MỤC LỤC
1. Quan niệm về câu bị động tiếng Việt 1
1.1. Cấu trúc cú pháp chung của câu bị động 1
1.2. Chủ ngữ bị động và các vai nghĩa 2
1.3. Phân biệt động từ bị động với động từ thực và động từ tình thái 3
1.4. Trường hợp sử dụng bị, được gây lẫn lộn 5
1.5. Câu bị động khác với câu trung tính 5
2. Bàn luận và đánh giá 6
3. Kết luận 13
Tài liệu tham khảo 16
17 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8641 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Câu bị động tiếng Việt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Câu bị động tiếng Việt
Vấn đề câu bị động trong tiếng Việt đã được bàn đến khá nhiều nhưng cho đến nay các ý kiến vẫn còn phân tán, thậm chí ngay cả đối với việc câu bị động có tồn tại hay không, Có thể nói vấn đề câu bị động nằm trong một hiện tượng rộng hơn là cách dùng của các từ bị, được nói chung trong câu tiếng Việt và sự có mặt của kết cấu cú pháp có danh từ chỉ thực thể làm đối tượng đứng trước động từ chỉ hành động tác động lên thực thể là đối tượng.
Bài viết này tôi không cố gắng đi thuyết phục mọi người rằng trong tiếng Việt tồn tại câu bị động. Ở đây tôi chỉ đề cập đến quan niệm của GS. Diệp Quang Ban về câu bị động tiếng Việt và những suy nghĩ, đánh giá của cá nhân xung quanh vấn đề mà tác giả đã trình bày trong cuốn “ Ngữ pháp tiếng Việt ”.
1. Quan niệm về câu bị động tiếng Việt
1.1. Cấu trúc cú pháp chung của câu bị động
Điều kiện cần và đủ cho một kiến trúc bị động:
Chủ ngữ bị động, về mặt nghĩa chịu ảnh hưởng của động từ chuyển tác trong câu bị động.
Có mặt của trợ động từ bị động( hay tác tố bị động) bị hoặc được
Vị tố là một câu bị bao( giáng cấp), trong đó có chủ ngữ chủ động( có thể vắng mặt) và vị tố là động từ chuyển tác; thực thể nếu ở chủ ngữ chủ động của câu bị bao không trùng với thực thể nêu ở chủ ngữ bị động của câu. Điều kiện hai thực thể này không trùng nhau là điều kiện cần để phân biệt bị, được là trợ động từ bị động với bị, được là động từ tình thái.
Như vậy, câu bị động chứa một kiến trúc cú pháp, không phải là dạng thức biến hình từ cho nên những câu nào thoả mãn ba điều kiện trên thì đều là câu bị động.
Các từ bị, được trong câu bị động vẫn là yếu tố tình thái nhưng chúng được chuyên môn hoá trong chức năng tạo câu bị động nên chúng có tư cách của trợ động từ với tính chất hư cao nhất. Vậy theo quan điểm của tác giả, bị và được không phải là động từ thực hay động từ tình thái mà phải được hiểu là hư từ.
Cấu trúc cú pháp chung của câu bị động:
CN1 (bị động)
Trợ động từ bị động: Bị, được
Vị tố1 (Câu bị bao)
Tác tố tạo câu bị động
CN2
(Chủ động)
Vị tố (động từ chuyển tác)
Bổ ngữ
(và tân ngữ)
Ví dụ:
Giáp bị thầy chê
Tường được chủ nhà treo đầy tranh
1.2. Chủ ngữ bị động và các vai nghĩa
Theo giáo sư Diệp Quang Ban, trong tiếng Việt với các sự việc thuộc về vật chất, chức năng cú pháp chủ ngữ trong câu bị động thường do các thực thể sau đây đảm nhiệm:
Đích thể:
Nó bị ( cảnh sát) phạt
Thuyền được người lái đẩy ra xa
Tiếp thể:
Giáp được ( nhà trường) tặng bằng khen
Thuyền được( thợ) lắp máy điện
Điểm đến:
Xe bị ( kẻ xấu) ném đá
Dù bị ( người ta) chất lên đầy hàng
Đắc lợi thể:
Em bé được mẹ rửa chân cho
Giáp được ( các bạn) chép bài giùm cho
Bị hại thể:
Đứa trẻ bị ( chúng nó) xé rách áo
Nhà bị ( bão) tốc mái
Vị trí:
Tường được ( chủ nhà) treo đầy tranh
Phòng ngủ được (người ta) kê hai cái giường.
1.3. Phân biệt động từ bị động với động từ thực và động từ tình thái
Chức năng cú pháp và các chu cảnh cú pháp khác nhau của bị, được phản ánh phạm vi hoạt động của chúng trong 3 tiểu phạm trù khác nhau: hoạt động như động từ thực và làm vị tố trong câu, hoặc như động từ tình thái và không làm vị tố trong câu, mà cũng có thể hoạt động như trợ động từ bị động( tác tố bị động) tạo câu bị động và cũng không làm tham gia vào vị tố trong câu. Điều này được tổng kết qua bảng sau:
Tiểu phạm trù của bị, được
Chức năng và chu cảnh cú pháp
Ví dụ
Động từ thực
Làm vị tố; đứng trước bổ ngữ do danh từ ( cụm dạnh từ) đảm nhiệm.
Là vị tố; đứng trước bổ ngữ do một câu bị bao đảm nhiệm, với điều kiện:
- Chủ ngữ của toàn câu không chịu tác động của vị tố trong câu bị bao
- Thực thể ở chủ ngữ của toàn câu không trùng với thực thể ở chủ ngữ của câu bị bao.
Con thỏ bị đạn
Cậu bé được cái bút
Em này bị bố mẹ mất sớm(Trong cú bị bao, động từ không chuyển tác)
Bà ấy được hai đứa con học toán rất giỏi.(Trong cú bị bao, động từ chuyển tác)
Động từ tình thái
Làm yếu tố tình thái, không tham gia vào vị tố; đứng trước vị tố là động từ không chuyển tác, động từ chuyển tác, tính từ hay một vài quan hệ từ; các từ này có chủ ngữ trùng với chủ ngữ của bị, được
Nó được đi
Họ được để xe ở đây
Bạn ấy bị ốm và bị học lại một năm
Anh có được khoẻ không?
Trợ động từ bị động (tính chất hư từ cao nhất)
Làm tác tố bị động, không tham gia vào vị tố; đứng trước vị tố là câu bị bao (câu này có thể vắng chủ ngữ), vị tố của câu bị bao là động từ chuyển tác tác động lên thực thể nêu ở chủ ngữ của toàn câu; chủ ngữ của câu bị bao và của bị, được không trùng nhau
Thuyền được người lái đẩy ra xa.
Đá được( người ta) chuyển lên xe.
Họ bị( kẻ gian ) lấy mất tiền
Xe bị( kẻ xấu ) ném đá
Tường được treo tranh
Chính từ cách dùng này rất phức tạp của bị, được như bảng trên nên dẫn tới cấu trúc cú pháp và cấu trúc nghĩa biểu hiện của những câu chứa chúng rất khác nhau. Ví dụ:
Nó được đi xem kịch
Tượng này mà được bằng đồng nhỉ!
1.4. Trường hợp sử dụng bị, được gây lẫn lộn
Ví dụ:
(A) Cầu thủ X bị phạm lỗi
(A’) Em này bị phạm lỗi chính tả trong bài viết
Ở câu (A), chủ ngữ của câu khác chủ ngữ chủ ngữ của “ phạm lỗi”. ở câu ( A’), chủ ngữ là một: Em này. Theo đó, câu ( A) là câu bị động có bị là trợ động từ bị động( tác tố bị động). Nếu bỏ đi, nghĩa của câu thay đổi.
Ở câu ( A’) là câu có bị là động từ tình thái, không giữ chức năng vị tố của câu, có thể bỏ đi mà không làm thay đổi nghĩa sự việc của câu.
(B) Các nhà báo được chất vấn
(B’) Ông cố vấn bị chất vấn
Ở câu ( B), chủ ngữ của toàn câu và của “ chất vấn” là một: Các nhà báo
Ở câu ( B’), chủ ngữ của câu là ông cố vấn. Do đó, được trong câu (B’) là động từ tình thái, nó không tham gia vào vị tố của câu. Bị ở trong câu ( B’) là trợ động từ bị động, nó không tham gia vào vị tố của câu nên ( B’) là câu bị động.
1.5. Câu bị động khác với câu trung tính
Điểm khác biệt của câu trung tính với câu bị động và câu có đề ngữ:
Câu trung tính là câu có vị tố là động từ chuyển tác, nhưng chủ ngữ không phải là yếu tố tạo ra hành động chuyển tác ở động từ, mà là chịu tác động của động từ( như chủ ngữ ở câu bị động).
Trong câu trung tính không có mặt trợ động từ bị, được (khác với câu bị động)
Trước vị tố- động từ chuyển tác ở câu trung tính không thể có một chủ ngữ tác động. Nếu chủ ngữ này xuất hiện thì câu đó sẽ là câu có đề ngữ.
Ví dụ:
Vải này bán rất chạy. ( Câu trung tính )
Vải này họ bán rất chạy.( Câu có đề ngữ là phần được in đậm )
2. Bàn luận và đánh giá
Trong tiếng Việt, câu bị động là một vấn đề ngữ pháp đã gây nhiều tranh cãi. Coocđiê viết: “ Tiếng Việt ghét lối nói đó, đáng lẽ nói: “Học trò bị thày phạt”, tiếng Việt thường hay đổi thành câu chủ động. Khi lối nói bị động không thể tránh được, người ta cấu tạo thành động từ với những từ bị, được, mắc, phải…
Một số nhà ngôn ngữ học hoài nghi về sự tồn tại của loại câu bị động thậm chí có những tác giả phản đối gay gắt, kịch liệt rằng nhất thiết phải xoá bỏ vấn đề “ câu bị động” trong tiếng Việt. Với tình hình phức tạp như thế, việc chấp nhận trong tiếng Việt có tồn tại câu bị động là một quan điểm rất tích cực và rất đáng khen ngợi của giáo sư Diệp Quan Ban. Trong bài viết này, tôi đánh giá khá cao quan niệm này của giáo sư. Bởi lẽ trong tác phẩm Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu đã viết:
Trịnh Hâm bị cá nuốt rày
Thiệt trời báo ứng lẽ này rất ưng
Phải chăng câu thơ trên sử dụng cấu trúc: “Bị SP”. Như thế ngay từ tác phẩm văn học cổ điển ta đã thấy sự tồn tại của câu bị động.
Còn đáp lại quan niệm của một số nhà Việt ngữ học cho rằng tiếng Việt không có dạng bị động hay câu bị động vì tiếng Việt là loại ngôn ngữ không có biến đổi hình thái, giáo sư Diệp Quang Ban đã đưa ra một cách hiểu đơn giản là: Động từ trong tiếng Việt không có biến hình từ , mà phạm trù thái bị động theo cách hiểu của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ ấn- Âu thì gắn liền với dạng thức biến hình của động từ trong các ngôn ngữ có biến hình từ. Vậy nên một kết luận hiển nhiên là động từ tiếng Việt theo cách nhìn hình thái học đó, thì không thể có thái bị động.
Nhưng điều quan trọng đấy là kết luận về hình thái động từ chứ không phải nói về phạm trù ý nghĩa của thái bị động và cách biểu hiện ngữ pháp tính của nó trong tiếng Việt.Thiết nghĩ rằng, khi phiên dịch một lối nói, có một kết cấu ngữ pháp nhất định của một ngôn ngữ này sang một ngôn ngữ khác, ta cũng có thể dùng những kết cấu ngữ pháp tương đương nhưng rất có thể là những phương tiện từ vựng học. Do đó bị + V, được + V không phải là hình thức của dạng bị động tương đương với dạng bị động của tiếng Pháp mà chính là sự kết hợp của những phương tiện từ vựng học gồm có: Bị/ được- Động từ biểu thị ý nghĩa chịu đựng/ thụ hưởng; V- biểu thị hành động và trạng thái mà chủ thể phải chịu đựng/ được thụ hưởng.
Một bộ phận khác đã gắn một cái tên cho quan niệm này của tác giả là “ Thói sao phỏng ngữ pháp Âu châu”. Nếu đánh giá như vậy thì chưa thật thoả đáng. Đúng là “ bị/ được” có gốc rễ là ở tiếng Hán, bị ( ) và được (đắc). Nhưng ai cũng biết là một ngôn ngữ phát triển bằng một số cách trong đó có cách vay mượn từ vựng và ngữ pháp của tiếng nước ngoài. Thực tế cho thấy, tất cả những người Việt Nam nghiên cứu một cách nghiêm túc tiếng Việt từ trước đến nay đều tự nhận thức được cái gọi là “ thói sao phỏng ngữ pháp Âu châu”. Có thể nói không ai có một trình độ nhất định để làm nghiên cứu mà lại cố tình nhìn tiếng Việt như tiếng Âu châu. Đồng thời cũng không ai tránh được vay mượn các phương pháp và các khái niệm của nền ngôn ngữ Âu- Mĩ để nghiên cứu tiếng Việt. Do đó nếu cứ cho là người Việt vay mượn ngữ pháp Âu châu thì đó cũng chẳng phải là điều đáng trách.
Tuy nhiên, cách hiểu của giáo sư Diệp Quang Ban về vấn đề câu bị động như tác giả đã trình bày trong “ Ngữ pháp tiếng Việt” có rất nhiều điều cần phải được đem ra bàn luận và nhìn nhận lại để có thể tạo ra một cái nhìn toàn diện hơn, sâu sắc hơn về vấn đề này:
Trước hết, tác giả đã mặc công nhận rằng bị/ được trong câu bị động là một hư từ như đã viết: Các từ bị, được trong câu bị động vẫn là yếu tố tình thái nhưng chúng được chuyên môn hoá trong chức năng tạo câu bị động nên chúng có tư cách của trợ động từ với tính chất hư cao nhất. Có lẽ cách hiểu này của tác giả có là do ảnh hưởng của kết cấu bị V, được V trong tiếng Hán. Dù là vay mượn của tiếng Hán nhưng không nên đưa ra kết luận rằng hai kết cấu này tương đồng. Một từ ngoại lai khi du nhập vào từ vựng của một ngôn ngữ khác, có thể giữ những đặc trưng ngữ pháp của từ gốc, nhưng lại có thể biến đổi về những đặc trưng ấy theo quá trình phát triển của lịch sử ngôn ngữ, kết quả là làm cho một từ cùng gốc mà có những đặc điểm ngữ pháp khác nhau. Tình hình của bị chính là một ví dụ:Trong tiếng Hán, bị hiện nayđược nhiều người coi là một hư từ biểu thị dạng bị động cụ thể là: người Hán không thể nói: “ tha bị liễu” để diễn đạt ý nó bị rồi, cũng không thể nói “ tha bị nhất phát tử đạn” để diễn đạt ý nó bị một phát đạn… Nhưng khác với bị tiếng Hán, bị trong tiếng Việt vẫn là một thực từ chân chính và cũng có khả năng kết hợp rất đa dạng, phong phú.
Một số ví dụ sau về cách sử dụng của bị. được cho thấy nếu hiểu bị, được là hư từ e rằng chưa thật hợp lí:
Bị có thể là động từ nội động:
Trần Cừ bị rồi à?
Kỳ thực là nó bị vớí người ta rồi à?
Nếu đặt hai ví dụ này trong ngữ cảnh, chúng ta thấy rõ ràng đây không có sự lược bỏ của bất kì thành phần nào, mà là một động từ độc lập, biểu thị ý nghĩa chịu đựng một sự không may( chết, thất bại..) hay cũng có thể nói rằng biểu thị trạng thái rủi ro của chủ thể. Ví dụ khác:
Chính mình(…) đã bị một mẻ chết dở
Chồng chị vẫn bị đánh bị trói suốt đêm
Bà mẹ vợ nó bị xe hơi cán
Qua những cấu trúc có bị V như bị đánh, bị trói, bị đốt… cải biến thành bị ai đánh, bị ai trói, bị ai đốt…
Trường hợp của được giống như bị:
Chán vạn đứa cũng được chức tước
Tôi được làm chủ tịch
Quân ta được, quân Pháp thua
Do vậy, cả bị và được đều luôn là một động từ độc lập, đóng vai trò chính trong bộ phận vị ngữ của câu.
Về vấn đề này, giáo sư Nguyễn Minh Thuyết cũng đã trình bày một vài suy nghĩ của mình:
Nếu coi bị, được trong những câu như: “ Nó bị cảnh sát phạt” hay “Giáp được nhà trường khen” là hư từ thì phải chứng minh chúng là những từ đồng âm với bị, được trong những câu mà bị, được hiển nhiên là động từ. “Nó bị đòn” hay “ Nó được nghỉ”. Qủa thật khả năng chứng minh là rất khó. Chính tác giả Diệp Quang Ban chưa giải quyết thoả đáng vấn đề này vì trong nhiều câu, các từ đồng âm ấy kết hợp với nhau thành một kết cấu đẳng lập và ta không thể giải thích một từ là hư từ cấu tạo dạng thức bị động của động từ còn một là động từ. Ví dụ:
Tám Bính không nhanh mắt, không mau trí khôn thì Năm Sài Gòn vừa bị bắt, vừa bị đòn đau
Nếu coi bị, được là hư từ đi kèm động từ để cấu tạo dạng bị động thì phải chấp nhận một kiểu cụm động từ có danh từ đứng chen giữa phần đầu và phần trung tâm. Trên thực tế, chính bộ phận sau bị, được mới là thành tố phụ của cụm động từ này vì:
Chúng được dễ thay thế bằng các từ nghi vấn: Được gì? ( Được thày khen), bị làm sao? ( bị cảnh sát phạt)
Chúng dễ được đảo lên đầu câu: Thày khen tôi cũng được vài lần rồi, còn chê thì chưa hề bị.
Khi đằng sau bị, được xuất hiện một chuỗi động từ quan hệ bình đẳng với nhau, trong đó có những động từ không có ý nghĩa bị động và không quan hệ trực tiếp với bị, được. Nếu giải thích bị, được là hư từ cấu tạo dạng bị động của một động từ trong chuỗi thì ta sẽ lúng túng khi giải thích quan hệ giữa hư từ ấy với những động từ còn lại. Ví dụ:
Nhà vua bị họ Mạc sai người vào ngục giết chết
Điểm thứ hai tôi muốn nói đến là tính chất thực và hư của bị, được nói cách khác là chức năng khác nhau của bị, được với tư cách là động từ thực, động từ tình thái, trợ động từ bị động mà tác giả đã trình bày. Thực ra vấn đề bị, được là động từ hư hay động từ thực có liên quan đến phần cú pháp. Việc xem xét một động từ nào đó là có tính chất hư hay thực là một việc không giản đơn chung cho nhiều ngôn ngữ, không chỉ riêng đối với các ngôn ngữ không biến hình từ như tiếng Việt. Và việc phân biệt động từ thực hay hư còn ảnh hưởng đến việc xác định tính thực hay hư của động từ tình thái. Khi đề cập tới việc phân biệt bị, được ở những tư cách hoạt động khác nhau, tác giả không đưa ra một tiêu chí nào hay một căn cứ, cơ sở chung nào.
Về vấn đề này, trong những nhà nghiên cứu trước đây, Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê là những người coi trường hợp bị, được đứng trước động từ ngoại động( như: Giáp bị đánh) là phó từ bị động của động từ( auxiliaries passif des verbes) và kiểu câu này là câu bị động; đứng trước kết cấu C-V( (như Giáp bị ất đánh) là phó từ của câu và kiểu câu này là câu chủ động có đề ngữ; cũng tức không coi chúng trong cả hai trường hợp này là động từ thực, chỉ coi chúng là những từ nhiều ít đã hư hoá( nhiều ở trường hợp thứ nhất, ít hơn ở trường hợp thứ hai). Theo quan điểm của cá nhân, chúng ta có thể dùng cách lược bỏ các từ bị, được để chứng minh tính chất hư của bị, được theo cách hiểu hư từ là từ không mang nghĩa từ vựng, có chức năng diễn đạt những mối quan hệ ngữ pháp. Bởi vì một trong những cách thể hiện nội dung vừa nêu là sự vắng mặt của chúng với tư cách hư từ không ảnh hưởng đến nghĩa sự việc của câu. Ví dụ:
Giáp được thày khen
So sánh với:
Giáp thày khen, ( còn tôi thì không)
Song có lẽ một thực tế cho thấy không phải mọi trường hợp sự có mặt của hai từ bị, được cũng dễ dàng chuyển thành cách dùng không có mặt chúng. Ví dụ:
Giáp được khen
So sánh với:
Giáp khen
Qua những ví dụ trên chứng tỏ lại một lần nữa một trong những điều kiện để có kiến trúc bị động là sự có mặt của hai tác tố này.
Điểm thứ ba cần được xem xét và bàn luận thêm khi giáo sư viết: Vì là câu diễn đạt hành động nên động từ trong câu bị động là động từ chỉ hành động và hơn nữa hành động trong kiểu câu này là hành động ngoại động( tác động). Động từ này có quan hệ nghĩa với thực thể nêu ở danh từ làm chủ ngữ của toàn câu, đứng trước từ bị, được.
Ngay cả những nhà nghiên cứu như Trương Văn Chình, Nguyễn Hiến Lê cũng coi rằng những trường hợp bị, được tồn tại với tư cách là phó từ bị động của động từ khi đứng trước động từ ngoại động.
Vậy thì một vấn đề được đặt ra ở đây: Liệu có thể gạt bỏ những kết cấu bị+ V nội hướng ra một bên và chỉ công nhận kết cấu bị+ V, được+Vngoại hướng là kết cấu của dạng bị động được không???
Nếu làm như vậy có lẽ đã phân tích và giải thích hiện tượng ngôn ngữ khách quan theo ý định chủ quan của người nghiên cưú. Nhưng cuối cùng vẫn không tránh khỏi sự bế tắc bởi thực tế trong việc sử dụng ngôn ngữ còn rất phức tạp. Một số điểm được trình bày dưới đây sẽ phản ánh điều trên này:
Tuy V2 là động từ ngoại hướng nhưng N1( tức danh từ làm chủ ngữ) không phải là đối tượng chi phối của V2 và bản thân động từ này lại chi phối một danh từ biẻu thị một đối tượng khác. Ví dụ:
Hoa Kiều bị Pháp giết người
Rõ ràng là động từ giết là động từ tác động vì nó có đủ những đặc trưng cú pháp của tiểu loại động từ này, và chi phối đối tượng do danh từ người biểu thị chứ không chi phối danh từ làm chủ ngữ của câu Hoa Kiều, vì ta chỉ có thể cải biến câu trên thành: “Pháp giết người( của ) Hoa Kiều”, chứ không thể cải biến thành: “Pháp giết Hoa Kiều, người”
Một ví dụ khác:
Ruộng công được chia lại một cách công bằng hơn
Hơn tám triệu đồng bào nông dân được chia ruộng đất công
Ta có thể cải biến ruộng được chia ( người ta) chia ruộng; nhưng không thể cải biến nông dân được chia ruộng như cách trên được( không thể nói: “(người ta) chia nông dân” nhưng vẫn có thể nói: nông dân được chính phủ chia ruộng đất.
Bên cạnh đó, việc giải thích tổ hợp “bị/ được” với ngoại động từ là dạng bị động đối lập với một thực tế là ở dạng bị động này, ngoại động từ của tiếng Việt vẫn giữ khả năng có bổ ngữ chỉ đối tượng. Ví dụ:
Con người bị những của cải mà nó tạo ra thống trị lại nó và chi phối nó.
Ngay khi V2 đặt sau bị là động từ tác động và không có bổ ngữ theo sau, cũng không phải bao giờ ta cũng có dạng bị động, không phải bao giờ cũng biến thành dạng chủ động được. Ví dụ:
Tuyển bán hàng ở chợ, bị Tây nó cân hết vốn
Câu này không thể cải biến thành “ Tây nó cân Tuyển” vì như thế sẽ vô nghĩa, và do ngữ cảnh, ta biết được rằng đối tượng chi phối của cân do danh từ hàng biểu thị, nhưng danh từ này đã bị lược bớt.
Một số trường hợp sau bị là động từ tác động nhưng không thể cải biến thành dạng chủ động. Ví dụ:
Những người đàn bà goá nhất định không muốn hiểu mục đích cao thượng của công việc mình đang bị làm.
Căn cứ vào ngữ cảnh, ta biết được rằng giữa bị và làm đã được lược bỏ danh từ quan huyện, nhưng sau khi điền danh từ ấy vào để cho cấu trúc đầy đủ rồi, ta vẫn không thể cải biến câu này thành: “ Quan huyện đang làm mình” vì nó hoàn toàn vô nghĩa.
Điểm tiếp theo bài viết này muốn nói tới là vấn đề chủ ngữ bị động và các vai nghĩa đã được trình bày trong “ Ngữ pháp tiếng Việt”. Theo tác giả, chức vụ chủ ngữ ngữ pháp của toàn câu bị động là những danh từ chỉ các thực thể diễn đạt những vai nghĩa nhất định trong mối quan hệ nghĩa với động từ ngoại động đứng sau các từ bị, được.Với cách quan niệm như thế, tác giả đưa ra một số các vai nghĩa được ưu tiên làm chủ ngữ:
Động thể> Đích thể> Tiếp thể> Đắc lợi thể> Công cụ> Vị trí> Thời gian
Có thể thấy lập luận của tác giả về vai nghĩa chưa thực sự thuyết phục. Bởi vì lý thuyết vai nghĩa dựa trên các vị từ, không áp dụng cho kết cấu C- V. Giáo sư Diệp Quang Ban đã công nhận trong ví dụ:
Giáp được thày khen
Thì “thày khen” là vị tố. Vậy “ Giáp” là vai nghĩa gì? So với yếu tố gì? Tác giả đã không đưa ra được một câu trả lời thật thoả đáng. Về vấn đề này, giáo sư Cao Xuân Hạo cũng đã bày tỏ quan điểm của mình rằng: Tiếng Việt là loại ngôn ngữ đề- thuyết, nghĩa là không phải yếu tố nào cũng có khả năng đóng vai trò làm đề. Nhưng nếu tồn tại câu bị động, nghĩa là không phải là yếu tố cũng có khả năng làm chủ ngữ. Do đó theo giáo sư Cao Xuân Hạo, trong tiếng Việt không có câu bị động. Đây chính là lí do mà ông đã phản đối nhất thiết phải xoá bỏ “câu bị động” tiếng Việt.
3. Kết luận
Từ những điều tác giả Diệp Quang Ban viết trong “Ngữ pháp tiếng Việt” mà chúng ta đã đưa ra xem xét, bàn luận và đánh giá trên đây có thể những điểm hợp lí và cũng có những điểm chưa hợp lí và xác đáng. Song chúng ta không thể phủ nhận được những đóng góp của giáo sư với nền ngữ pháp tiếng Việt.
Xét về phương diện xã hội, tách ra được một vị trí dành cho câu bị động sẽ giúp ích được rất nhiều cho việc học tiếng Việt của người nước ngoài và việc học tiếng Âu châu của người Việt. Nhiều nhà nghiên cứu thì chủ trương tô đậm tính chất riêng trong việc mô tả tiếng Việt, làm cho ngữ pháp tiếng Việt có cái vẻ không giống bất kì ngữ pháp của một ngôn ngữ nào và lấy lí do từ sự khác biệt về loại hình của nó (nghĩa là tiếng Việt là một loại hình ngôn ngữ đơn lập). Nhưng chúng toi thiết nghĩ rằng “ tiếng Việt là một ngôn ngữ tiết kiệm đến cao độ”( Nguyễn Kim Thản) nên sẽ tìm ra một cách diễn đạt của tiếng Việt đối với những gì mà các ngôn ngữ khác cũng diễn đạt được qua đó tìm ra cái chung và cái riêng của tiếng Việt với các ngôn ngữ khác. Nếu làm như vậy chắc chắn là sẽ tiết kiệm được nhiều sức óc của toàn dân nhất là trong việc học ngoại ngữ.
Mặt khác, trong công việc giao bang quốc tế hiện nay, nếu người ngoại quốc muốn học tiếng Việt thì cách làm đó cũng giảm bớt phần khó khăn ở những chỗ không cần phải gây khó khăn cho họ. Như thế, theo quan điểm của người viết bài, chúng ta không cần thiết phải cố gắng tạo ra một hàng rào “ không thể vượt qua giữa tiếng Việt và ngôn ngữ khác trong việc miêu tả ngữ pháp của chúng mà kết quả là làm cho người Việt học tiếng nước ngoài cũng như người nước ngoài học tiếng Việt đều phải học hai kiểu ngữ pháp chẳng có chỗ nào chung nhau cả. Vậy từ lợi ích nêu trên sao chúng ta cứ phải phủ định sự tồn tại của nó.
“ Ngữ pháp tiếng Việt” là một cố gắng rất lớn của tác giả Diệp Quang Ban nhằm giới thiệu ngữ pháp của nước nhà tiến đến những thành tựu của ngôn ngữ học hiện đại. Đường lối thực thi trong cuốn sách này là vận dụng những thành tưụ của ngữ pháp chức năng vào tiếng Việt đồng thời không li khai những thành tựu của Việt ngữ học truyền thống và cấu trúc luận trong quan điểm trước đây.
Tuy nhiên trong quá trình trình bày quan điểm của mình, tác giả Diệp Quang Ban không thể khỏi một số hạn chế như đã trình bày ở trên.Bài viết này không hề có ý định phê phán, bác bỏ hay phủ nhận toàn bộ những điểm hạn chế của tác giả mà chỉ xin nêu ra những suy nghĩ, đánh giá riêng của cá nhân bởi lẽ câu bị động tiếng Việt cho đến bây giờ còn là một vấn đề chưa thật sáng rõ. Mặt khác, việc sử dụng lối tạo câu bằng những động từ bị, được cũng không phải là có thể áp dụng được một cách phổ biến. Ngay trong một số ngôn ngữ ấn- Âu, nơi mà dạng bị động khá phát triển và được nghiên cứu đầu tiên, nhiều nhà ngôn ngữ học cũng chỉ rõ rằng dạng bị động của động từ là một lối nói có tính cách nhân tạo (A.Mâyê)
Trên đây chỉ là những suy nghĩ đánh giá còn rất hạn chế của người viết. Là người mới chỉ đang mon men tiếp cận với chân lí khoa học nên những hiểu biết chưa sâu sắc, những lí lẽ lập luận chưa kín kẽ thậm chí có đôi chỗ có thể là hiểu sai ý định của tác giả Diệp Quang Ban âu cũng là điều không thể tránh khỏi. Người viết bài mong nhận được sự góp ý và chỉ bảo của thày Nguyễn Văn Hiệp.
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn thị ảnh, Tiếng Việt có thái bị động không?, trong: “ Kỉ yếu khoa học 1999” của Trường đại học sư phạm- Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, 1999
2. Diệp Quang Ban, Ngữ pháp tiếng Việt, Nhà xuất bản Giáo dục, 2005
3. Nguyễn Tài Cẩn, Qúa trình hình thành thế đối lập giữa ba từ: “ được, bị, phải”, T/c “ Ngôn ngữ”, số 2, 1978
4. Trương Văn Chình- Nguyễn Hiến Lê, Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam, 1963.
5. Nguyễn Kim Thản, Động từ trong tiếng Việt, Nhà xuát bản khoa học xã hội Hà Nội, 1977
6. Nguyễn Minh Thuyết- Nguyễn Văn Hiệp, Thành phần câu tiếng Việt, nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, 1998
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NN11 (1).doc