do già yếu, ốm đau, tàn tật ) và cũng không có tài sản để nuôi mình mà con không sống chung với cha, mẹ, do đó không trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cha, mẹ thì có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cha, mẹ, để đảm bảo cuộc sống cho cha, mẹ. Nghĩa vụ cấp dưỡng của con đối với cha, mẹ chỉ đặt ra khi cha, mẹ không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, và con có khả năng về kinh tế, đủ để đảm bảo cuộc sông cho chính mình.
16 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7151 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Cấp dưỡng giữa các thành viên trong gia đình- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mức cấp dưỡng, thì một trong các bên hoặc cả hai bên có thể yêu cầu Tòa án giải quyết. Tất nhiên, Tòa án cũng sẽ căn cứ vào nhu cầu của người có quyền được cấp dưỡng và khả năng đáp ứng của người có nghĩa vụ cấp dưỡng để xác định mức cấp dưỡng khả thi. Trong điều kiện luật không có quy định riêng, các tranh chấp về mức cấp dưỡng được giải quyết theo luật chung về tố tụng dân sự, nghĩa là có thể được kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm, có thể được xét lại theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
*Thay đổi mức cấp dưỡng.
Mức cấp dưỡng được thỏa thuận hoặc được ấn định bằng con đường tư pháp không nhất thiết được cố định trong suốt thời gian cấp dưỡng: Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi . Theo Điều 53 Luật hôn nhân gia đình còn quy định: “Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết”.
*Việc quyết định mức cấp dưỡng phải căn cứ vào hai điều kiện:
-Thứ nhất: Căn cứ vào thu nhập (bao gồm gồm lương và thu nhập thực tế), khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 16 – NĐ 70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001 quy định chi tiết thi hành Luật hôn nhân và gia đình thì : “Người có khả năng thực tế để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng được quy định tại các điều 51, 52 và 53 của Luật Hôn nhân và gia đình là người có thu nhập thường xuyên hoặc tuy không có thu nhập thường xuyên nhưng còn tài sản sau khi đã trừ đi chi phí thông thường cần thiết cho cuộc sống của người đó”.
Khoản 3 Điều 16 – NĐ 70/2001/NĐ-CP quy định: Trong trường hợp nhiều người cùng có nghĩa vụ cấp dưỡng cho một người, mà trong số đó có người có khả năng thực tế và có người không có khả năng thực tế để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định tại khoản 1 Điều này, thì người có khả năng thực tế phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho người được cấp dưỡng theo quy định tại Điều 52 của Luật Hôn nhân và gia đình.
Đảm bảo tính khả thi của nghĩa vụ cấp dưỡng và quyền lợi của người được cấp dưỡng.
-Thứ hai: Căn cứ vào nhu cầu thiết yếu (nhu cầu về ăn, ở, mặc, học tập, đi lại, chữa bệnh…) của người được cấp dưỡng.
Theo khoản 2 Điều 16 – NĐ 70/2001/NĐ-CP thì “Nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng theo quy định tại các điều 51, 52 và 53 của Luật này được xác định căn cứ vào mức sinh hoạt trung bình tại địa phương nơi người được cấp dưỡng cư trú, bao gồm các chi phí thông thường cần thiết về ăn, ở, mặc, học, khám chữa bệnh và các chi phí thông thường cần thiết khác để bảo đảm cuộc sống của người được cấp dưỡng”.
b/ Phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
Điều 54 Luật hôn nhân gia đình quy định: “Việc cấp dưỡng có thể được thực hiện định kỳ hàng tháng, hàng quý, nửa năm, hàng năm hoặc một lần”
Theo khoản 1 Điều 18 – NĐ 70/2001/NĐ-CP quy định: “Người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thoả thuận về phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng bằng tiền hoặc bằng tài sản. Nghĩa vụ cấp dưỡng được ưu tiên thực hiện theo phương thức định kỳ hàng tháng, hàng quý, nửa năm hoặc hàng năm”.
Trong trường hợp đặc biệt, nếu người có nghĩa vụ cấp dưỡng có khả năng thực tế và người được cấp dưỡng cũng đồng ý thì nghĩa vụ cấp dưỡng có thể được thực hiện một lần . Theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 Điều 18 – NĐ 70/2001/NĐ-CP thì: “…2. Việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo phương thức cấp dưỡng một lần quy định tại Điều 54 của Luật Hôn nhân và gia đình được thực hiện trong các trường hợp sau đây: a) Do người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thoả thuận với người có nghĩa vụ cấp dưỡng; b) Theo yêu cầu của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và được Toà án chấp nhận; c) Theo yêu cầu của người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó và được Toà án chấp nhận trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng thường xuyên có các hành vi phá tán tài sản hoặc cố tình trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng mà hiện có tài sản để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng một lần; d) Theo yêu cầu của người trực tiếp nuôi con khi vợ chồng ly hôn mà có thể trích từ phần tài sản được chia của bên có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. 3. Theo yêu cầu của người có nghĩa vụ cấp dưỡng, khoản cấp dưỡng một lần có thể được gửi tại ngân hàng hoặc được giao cho người được cấp dưỡng, người giám hộ của người được cấp dưỡng quản lý, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác. 4. Người được giao quản lý khoản cấp dưỡng một lần có trách nhiệm bảo quản tài sản đó như đối với tài sản của chính mình và chỉ được trích ra để bảo đảm các nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng”.
Quy định này phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội hiện nay, góp phần bảo vệ thiết thực quyền lợi của người được cấp dưỡng, ngăn chặn những hành vi phá tán tài sản, trốn tránh, trì hoãn…thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng của người có nghĩa vụ cấp dưỡng, đồng thời bảo đảm việc thi hành nghĩa vụ cấp dưỡng nhanh, gọn, có hiệu quả.
Theo quy định tại Điều 19 – NĐ 70/2001/NĐ-CP: “Trong trường hợp người được cấp dưỡng một lần lâm vào tình trạng khó khăn trầm trọng do bị tai nạn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo mà người đã thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng có khả năng thực tế để cấp dưỡng ở mức cao hơn, thì phải cấp dưỡng bổ sung theo yêu cầu của người được cấp dưỡng”.
Thông thường cấp dưỡng một lần được thực hiện xong, nghĩa vụ cấp dưỡng của người cấp dưỡng sẽ chấm dứt. Tuy nhiên trong một số trường hợp nhất định như đã phân tích ở trên, người được cấp dưỡng vẫn có quyền yêu cầu cấp dưỡng tiếp. Điều này là cần thiết để đảm bảo cuộc sống của người được cấp dưỡng trong những hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, nhất là đối với con chưa thành niên và cha, mẹ già yếu.
Điều 54 Luật hôn nhân gia đình còn quy định: “Các bên có thể thoả thuận thay đổi phương thức cấp dưỡng, tạm ngừng cấp dưỡng trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế mà không có khả năng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết”. Quy định này bảo đảm tính khả thi của việc cấp dưỡng.
Phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng được quy định rất linh hoạt, mềm dẻo, tạo điều kiện cho các bên dễ dàng thỏa thuận, lựa chọn cách thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng sao cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của mình.
c/ Vấn đề bảo đảm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
Khi bản án, quyết định về việc cấp dưỡng của Tòa án có hiệu lực, người có nghĩa vụ cấp dưỡng có thể tự nguyện thi hành nghĩa vụ cấp dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định. Nếu thời hạn tự nguyện thi hành mà người có nghĩa vụ cấp dưỡng không chịu thi hành thì có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án phù hợp với quy định của pháp luật tại các Điều 55, 107 Luật hôn nhân và gia đình, Điều 20 – NĐ 70/2001/NĐ-CP, Điều 12 – NĐ 87/2001/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình.
d/ Người có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
Theo quy định tại Điều 55 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và Điều 162 BLTTDS, những người sau đây có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng khi người có nghĩa vụ cấp dưỡng không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ đó:
-Người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó.
-Cơ quan về dân số, gia đình và trẻ em.
-Hội liên hiệp phụ nữ.
Bảo đảm lợi ích của người được cấp dưỡng, đặc biệt là người già và trẻ em, vì thông thường những chủ thể này rất ít khi tự mình yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
II/ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CẤP DƯỠNG GIỮA CÁC THÀNH VIÊN TRONG GIA ĐÌNH.
1/ Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con.
Thông thường cha, mẹ và con cùng chung sống thì họ có nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau, nên nghĩa vụ cấp dưỡng không được đặt ra. Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con thường xảy ra trong các trường hợp sau :
Trường hợp thứ nhất: Khi hôn nhân đang tồn tại, mà cha mẹ không có điều kiện trực tiếp nuôi con (do đo công tác xa, phải chấp hành án phạt tù, đi điều trị bệnh lâu dài…), con được giao cho người khác trông nom thì cha mẹ phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.
Trong trường hợp cha, mẹ bị hạn chế quyền cha, mẹ đối với con chưa thành niên theo quy định tại Điều 41 Luật hôn nhân và gia đình thì không được thực hiện quyền trông nom, chăm sóc, giáo dục con, quản lý tài sản của con nhưng vẫn phải có nghĩa vụ cáp dưỡng cho con (Khoản 3 Điều 43).
Trường hợp thứ hai: Khi cha, mẹ ly hôn.
Khi ly hôn, cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con, theo quy định tại Điều 56 và Điều 92 Luật hôn nhân gia đình:
Điều 56. Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con khi ly hôn
Khi ly hôn, cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi con chưa thành niên hoặc con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Mức cấp dưỡng cho con do cha, mẹ thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết.
Điều 92. Việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con sau khi ly hôn
1. Sau khi ly hôn, vợ, chồng vẫn có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
2. Vợ, chồng thoả thuận về người trực tiếp nuôi con, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; nếu không thoả thuận được thì Toà án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ chín tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
Về nguyên tắc, con dưới ba tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, nếu các bên không có thoả thuận khác.
Theo Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP thì “Đây là nghĩa vụ của cha, mẹ; do đó, không phân biệt người trực tiếp nuôi con có khả năng kinh tế hay không, người không trực tiếp nuôi con vẫn phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Trong trường hợp người trực tiếp nuôi con không yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cấp dưỡng vì lý do nào đó thì Toà án cần giải thích cho họ hiểu rằng việc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con là quyền lợi của con để họ biết nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con. Nếu xét thấy việc họ không yêu cầu cấp dưỡng là tự nguyện, họ có đầy đủ khả năng, điều kiện nuôi dưỡng con thì Toà án không buộc bên kia phải cấp dưỡng nuôi con”.
Như vậy, theo quy định của pháp luật thì nếu con không thuộc một trong các trường hợp đã nêu trong Điều 56 thì cha mẹ không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, còn đối với những người con thành niên có khả năng lao động hoặc có tài sản để tự nuôi mình thì cha mẹ không phải cấp dưỡng. Tuy nhiên, trong trường hợp con có quyền được cha mẹ cấp dưỡng nhưng cha mẹ lại không có khả năng để thực hiện nghĩa vụ đó thì cha mẹ cũng không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Chẳng hạn trường hợp cha mẹ bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và cũng không có tài sản để cấp dưỡng cho con. Nếu cha mẹ đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con mà lâm vào tình trạng khó khăn không có khả năng thực hiện nghĩa vụ thì được tạm hoãn thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
Trường hợp thứ ba: Một số trường hợp khác, trường hợp người cha phải cấp dưỡng cho con ngoài giá thú khi người con đó sống cùng người mẹ. Trong trường hợp người cha, người mẹ trốn tránh thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng con thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.
Các quy định chung:
- Đối tượng được cha, mẹ cấp dưỡng bao gồm tất cả các con chưa thành niên hoặc con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản đẻ tự nuôi mình
- Khi cha mẹ ly hôn thì con đã thành thai trong thời kỳ hôn nhân và sinh ra sau khi hôn nhân chấm dứt mà còn sống cũng được cấp dưỡng.
- Mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng cho con do cha mẹ thỏa thuận. Trong trường hợp không thỏa thuận được sẽ thực hiện theo Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP.
- Khi điều kiện, hoàn cảnh thay đổi hoặc khi thay đổi người trực tiếp nuôi con theo quy định tại Điều 93, thì các bên có thể thỏa thuận thay đổi về người cấp dưỡng, mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng cho con trên cơ sở vì lợi ích của con.
2/ Nghĩa vụ cấp dưỡng của con đối với cha mẹ.
Pháp luật quy định các con đều có quyền bình đẳng với nhau trong việc được cha mẹ cấp dưỡng. Do đó, con trai, con gái, con đẻ, con nuôi, con trong thời kì hôn nhân, con ngoài hôn nhân được cha mẹ cấp dưỡng như nhau. Quy định này xuất phát từ nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình là: Nhà nước và xã hội không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các con, thể hiện tính tiến bộ của chế độ hôn nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa so với chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến trước đây.
Khi cha mẹ ốm đau, già yếu, tàn tật thì con có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha, mẹ (khoản 2 Điều 36). Nghĩa vụ cấp dưỡng của con đối với cha, mẹ xuất phát trên cơ sở này, được quy định cụ thể tại Điều 57 Luật hôn nhan và gia đình: “Con đã thành niên không sống chung với cha mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cha mẹ không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.”. Khi cha, mẹ không có khả năng lao động (do già yếu, ốm đau, tàn tật…) và cũng không có tài sản để nuôi mình mà con không sống chung với cha, mẹ, do đó không trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cha, mẹ thì có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cha, mẹ, để đảm bảo cuộc sống cho cha, mẹ. Nghĩa vụ cấp dưỡng của con đối với cha, mẹ chỉ đặt ra khi cha, mẹ không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, và con có khả năng về kinh tế, đủ để đảm bảo cuộc sông cho chính mình. Do đó về nguyên tắc, nghĩa vụ cấp dưỡng cho cha, mẹ chỉ đặt ra đối với con đã thành niên. Pháp luật quy định các con bình đẳng với nhau trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ. Trong việc cấp dưỡng cho cha mẹ, các con cũng phải cùng nhau thực hiện nghĩa vụ đó.
3/ Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa anh, chị em.
Theo quy định tại Điều 48 Luật hôn nhân và gia đình: “Anh, chị, em có bổn phận yêu thương, chăm sóc, giúp đỡ nhau; có nghĩa vụ đùm bọc, nuôi dưỡng nhau trong trường hợp khôgn còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có điều kiện chăm nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con”, vì vậy anh, chị, em có nghĩa vụ cấp dưỡng cho nhau trong những hoàn cảnh nhất định.
Điều 58 Luật hôn nhân và gia đình quy định: “1. Trong trường hợp không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có khả năng lao động và không có tài sản để cấp dưỡng cho con thì anh, chị đã thành niên không sống chung với em có nghĩa vụ cấp dưỡng cho em chưa thành niên không có tài sản để tự nuôi mình hoặc em đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.2. Em đã thành niên không sống chung với anh, chị có nghĩa vụ cấp dưỡng cho anh, chị không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình”.
Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa anh chị em với nhau được hiểu như nghĩa vụ cấp dưỡng có tính chất bổ sung cho nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha mẹ và con. Vì vậy anh chị em chỉ được cấp dưỡng khi thuộc một trong các trường hợp sau:
+ Là người chưa thành niên và không có tài sản để tự nuôi mình;
+ Là người đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Trong cả hai trường hợp, yếu tố không có tài sản là yếu tố bắt buộc phải có để được cấp dưỡng. Nếu người chưa thành niên nhưng vẫn có tài sản để nuôi mình thì anh chị cũng không có nghĩa vụ cấp dưỡng.
Anh chị em cấp dưỡng cho người chưa thành niên hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì có thể thỏa thuận với người giám hộ về mức cấp dưỡng và phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu tòa án giải quyết. Quy định nghĩa vụ cấp dưỡng giữa anh chị em với nhau một mặt khẳng định nghĩa vụ của anh chị em là phải quan tâm chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, bảo đảm cho anh chị em được chăm sóc, nuôi dưỡng hoặc cấp dưỡng khi không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có khả năng để nuôi dưỡng hoặc cấp dưỡng cho con, mặt khác quy định này còn nhằm giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình việt Nam.
4/ Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa ông bà và cháu.
Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa ông bà và cháu chỉ phát sinh trong nhưng điều kiện hoàn cảnh nhất định.
Theo quy định tại Điều 59 Luật hôn nhân và gia đình: “Ông bà nội, ông bà ngoại không sống chung với cháu có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu trong trường hợp cháu chưa thành niên hoặc cháu đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và không có người cấp dưỡng theo quy định tại Điều 58 của Luật này”. Như vậy, cháu chỉ được ông bà cấp dưỡng khi cháu chưa thành niên, hoặc cháu đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình, không có cha, mẹ, anh, chị, em nuôi dưỡng hoặc cấp dưỡng và không sống chung với ông bà. Nghĩa vụ cấp dưỡng của ông bà đối với cháu chỉ phát sinh sau khi nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ, vợ, chồng, cob, anh, chị, em không thực hiện được. Quy định tại Điều 59 đã xác định thứ tự người có nghĩa vụ cấp dưỡng, tạo điều kiện thực hiện nghĩa vụ này trong thực tế và tránh xảy ra tranh chấp.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 59: “…Cháu đã thành niên không sống chung với ông bà nội, ông bà ngoại có nghĩa vụ cấp dưỡng cho ông bà nội, ông bà ngoại trong trường hợp ông bà không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và không có người khác cấp dưỡng theo quy định của Luật này”. Nghĩa vụ cấp dưỡng của cháu đối với ông bà chỉ đặt ra khi cháu đã thành niên, có khả năng kinh tế, và ông bà không có con cái, anh, chị, em nuôi dưỡng hoặc cấp dưỡng.
5/ Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng.
Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng là một nghĩa vụ cơ bản đồng thời là đạo lý của quan hệ vợ chồng, nghĩa vụ này là quy kết của nghĩa vụ chăm sóc lẫn nhau giữa vợ và chồng, nó là hệ quả tất yếu của quan hệ hôn nhân hợp pháp. Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng có thể phát sinh khi hôn nhân đang tồn tại hoặc khi vợ chồng ly hôn.
*/Khi hôn nhan đang tồn tại: vợ chồng có nghĩa vụ quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau. Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng được đặt ra trong trường hợp vì lí do nào đó mà họ không cùng chung sống với mà một trong hai bên đau ốm, tàn tật, có khó khăn túng thiếu cần được chăm sóc nhưng bên kia không quan tâm chăm sóc. Nếu người có khó khăn túng thiếu yêu cầu được cấp dưỡng thì nghĩa vụ cấp dưỡng trong thời kì hôn nhân mới được đặt ra.
*/ Khi vợ chồng ly hôn: Vợ chồng phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho nhau khi ly hôn. Điều 60 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Khi ly hôn, nếu bên khó khăn, túng thiếu có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do chính đáng thì bên kia có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng của mình”.Như vậy, đây là hai điều kiện cần và đủ để phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn, nếu thiếu một trong hai điều kiện trên thì nghĩa vụ cấp dưỡng không được đặt ra.
Bên túng thiếu yêu cầu được cấp dưỡng phải là trường hợp do ốm đau, già yếu, không có khả năng lao động và cũng không có tài sản để tự nuôi mình. Đối với những có khó khăn túng thiếu vì lười biếng không chịu lao động khi còn khả năng lao động hoặc do nghiện ngập, cờ bạc, hoang phí thì không được cấp dưỡng.
Người có khả năng để cấp dưỡng là người có khả năng về kinh tế, là người có sức khỏe, có việc làm ổn định và có thu nhập vừa bảo đảm cuộc sống, vừa thực hiện được nghĩa vụ cấp dưỡng. Nếu người phải cấp dưỡng có khó khăn hoặc nếu cấp dưỡng sẽ dọa đến đời sống của chính họ thì không coi họ là có khả năng cấp dưỡng và khi đó thì nghĩa vụ cấp dưỡng không được đặt ra.
Về mức cấp dưỡng giữa vợ chồng, pháp luật không quy định cụ thể mức cấp dưỡng chung mà cho phép chồng tự thỏa thuận và Tòa án nhân dân công nhận sự thỏa thuận đó. Trong trường hợp vợ chồng không thể tự thỏa thuận được thì Tòa án nhân dân sẽ quyết định. Khi quyết định mức cấp dưỡng, Tòa án nhân dân phải xem xét hợp lý đến khả năng của người phải cấp dưỡng và mức độ túng thiếu của người được cấp dưỡng để quyết định mức cấp dưỡng cho phù hợp.
Về thời hạn cấp dưỡng, Luật hôn nhân và gia đình 2000 không quy định về thời gian cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn mà tùy từng trường hợp, các bên có thể thỏa thuận hoặc Tòa án quyết định mức cấp dưỡng. Trong trường hợp chưa hết thời hạn cấp dưỡng mà các bên thỏa thuận hoặc Tòa án quyết định nhưng nếu bên được cấp dưỡng sau khi ly hôn đã kết hôn với người khác hoặc người được cấp dưỡng có thu nhập hoặc có tài sản để tự nuôi mình thì nghĩa vụ cấp dưỡng được chấm dứt. Tòa án nhân dân có thể đưa ra quyết định tạm ngừng hoặc chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng khi có yêu cầu.
Cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn thông thường được thực hiện theo hàng tháng hoặc theo thời vụ. Trong trường hợp cụ thể, nếu các bên thỏa thuận được thì có thể thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng một lần. Xét trên thực tế, nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn thực hiện một lần là hoàn toàn phù hợp với đặc điểm tâm lý của vợ, chồng khi đã ly hôn.
III/ CHẤM DỨT NGHĨA VỤ CẤP DƯỠNG.
Chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng là việc người phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng ngừng việc đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng.
Theo điều 61 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, nghĩa vụ cấp dưỡng chấm dứt trong các trường hợp sau đây:
● Người được cấp dưỡng đã thành niên và có khả năng lao động;
● Người được cấp dưỡng có thu nhập hoặc có tài sản để tự nuôi mình;
● Người cấp dưỡng đã trực tiếp nuôi dưỡng người được cấp dưỡng;
● Người cấp dưỡng hoặc người được cấp dưỡng chết;
● Bên được cấp dưỡng sau khi ly hôn đã kết hôn với người khác;
● Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
IV/ THỰC TIỄN BẤT CẬP VÀ PHƯƠNG HƯỚNG GIẢI QUYẾT VỀ VẤN ĐỀ CẤP DƯỠNG.
Trên thực tế, việc áp dụng các quy định của Luật hôn nhân và gia đình về chế định cấp dưỡng còn nhiều vấn đề bất cập. Sau đây là một số bắt cập tiêu biểu và đáng quan tâm:
* Thực tiễn giải quyết các trường hợp cấp dưỡng khi li hôn.
Trong thực tiễn, hầu hết các trường hợp sau khi ly hôn vấn đề cấp dưỡng chưa bảo đảm quyền lợi của đứa con sau khi ly hôn. Việc yêu cầu cấp dưỡng sau khi ly hôn trên thực tế đang còn nhiều khó khăn, bất cập. Chưa nói đến trường hợp khoản tiền cấp dưỡng sau khi ly hôn là “nợ khó đòi” đối với một số trường hợp; cả trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng thực hiện việc cấp dưỡng theo đúng quy định của bản án mà tòa án đã tuyên thì cũng chưa đáp ứng được “nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng”. Cụ thể thì việc vận dụng các quy định về cấp dưỡng cho con khi lu hôn vẫn còn những hạn chế, đó là:
- Có nhiều trường hợp Tòa án công nhận sự thỏa thuận của vợ chồng về việc một bên trực tiếp nuôi con và bên không trực tiếp nuôi con không phải cấp dưỡng cho con. Thực chất đây là sự thỏa thuận trái pháp luật nhưng vẫn được nhiều cặp vợ chồng thực hiện vì xuất phát từ nguyện vọng muốn được nuôi con nên một bên thỏa thuận với bên kia là chấp nhận cho họ được nuôi con thì họ sẽ không yêu cầu cấp dưỡng cho con.
- Thực tế giải quyết li hôn đã xuất hiện nhưng trường hợp vì hoàn cảnh mà cả vợ và chồng đều không trực tiếp nuôi con chung nên con chung đã được giao cho người thứ ba trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Việc giao con chung cho người thứ ba chăm sóc, nuôi dưỡng chưa được pháp luật trực tiếp quy định nhưng đã có Tòa án chấp nhận.
- Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con thuộc diện cần được cấp dưỡng trong trường hợp ly hôn do một bên mất tích hoặc một bên vắng mặt chưa thực sự thỏa đáng. Tại các Tòa án số lượng ly hôn thuộc các trường hợp này không nhỏ. Tuy vậy, khi giải quyết ly hôn, Tòa án chỉ quyết định giao con cho bên ở nhà trực tiếp nuôi mà mà không quyết định bên kia phải cấp dưỡng. Như vậy, quyền và lợi ích hợp pháp của con không được đảm bảo. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con cần phải có những biện pháp thích hợp đối với tình huống này.
* Về vấn đề mức cấp dưỡng:
- Điều 54 Luật hôn nhân gia đình còn quy định: “Các bên có thể thoả thuận thay đổi phương thức cấp dưỡng, tạm ngừng cấp dưỡng trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế mà không có khả năng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết”. Quy định này bảo đảm tính khả thi của việc cấp dưỡng. Tuy việc tạm ngừng cấp dưỡng sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của người được cấp dưỡng nên cần được Tòa án xem xét thận trọng và chỉ neencho phép tạm ngừng cấp dưỡng khi sự khó khăn về kinh tế là có lý do chính đáng.
- Song song với việc quy định về phương thức cấp dưỡng, mức cấp dưỡng, thì pháp luật nên quy định cụ thể hơn về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Luật hôn nhân gia đình năm 2000 mới quy định rất chung về vấn đề này, chẳng hạn Điều 50 quy định : “…Trong trường hợp người có nghĩa vụ nuôi dưỡng mà trốn tránh nghĩa vụ đó thì buộc phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng được quy định tại Luật này”.
Và mặc dù, Điều 152 BLHS năm 1999 cũng quy định: “Người nào có nghĩa vụ cấp dưỡng và có khả năng thực tế để thực hiện việc cấp dưỡng đối với người mà mình có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật mà cố ý từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử lý hành chính thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm”. Theo chúng tôi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bài tập lớn học kỳ môn luật hôn nhân và gia đình- Cấp dưỡng giữa các thành viên trong gia đình- một số vấn đề lý luận và thực tiễn.doc