MỤC LỤC
CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU VỀ TỔ HỢP HƯƠNG 02
1.1. Khái niệm 02
1.2. Vài nét chung về tổ hợp hương 02
1.3. Các nguyên liệu 03
1.4. Các bước pha chế một hợp hương 03
CHƯƠNG II: CẤU TRÚC TỔ HỢP HƯƠNG 04
2.1. Mùi chủ thể 04
2.2. Chất khuếch tán 04
2.3. Chất hỗ trợ 04
2.4. Chất định hương 04
CHƯƠNG III: XÂY DỰNG TỔ HỢP HƯƠNG 06
3.1. Các bước xây dựng 06
3.2. Lựa chọn nguyên liệu 06
3.3. Phối hợp giữa các nốt hương 06
3.4. Triển khai một hợp hương 07
3.5. Một số hương có mùi hoa đơn giản 08
3.6. Khảo sát các công thức đã được công bố 10
3.7. Phân tích tìm điều kiện thích nghi 14
3.8. Hòa tan hương liệu 18
3.9. Sự hòa hợp của hương 19
CHƯƠNG IV: XÂY DỰNG TỔ HỢP HƯƠNG HỒNG 22
4.1. Vài nét chung về hoa hồng 22
4.2. Đặc diểm 23
4.3. Phân loại 24
4.4. Sơ lược về tinh dầu hoa hồng 26
4.5. Thành phần và tính chất 28
4.6. Ứng dụng của tinh dầu hoa hồng 29
4.7. Xây dựng hợp hương hồng 36
43 trang |
Chia sẻ: netpro | Lượt xem: 2622 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Cấu trúc tổ hợp hương và xây dựng tổ hợp hương hồng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ững nguyên liệu thay thế thích hợp, có thể làm hạ giá thành sản phẩm bằng cách thay thế những nguyên liệu thiên nhiên đắt tiền bằng nguyên liệu tổng hợp.
Sản phẩm phối chế từ công thức 20 có giá tương đối thấp (theo American market 1969, giá nguyên liệu thô 1lb thay đổi trong khoảng 3$ đến 25$/lb), có thể sử dụng trong nước tắm, kem mỹ phẩm… Giá có thể hạ 50% nếu người ta thay một phần hoặc hoàn toàn dịch ngâm của tonquin musk bằng macrocyclic musk (ethylene brassylate).
Sản phẩm từ công thức 17 và 18 chủ yếu dùng cho các sản phẩm mỹ phẩm.
Người ta cũng có thể hạ giá bằng cách thay sandalwood oil bằng patchouli, balsam, guaiacwood và cedarwood, thay hoàn toàn tonquin musk bằng macrocyclic musk.
Trong công thức 18 và 19, giá thành giảm khi dùng linalylacetat thay cho bergamot oil (thời điểm 1960 giá rất cao), hiện nay được thay bằng terpinyl acetat. Sandalwood và patchouli oil được thay một phần hay toàn phần, musk xylol được dùng để thay thế cho những musk khác, ngay cả tinh dầu chanh lemon oil cũng bị thay trong công thức 25 bằng hỗn hợp lemon terpen và citrat.
Trong công thức 25, các floral absolutes bị giới hạn do rất đắt, vanilla bean tincture và vanillin cũng có thể thay thế bằng cấu tử rẻ hơn.
Để bù vào lượng vanillin, tỷ lệ coumarin được tăng lên và giữ lại musk tonquin và ethylene brassylate.
Bảng 4: Công thức cho loạt hương dầu dẫn xuất
Thành phần (%)
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
Orange oil
7
7
13
15
15
7,5
15
13
5
2
1
Bergamot oil
30
30
-
-
-
31,5
-
-
26,0
17,0
9,0
Lemon oil
4,0
4,0
13,0
14,0
-
4,0
14,0
13,0
3,0
2,0
1,0
Lemon replacement
-
-
-
-
14,0
-
-
-
-
-
-
Linalyl acetate
-
-
15,0
-
-
-
15,0
14,5
7,0
15,0
13,0
Terpinyl acetate
-
-
-
17,0
17,0
-
-
5,0
-
-
-
Lime oil
-
-
0,5
0,5
0,5
-
0,5
0,5
-
-
-
Sandalwood oil
6,0
6,0
2,0
-
-
6,5
3,5
6,0
7,5
5,0
6,0
Balsam copaiba
-
-
2,0
2,5
2,5
-
2,0
-
-
-
-
Guaiaewood oil
-
-
2,0
2,5
2,5
-
2,0
-
-
-
-
Patchouli oil
6,0
6,0
2,0
-
-
6,5
2,5
6,0
7,5
5,0
6,0
Cedarwood oil
-
-
2,5
5,0
5,0
-
3,0
-
-
-
Lavender oil
6,0
6,0
6,0
-
-
6,5
-
5,5
5,5
2,0
1,0
Lavandin oil
-
-
-
6,5
6,5
-
6,5
-
-
-
-
Rose de mai absolute
0,5
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
Rose specialty
3,0
3,5
3,5
3,5
4,0
3,5
3,5
3,5
3,5
6,0
6,0
Jasmin absolute
2,0
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
Jasmin specialty
-
2,0
2,0
2,0
2,0
2,0
2,0
2,0
1,5
6,0
8,0
Resin castoreum
0,5
0,5
0,5
0,5
0,5
0,5
0,5
0,5
0,5
0,3
0,3
Resin bezoin
2,0
2,0
2,0
2,0
2,0
-
-
2,0
3,0
2,0
2,0
Resin opoponax
3,0
3,0
3,0
3,0
3,0
3,0
3,0
3,0
3,5
1,5
1,0
Resin styrax
-
-
-
-
-
0,5
0,5
-
-
-
-
Tincturemusk tonquin 4:128
5,0
2,5
-
-
-
5,5
-
5,0
2,5
5,0
5,0
Amber synthetic
-
-
-
0,5
0,5
-
-
-
-
-
-
Tincture vanilla bean 16:128
3,5
3,5
3,5
-
-
-
-
3,5
3,5
3,0
3,0
Vanillin
1,0
1,0
1,0
2,0
2,0
-
-
1,0
1,5
0,5
1,0
Coumarin
7,0
7,0
7,0
7,5
8,0
9,5
9,5
7,0
8,5
5,0
5,0
Ethylen brassylate, 10%
-
2,5
5,0
2,5
1,0
5,0
10,5
-
2,5
1,0
1,0
Tinctur ambergris, 4:128
2,5
2,5
2,5
-
-
2,5
-
2,5
2,5
2,5
2,5
Musk keton
3,0
3,0
3,0
-
-
-
-
-
-
-
-
Musk ambrett
2,0
2,0
2,0
-
-
-
-
-
-
-
-
Musk xylol
-
-
-
5,5
5,5
-
-
-
-
-
-
Phenyl ethyl alcol
1,8
1,8
1,8
1,8
1,8
2,0
2,0
1,8
1,8
2,0
2,0
Linalool
3,0
3,0
3,5
4,5
5,0
3,0
3,5
3,0
2,5
6,0
5,0
Indol, 10%
0,5
0,5
0,5
0,5
0,5
-
-
0,5
0,5
1,0
0,5
Methyl anthranilate
0,2
0,2
0,2
0,2
0,2
-
-
0,2
0,2
0,2
0,2
Hydroxycitronellal
-
-
-
-
-
-
-
-
-
4,5
4,0
Methyl ionon
-
-
-
-
-
-
-
-
-
3,0
5,0
Aldehyde C-10, 10%
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
2,0
Aldehyde C-11, 1%
0,5
0,5
1,0
1,0
1,0
0,5
1,0
1,0
0,5
0,5
2,0
Aldehyde C-12 lauric, 10%
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
2,0
Ylang ylang oil
-
-
-
-
-
-
-
-
-
2,0
5,0
Styrallyl acetate
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
0,5
Độ ổn định của sản phẩm
Tiến hành xem xét, đánh giá về phạm vi ứng dụng của sản phẩm để loại bỏ hoặc thêm vào các cấu tử thích hợp. Ví dụ:
Trong những sản phẩm chống nắng, người ta không dùng bergamot bởi vì nó rất nhạy với ánh sáng.
Trong thuốc uống lạnh, người ta tránh dùng một vài loại hương liệu có chứa hợp chất aldehyd, vì chúng sẽ không bền khi có mặt thioglycolat, là một tác nhân khử rất mạnh.
Methyl anthranilat không bền trong xà phòng trắng, hydroxycitronellal không bền trong kem, son môi, dầu massage, brillantine, lotion mật và shampoo lỏng.
Trong công thức 20 đến 24 khi dùng trong mỹ phẩm, cần phải thay đổi một số chất để tránh biến đổi màu.
Trong công thức 26, tất cả các tác chất đổi màu đều bị loại trước trong công thức cũng như một vài yếu tố về kinh tế cũng đã được phân tích trước đó để điều chỉnh cho thích hợp.
Trong công thức 21, tinh dầu bergamot không được dùng vì nhạy sáng và được thay thế bằng lemon và lime oil, linalyl acetate và lavender…
Sản phẩm từ công thức 22 có hương đậm hơn và ngọt hơn các hương từ các công thức trước. Hương đậm do tỷ lệ sandalwod và patchouli oil cao hơn, tỷ lệ benzoin và opoponax cao và có mặt coumarin và vanillin tạo mùi ngọt.
Trong công thức 23 có mặt một số cấu tử mới có hương tính khác các nguyên liệu trước. Hydroxycitronellal phối hợp rất tốt với linalool và nốt citrus; methyl ionone ảnh hưởng nốt woody và floral; ylang oil phối hợp tốt với jasmin và rose hoặc indole và linalool vào hợp hương làm tăng giá trị hương tính.
Trong công thức 24, bằng cách cho thêm chất mới, ta sẽ được một tông mới, tinh tế hơn cho hợp hương, như styrallyl actat làm tăng tính bốc. Methyl ionone và ylang ylang oil đã dùng trong công thức 29, lại có tác dụng kéo dài độ bền hương.
3.8. Hòa tan hương liệu.
Trong các công thức nêu trên, không có hương dầu nào tan trong nước. Thực tế có rất ít hương dầu tan trong nước, độ tan dao động từ 0,1÷1% ngoại trừ phenyl ethylalcol. Trong quá trình phối chế hương vào các sản phẩm ( mỹ phẩm …), người ta nhận thấy cần phải hòa tan hương ( tính dầu ) vào nước. Một số công trình nghiên cứu làm tăng tính tan hương dầu trong nước cho thấy:
Một số hương gốc terpen có chứa một số cấu tử chứa oxy tan trong nước, có hợp chất có thể tan đến 2% nhưng do quá trình tách bằng lôi cuốn hơi nước hoặc dùng dung môi phân cực để chiết tách thì phần giàu oxy bị giữ lại trong nước hoặc trong dung môi phân cực.
Tất cả các hương dầu có thể hòa tan bằng tỷ lệ các chết thích hợp. Các loại hương dầu có chứa các loại nhựa cây hợp chất terpen, phải sử dụng lượng tác nhân hòa tan lớn. Ngược lại, hương dầu chỉ chứa chủ yếu hợp chất không terpen, rượu, hợp chất có khối lượng phân tử thấp, hợp chất phân cực thì lượng tác nhân hòa tan sử dụng ít hơn.Việc lựa chọn chất hòa tan phụ thuộc vào bản chất của chất hòa tan,tính chất của hương, thành phần của sản phẩm….
Việc sử dụng những chất như xà phòng, bột giặt tổng hợp hay những hợp chất nhũ hóa thường dùng khác cũng làm tăng tính tan của hương dầu trong nước. Một số chất hoạt động bề mặt thuộc dẫn xuất polyoxyethylen của ester acid béo sorbitan và ngay cả ester acid béo sorbitan cũng được dùng khá thôngdụng(polyoxyethylen derivatives của sorbitanfatty acid esterrsvà sorbitan fatty acid esters). Những sản phẩm này này được bán trên thị trường với tên thương mại là TWEENS và SPANS.
3.9. Sự hòa hợp của hương
Hương liệu là một thành phần rất quan trọng trong sản phẩm, đặc biệt là các sản phẩm mỹ phẩm. Hương có mặt trong hầu hết các sản phẩm, đặc biệt trong sản phẩm tẩy rửa và chăm sóc cá nhân. Hương giúp làm át mùi nền và tạo mùi hấp dẫn cho sản phẩm. Những mùi nền trong sản phẩm cần phải che bao gồm:
Mùi khó chịu do chất béo trong sản phẩm có thể bị oxy hóa cho aldehyd.
Mùi tanh cá của chất hoạt động bề mặt cationic, thường là dẫn xuất của các hợp chất amin.
Mùi chua các acid béo, enzyme như lipase thủy phân các vết béo(bơ hay các sản phẩm béo gốc sữa) cho các acid béo dây ngắn có mùi rất khó chịu.
Mùi của các polymer như polyvinyl dùng trong bột giặt để tránh sự chuyển màu.
Mùi từ các chất bẩn vây quần áo, mồ hôi…..
Việc đưa hương vào sản phẩm mỹ phẩm phải thực hiện cẩn thận để hương kết hợp hài hòa vào sản phẩm, tạo hương tốt và không bị các thành phần trong sản phẩm làm át hương. Nếu sự hòa hợp hương trong sản phẩm không tốt sẽ gây hiện tượng giảm hương, phân bố hương không đồng đều và dễ gây hiện tượng vữa sản phẩm do phối hương.
Hợp hương phải bám chặt trên sản phẩm sử dụng, phóng thích từ từ và tạo hương thơm trên nền đối tượng sửdụng hương. Để đạt được yêu cầu này, người phối chế phải quan tâm đến rất nhiều yếu tố, tùy theo từng loại sản phẩm cụ thể. Ví dụ, sử dụng hương cho bột giặt.
Hợp hương trong bột giặt có nhiệm vụ tạo hương thơm cho quần áo sau khi giặt. Hàm lượng hương sử dụng trong sản phẩm tẩy rửa rất thấp, đồng thời hương phải chịu nhiều tác động như:
Phần lớn các cấu tử trong hợp hương bị hòa tan trong nước giặt. Chất hoạt động bề mặt càng có ái lực tốt với các hợp hương chứa nhiều cấu tử ưa béo làm tăng độ hòa tan của hương nước.
Môi trường giặt quầnn áo thường kiềm(9.0÷10.5) và có chất tẩy trắng oxy hóa làm thủy phân các ester trong hương, nhất là các ester bậc 1, thành acid và alcoltương ứng.
Trong bột giặt có tác nhân làm trắng TAED, chất này sẽ chuyển hóa ester, chẳng hạn như benzyl salicylat, một trong những chất định hướng có trong bột giặt, thành benzyl acetate.
TAED
Benzyl salicylat Benzyl acetat
Ngày nay, người ta sử dụng một số phương pháp cải thiện hiệu quả sử dụng của hương liệu, để hương liệu bám lại dễ dàng và kiểm soát được quá trình giải phóng hương thơm như:
Sử dụng chất hấp thụ (hạt xốp làm cầu nối), trộn hợp hương với các chất hấp phụ như các polymer hữu cơ, các khoáng zeolit, silic hay đất sét.
Hợp hương được phân tán vào một chất tan trong nước như cyclodextrin (dạng hình lồng), sau đó hạt được hình thành hoặc bằng cách khử nước hoặc bằng cách ép đùn hoặc bằng sự kết tinh vi tinh thể các hợp chất thơm, hợp hương sẽ được bảo vệ bởi một tấm chắn polymer (dùng phương pháp hình thành các giọt tụ hay polymer hóa).
Ùng chất tiền hương liệu:với những chất đầu có tính chất ít bốc hơi, bám tốt vào vật liệu, phân hủy hoặc phản ứng tạo ra các hương dễ bay hơi, như các ester geranyl hoặc neryl (họ ester allylic) trong sản phẩm làm mềm vải, các chất này thủy phân chậm chogeraniol hoặc nerol nên hương có thể tồn tại lâu.
Hương dầu hòa hợp tốt nhất trong sản phẩm mỹ phẩm ở chu kỳ đầu tiên trong quá trình phối chế. Hạn chế các quá trình nhiệt các cấu tử trong hương dầu có thể bị phân hủy hay thất thoát do bốc hơi. Trong một số trường họp, người ta phối hợp hương dầu sản phẩm mỹ phẩm bằng cách cho hương dầu vào tướng dầu có chứa chất nhũ hóa, sau đó thực hiện quá trình phối trộn tạo nhũ, nhiệt độ có thể lên đến 85÷900C.
Mỗi loại sản phẩm được phối một loại hương riêng biệt. Tuy việc thiết lập một công thức hương cho một loại sản phẩm rất phức tạp nhưng người ta có xu hướng thiết kế những hợp hương có thể sử dụng cho nhiều sản phẩm khác nhau, nhằm mục đích hạ giá thành.
CHƯƠNG IV: XÂY DỰNG TỔ HỢP HƯƠNG HỒNG
4.1. Vài nét về hoa hồng
Tên khoa học: Rosa chinensis
Thuộc họ: Hoa hồng (Rosaceae).
Mô tả: Cây hoa hồng là loại cây thấp, lùn, có gai cong, lá hình lông cánh chim, mỗi tàu có 3-5 lá nhỏ hình bầu dục. Hoa có năm cánh sắc hồng, quả đặc, hình trứng hoặc vặn ốc.
Bộ phận dùng: Hoa
Thành phần hóa học: Hoa có tinh dầu thơm
Từ xưa đến nay, hoa hồng được coi là loài hoa đẹp và quí giá, là "Bà chúa của muôn hoa", là biểu tượng của tình yêu, sự tôn trọng, lòng thành kính và của những điều tốt đẹp, cao thượng. Ở Nhật Bản, trong các cuộc triển lãm, hoa hồng bao giờ cũng chiếm ngôi vị "Nữ hoàng của các loài hoa". Ở Bulgari, đất nước được mệnh danh là "Xứ sở của hoa hồng" vì trồng nhiều hoa hồng nhất thế giới, người ta có câu châm ngôn "Quí như tinh dầu hoa hồng" để đánh giá một vật nào đó có giá trị rất lớn. Bởi vì phải cần đến 2000 cánh hoa cho ra 1gr tinh dầu hoa hồng người ta mới cất được một giọt tinh dầu (giá trị hơn cả vàng ròng). Người Hy Lạp cổ đại cho rằng hoa hồng là tặng phẩm quí báu mà nữ thần Kibela đã gởi đến cho loài người để tôn vinh những tình cảm cao đẹp, từ đó hoa hồng được mang tên "Quà tặng của thiên thần".
Có thể nói hoa hồng là loài hoa được nhiều người biết đến và được yêu thích nhất, đó là loài hoa tình yêu, không chỉ dành riêng cho tình yêu đôi lứa mà nó còn dành riêng cho tình cảm cao quý và thiêng liêng hơn nữa, như tình thầy trò, tình mẫu tử. Khi nhắc đến hoa hồng thì người ta thường nghĩ ngay đến người phụ nữ. Chắc hẳn có sự tương quan nào đó, như sự tao nhã về màu sắc, sự nhẹ nhàng về hương thơm hay sự mãnh mai dáng dấp cành hồng. Bên cạnh đó, người ta cũng không quên những chiếc gai nhọn như thể hiện sự bướng bỉnh kiêu kì của người phụ nữ.
Chính nhờ vào mùi hương dịu dàng, thanh thoát, sang trọng và hình dáng tao nhã, hài hòa, yêu kiều đẹp đẽ một cách tự nhiên mà hoa hồng được coi là vẻ đẹp của người mẹ, của nữ giới nói chúng.
4.2. Đặc điểm
Cây hoa Hồng so với một số loại hoa khác thì khó trồng hơn. Đó là điều ai cũng công nhận. Nhiều người còn cho rằng giống hoa này “trái tính trái nết” nên trồng dễ chết, hoặc có sống được thì nhiều cây cũng ương yếu, hoa không to lại dễ bị sâu bệnh tấn công …
Thật ra hoa Hồng cũng dễ trồng, nếu ta nắm vững kỹ thuật, trong đó môi trường sống phải thích hợp thì cây mới phát triển mạnh được. Bằng chứng là các giống Hồng quí được nhập về từ nước ngoài hoa vừa to vừa sặc sỡ, nhưng trồng tại nước ta thì lại “biến tướng” trông thật thảm hại. Tất nhiên trừ những giống hợp với khí hậu nước ta thì khác. Như vậy, khí hậu đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống của cây Hồng.
Đa số giống Hồng rất chịu nắng. Ánh nắng trong ngày chiếu càng nhiều giờ càng tốt. Do đó, trồng Hồng nên trồng nơi thoáng đãng. Trong mùa mưa nắng Hồng ít bị sâu bệnh tấn công, cây rất sung sức, ra hoa nhiều và sắc hoa tươi tắn. Có điều mùa nắng phải tưới nước đầy đủ, nên tưới nhiều lần, để cây không bị xuống sức và chết héo.
Hoa Hồng cũng chịu mưa, nhưng lượng mưa trung bình từ 1500mm đến 2000mm mới thích hợp. Mưa nhiều và mưa kéo dài, thì Hồng càng bị nhiều loại vi nấm và sâu bệnh tấn công. Hoa Hồng lại không chịu ngập úng, do đó trồng Hồng phải khai thong mương rãnh giúp việc thoát nước hữu hiệu.
Nhiệt độ thích hợp cho sự sinh trưởng tốt của cây Hồng là từ 18 đến 250C. Trồng Hồng vào vùng có độ ẩm không khí cao, có mùa đông giá lạnh mới tốt. Vì như chúng ta đã biết, gốc tích của hoa Hồng ở vùng Cận Đông, vùng có khí hậu nóng, nhưng lại có mùa đông băng tuyết lạnh lẽo.
4.2.1. Thu hoạch và bảo quản
Hoa Hồng là một loại thuốc thiên nhiên tốt nhất, nhưng cách thu lượm và chế biến cánh hoa là khâu rất quan trọng. Cần hái cánh hoa Hồng vào buổi sang sớm và sẽ tốt hơn nếu hái sau cơn mưa hoặc sau một đêm có nhiều sương. Việc thu hái hoa Hồng là cả một qui trình tinh vi, và rất sợ nắng trời mặc dù nắng lên cho hương hoa nồng nàn hơn nhưng lại kém dịu ngọt đi..
Ở những nông trường trồng hoa để sản xuất nước hoa, người ta bắt đầu hái hoa từ lúc bình minh, hái từng bông một và phải hái nhanh tay. Một người hái hoa giỏi một giờ có thể hái được từ 5 – 10 kg hoa. Cứ 6 tấn cánh hoa Hồng mới có được 1lít tinh dầu hoa Hồng thiên nhiên.
4.3. Phân loại hoa hồng
Ngay các nhà thực vật học cũng khó lòng tra cứu xem có bao nhiêu loại hoa Hồng, chỉ biết căn cứ vào màu sắc, vào dòng giống, vào hình dáng và một số yếu tố khác để phân ra làm ba loại sau đây:
Loại Hồng dại:
Đây là những giống Hồng hoang dã lâu đời, có nguồn gốc từ giống Wichura ở vùng Cận Đông, sau lai tạo tự nhiên với nhau để thành ra hàng trăm giống khác. Hồng dại thường có dạng bụi, than cao, cành dài, dựa vào cây khác leo lên mà sống. Nếu than leo thì gọi là “Hồng leo”, loại có thân bò ngoằn ngoèo sát đất thì mang tên “Hồng bò”. Hồng dại có các giống Persian, Yellow Rose, Rosa Multiflora, Rosa Virginiana … Đa số giống Hồng dại thân cây và hoa không đẹp, nhưng mọc mạnh và sức đề kháng sâu bệnh tốt, nên thướng được dùng làm gốc ghép.
Loại Hồng cổ điển:
Hồng cổ điển là những giống Hồng được trồng từ trước năm 1867, có màu sắc đẹp lại có hương thơm. Hồng cổ điển có xuất xứ từ Trung Quốc, nổi tiếng có giống Rose Chinesis, Anh có giống Alba, Pháp có Gallica, Mĩ có giống Noisette.
Loại Hồng hiện đại:
Hồng hiện đại là những giống Hồng được lai tạo sau năm 1867 trở về sau. Đây được coi là thời kì vàng son nhất của hoa Hồng, vì được nhiều công ty kinh doanh hoa Hồng nhập cuộc, sản xuất đại trà những loại Hồng lai nổi tiếng với màu hoa đa dạng rực rỡ, hoa đã to lại lâu tàn.
Tại nước ta, từ xa xưa hoa Hồng cũng được đại đa số ưa thích. Từ thành thị đến nông thôn, từ Nam chí Bắc, gần như nhà nào cũng trồng hoa Hồng để làm cảnh, ướp trà, …
Đối với người Việt, hoa Hồng được xem là biểu tượng của tình yêu chân thật và hạnh phúc tràn đầy. Một đóa Hồng tươi thắm tặng cho người yêu ngụ ý nói lên tình cảm sâu đậm và tha thiết với người yêu dấu. Một đóa Hồng dâng tặng Mẹ, mang ý nghĩa sâu nặng về tấm long hiếu thảo, đồng thời cũng có ý nghĩa kính chúc người sinh dưỡng mình hạnh phúc và trường thọ. Hoa Hồng còn được dâng cúng tổ tiên và là món quà biếu lịch sự nhất, thanh nhã nhất trong những dịp mừng vui như thi đậu, thăng quan tiến chức, thăm viếng sức khỏe …
Chúng em rất tiếc là không có trong tay một tài liệu nào cho biết đích xác hoa Hồng được du nhập vào nước ta theo con đường nào và vào thời gian nào. Có thuyết cho rằng hoa Hồng được du nhập vào nước ta theo ngả Châu Âu, nhưng lại có giả thuyết khác cho rằng từ Trung Quốc. Có lẽ thuyết sau thuyết phục hơn. Vì như chúng ta đã biết, Trung Quốc từ hàng ngàn năm trước đã nổi tiếng là nước trồng hoa Hồng đầu tiên ở Châu Á. Vài trăm năm trước đây Trung Quốc nổi tiếng với các giống Hồng Trà và sau đó được lai tạo thành nhiều giống khác .. Trung Quốc lại là nước gần kề Việt Nam, cho nên con đường du nhập của hoa Hồng vào nước ta có lẽ xuất phát từ Trung Quốc.
4.4. Sơ lược về tinh dầu hoa hồng
4.4.1. Nguồn gốc
Tinh dầu hoa Hồng là sản phẩm thông qua việc chưng cất những cánh hoa Hồng tươi với nước tinh khiết hoặc chưng cất với nước hoa Hồng đã cất lần trước để đạt được hiệu suất lấy tinh dầu cao hơn. Tinh dầu hoa Hồng là sản phẩm hoàn toàn từ tự nhiên và tinh khiết 100%.
Suốt trên 3000 năm qua, hoa Hồng là thượng đẳng hoa của các nghành sản xuất nước hoa và mỹ phẩm chăm sóc sắc đẹp. Homer kể rằng nữ thần Aphrodite đã ngâm hoa hồng trong dầu oliu để lấy nước đó bôi lên người chàng Hector. Những người hồi giáo làm nước hoa là người đầu tiên chưng những cánh hoa hồng Damask. Thị trấn Shiraz của Batư nổi tiếng từ thế kỷ thứ 8 với loại nước hoa hồng đã từng đươc xuất khẩu qua Châu Âu, Ấn Độ và Trung Hoa cho đến mãi tận thế kỷ 17. Từ thời kỳ phục hưng cho đến thế kỷ 19, nước hoa hồng không chỉ dùng trong ẩm thực và chữa bệnh mà còn được các nhà sản xuất nước hoa rất trân trọng. Cầu kỳ hơn nữa Quốc vương Ba Tư còn đặt làm những tấm nệm nhét đầy cánh hoa hồng.Có lẽ cùng với sự xuất hiện của sự sống trên trái đất nước hoa đã ra đời. Từ “nước hoa” có nguồn gốc từ tiếng La tinh “fumus” có nghĩa là khói. Điều này làm chúng ta có ý nghĩ phải chăng ngày xưa những người nguyên thuỷ đã đốt gỗ, nhựa cây và lá cây có mùi thơm để tạo ra nước hoa?
Chúng ta biết rằng người Ai Cập cổ đại đã dùng nước hoa từ hơn 5000 năm trước đây. Nhưng phát minh ra cách chiết xuất tinh dầu từ những cánh hoa Hồng lại thuộc về người Ả Rập. Đã từ hơn 1300 năm nay tại đất nước của những câu chuyện “Nghìn lẻ một đêm”, tinh dầu hoa Hồng không những được dùng làm mỹ phẩm mà còn để làm thuốc nữa. Cứ nửa hécta hoa hồng sẽ cho ta 1 tấn cánh hoa, từ 6 tấn cánh hoa lại cho ta vẻn vẹn 1lít tinh dầu. Thế mới biết vì sao loại tinh dầu này lại quý hiếm đến vậy.
Ngày xưa để thu được tinh dầu người ta xếp những tấm kính vào những chiếc khung gỗ. Trên đó đặt một lớp mỡ lợn rồi xếp từng lớp cánh hoa lên nhau. Người ta thay dần những lớp cánh hoa cho tới khi miếng mỡ hút đủ số tinh dầu cần thiết.
Ngày nay để chiết xuất ra tinh dầu thay vì mỡ lợn chúng ta dùng một loại dung dịch được lấy từ dầu lửa. Đổ dung dịch này lên các cánh hoa tươi cho tới khi thấm hết tinh dầu của cánh hoa. Hỗn hợp thu được đem tách bỏ dung dịch đầu rồi dùng cồn lọc lấy tinh dầu.
Tinh dầu hoa hồng Damask
Trong số hàng trăm giống hồng, ngành nước hoa sử dụng 2 giống hoa. Đó là giống hoa hồng Rosa centifolia còn gọi là hồng tháng năm hay hoa hồng Provence, được trồng ở Grasse và Morocco. Giống còn lại là hồng Rosa damascena được gọi hồng Damask trồng nhiều ở Bulgari & Thổ Nhĩ Kỳ.
Người ta dùng dung môi dễ bay hơi đễ ngâm hoa hồng xứ Grasse, chiết lấy một chất kết tinh sau đó là tinh chất. Còn hồng xứ Morocco & hồng xứ Thổ Nhĩ Kỳ thì có thể dùng dung môi chiết xuất hoặc dùng hơi để chưng cất sẽ thu được tinh dầu, chứ không phải là tinh chất như cách chiết xuất nữa. Đối với hoa hồng Bulgari, người ta chỉ dùng cách chưng cất.
4.4.2. Các phương pháp tách tinh dầu hoa hồng
Việc lựa chọn phương pháp tách tinh dầu hoa Hồng rất quan trọng vì phải làm sao để giữ được mùi thơm tự nhiên ban đầu, phải tách tương đối triệt để, khai thác được hết tinh dầu có trong cánh hoa với chi phí thấp. Vì vậy khi khai thác tinh dầu hoa Hồng người ta thường sử dụng ba phương pháp sau:
Phương pháp chưng cất bằng hơi nước:
Phương pháp này đơn giản, kinh tế, thiêt bị đơn giản rẻ tiền và có thể di động đến nơi có nguyên liệu. Người ta biến nước thành hơi rồi cho hơi nước đi vào nguyên liệu (cánh hoa hồng) từ dưới lên. Trong quá trình đi qua cánh hoa có tinh dầu, hơi nước lôi kéo hơi tinh dầu và mang tới bộ phận làm lạnh. Ở đây tinh dầu hoa hồng bị đông tụ thành hỗn hợp lỏng tinh dầu hoa hồng và nước. Do tinh dầu không tan vào nước nên bị tách lớp. Tùy theo tỉ trọng của tinh dầu lớn hay nhỏ hơn nước mà tinh dầu chìm xuống đáy hay nổi lên trên mặt nước. Dùng bình chiết người ta chiết tinh dầu ra (rồi bão hòa NaCl vào phần nước còn lại và dùng dung môi để chiết phần tinh dầu còn khuất trong nước). Dịch nước còn lại sau khi chiết tinh dầu chính là nước hoa hồng. Nước này chứa 1% tinh dầu mà thành phần chủ yếu là ancol phenyletylic.
Để tiết kiệm tinh dầu người ta đưa nước hoa hồng cất lần trước cất lại với cánh hoa mới, làm như vậy hàm lượng tinh dầu cao hơn, hơn thế nữa sau khi cất xong ngưới ta nước hoa hồng bão hòa muối ăn rồi chiết với dung môi dễ bay hơi sau đó loại dung môi thu tinh dầu
Loại tinh dầu này có mùi hoa hồng êm dịu, mùi mật ong và có hàm lượng ancol phenyletylic lên đến 80%
Phương pháp trích ly bằng dung môi dễ bay hơi:
Phương pháp này dựa trên nguyên tắc sử dụng dung môi thích hợp để hòa tan những cấu tử mang hương trong cánh hoa hồng. Dung môi chiết sẽ ngấm qua thành tế bào của các cánh hoa, các hợp chất thơm trong cánh hoa sẽ hòa tan vào dung môi, sau đó xuất hiện quá trình thẩm thấu giữa dịch chiết bên trong với dung môi bên ngoài do chênh lệch nồng độ. Sau khi trích ly phải thực hiện quá trình tách dung môi ở áp suất thấp để thu tinh dầu.
Phương pháp này chiết cho chúng ta 2 sản phẩm. Người ta hái hoa nở rộ vào lúc sáng sớm vừa hết sương, cho hoa vào dung môi chiết, chiết ngâm một thời gian thích hợp tùy từng loại hoa, sau đó lọc lấy dịch chiết, loại dung môi người ta thu tinh dầu cô đặc. Đưa tinh dầu cô đặc xử lý với cồn 960 rồi lọc lấy sản phẩm không tan ta có sáp hoa hồng, sáp này dùng để sản xuất xà phòng, nước vệ sinh. Phần không tan trong cồn 960 được loại cồn ở áp suất thấp người ta thu được tinh dầu tinh khiêt 100%.
Phương pháp hấp phụ bằng chất béo:
Chất béo ngoài khả năng hòa tan tinh dầu còn có khả năng hấp phụ các chất thơm, dựa vào tính chất này, người ta sử dụng chất béo trong tách tinh dầu hoa hồng. Phương pháp này dựa trên hiện tượng hấp phụ ở hai pha hơi – rắn.
Quy trình kỹ thuật đơn giản, có thể tiến hành ở nhiệt độ thường, nhưng chủ yếu là thực hiện thủ công, công việc nặng nhọc khó cơ giới hóa, chất béo khó bảo quản.
4.5. Thành phần và tính chất của tinh dầu hoa hồng
Cấu tử chính của tinh dầu hoa hồng:
Các nhà khoa học đã phân tích trong hoa hồng có tinh dầu với tỷ lệ 0.013 – 0.15% mà thành phần chủ yếu gồm rodinol, geraniol 12,78%, xitronellol, nerol, linalol và phenyletanol 16,36%, citronellol 23,89%, stearotenes 22,1%, … và một số ester khác.
Tính chất hóa lý:
Tinh dầu hoa hồng là chất lỏng không màu hoặc có màu vàng nhạt, có mùi hoa hồng và có dạng bán rắn ở nhiệt độ thường.
Tỷ trọng ở 150C : 0,848 ÷ 0,863
Góc quay cực : -10 ÷ -40 (ống đo 100nm, 250C)
Chiết suất ở 250C : 1,458 ÷ 1,463
Rất ít tan trong nước, tan tốt trong cồn và CHCl3.
Tinh dầu hoa hồng Pháp nhận được từ hoa rose centifolia có mùi hương và tính chất khác tinh dầu Bulgari nhận được từ damask rose – thỉnh thoảng tinh dầu hoa hồng trắng cũng được dùng ở Bungaria, nhưng có mùi hương kém hơn tinh dầu của damask rose.
4.6. Ứng dụng của tính dầu hoa hồng
Mặc dù giá thành rất cao, tinh dầu hoa hồng đã có trong nhiều loại nước hoa và những sản phẩm chăm sóc da thì hương thơm của hoa như một hoạt ch
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Cấu trúc tổ hợp hương và xây dựng tổ hợp hương hồng.doc