Tiểu luận Cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN 1

MỞ ĐẦU 2

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 3

1.1 CÁC KHÁI NIỆM 3

1.2 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC, CỔ PHẦN HÓA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC 4

1.2.1 Cổ phần hóa Doanh Nghiệp Nhà Nước ở Việt Nam 4

1.2.2. Cổ phần hóa Ngân Hàng Thương Mại Nhà Nước 5

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG 8

2.1 SỰ THIẾU MINH BẠCH TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU TĂNG VỐN GÂY RỦI RO CHO CÁC NHÀ ĐẦU TƯ VÀ LÀM ẢNH HƯỞNG ĐẾN UY TÍN CỦA NGÂN HÀNG TRONG TIẾN TRÌNH CỔ PHẦN HÓA 8

2.2 KHÓ KHĂN TRONG VẤN ĐỀ XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ NGÂN HÀNG 11

2.3 KHÓ KHĂN TRONG VIỆC XÁC ĐỊNH TỔ CHỨC TƯ VẤN CỔ PHẦN HÓA 11

2.4 KHÓ KHĂN TRONG VIỆC XỬ LÍ NỢ XẤU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC TRƯỚC KHI CỔ PHẦN HÓA 13

2.5 KHÓ KHĂN TRONG XỬ LÍ TÀI CHÍNH KHI CỔ PHẦN HÓA 15

2.6 KHÓ KHĂN TRONG VIỆC HUY ĐỘNG VỐN KHI CỔ PHẦN HÓA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC 18

2.7 KHÓ KHĂN TRONG VIỆC XÁC ĐỊNH CƠ CẤU SỞ HỮU VỐN ĐIỀU LỆ 19

2.8 SỰ THIẾU VẮNG CÁC VĂN BẢN PHÁP LÍ ĐIỀU CHỈNH TRỰC TIẾP QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HÓA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC 22

2.9 ĐÁNH GIÁ VÀ NHẬN XÉT CHUNG 26

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ 29

3.1 GIẢI PHÁP 29

3.1.1. Về cơ chế pháp lý điều chỉnh hoạt động 29

3.1.2. Về cơ chế quản trị ngân hàng 29

3.1.3. Xác định giá trị thực tế ngân hàng 29

3.1.4. Xây dựng lộ trình phát triển theo mục tiêu chiến lược của NH được CPH 30

3.1.5. Cổ phần hoá gắn với niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán 30

3.2 KIẾN NGHỊ 32

3.2.1. Đẩy nhanh tiến độ ban hành các văn bản pháp quy trực tiếp điều chỉnh quá trình cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước 32

3.2.2. Về vấn đề xử lí nợ tồn đọng 32

3.2.3. Về vấn đề cơ cấu sở hữu vốn điều lệ 34

3.2.4. Về vấn đề xác định giá trị ngân hàng 35

3.2.5. Về vấn đề phát hành trái phiếu tăng vốn 37

3.2.6. Về vấn đề xử lí tài chính của ngân hàng 38

3.2.7. Về vấn đề lực chọn tổ chức tư vấn cổ phần hóa 39

3.2.8. Về vấn đề huy động vốn của ngân hàng 39

KẾT LUẬN 42

MỤC LỤC 43

 

 

doc43 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2622 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, nợ xấu theo pháp luật Việt Nam được xác định dựa trên 2 yếu tố: quá hạn 90 ngày và khả năng trả nợ đáng lo ngại. Định nghĩa trên có thể coi là đã sát với thông lệ quốc tế trong cách hiểu về nợ xấu. Tuy nhiên, việc áp dụng nó trong thực tế có rất nhiều vấn đề ảnh hưởng tới thực trạng nợ xấu của các ngân hàng thương mại. Cho đến nay, hầu hết các ngân hàng thương mại đều mới chỉ hạch toán nợ xấu theo thời gian quá hạn trên 90 ngày còn việc xác định khả năng trả nợ của khách hàng đang gặp rất nhiều khó khăn và phần lớn các ngân hàng đều chưa hoặc đang thí điểm áp dụng yếu tố này. Một lí do khác là tình trạng tài chính của một bộ phận lớn các doanh nghiệp ở nước ta, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước đều gặp rất nhiều khó khăn, vốn tự có chỉ đạt từ 5%- 10% tổng vốn hoạt động, khả năng sinh lời rất thấp… Và vì vậy, nếu các ngân hàng thương mại áp dụng phương pháp phân tích dòng tiền tương lai và xếp hạng tín dụng thì đa số các doanh nghiệp đó không thể vay vốn, toàn bộ số nợ hiện tại của họ có thể xếp hạng là nợ xấu. Tình trạng đó khiến cho các ngân hàng thương mại lúng túng và thường thì các ngân hàng vẫn cho vay cũng như không coi đó là nợ xấu. Việc xác định nợ xấu như vậy là dựa nhiều trên cơ sở định lượng mà chưa coi trọng cơ sở định tính, chưa tuân theo các tiêu chuẩn phân loại nợ quốc tế. Các ngân hàng thương mại nhà nước trên thực tế vẫn có thể cho vay đảo nợ, biến nợ quá hạn thành nợ trong hạn, gia hạn nợ… Khi cổ phần hóa và hội nhập sâu vào kinh tế quốc tế, các ngân hàng thương mại nhà nước sẽ vấp phải nhiều khó khăn do tiêu chuẩn phân loại nợ còn cách xa thực tế. Quá trình cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước đòi hỏi phải giải quyết triệt để các tranh chấp kinh tế, giải quyết nợ xấu, nợ tồn đọng…Việc xử lí nợ xấu với thực trạng như vậy sẽ tốn rất nhiều thời gian, gây ảnh hưởng xấu đến tiến trình cổ phần hóa. 2.5 KHÓ KHĂN TRONG XỬ LÍ TÀI CHÍNH KHI CỔ PHẦN HÓA Theo quy định của pháp luật cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, các ngân hàng thương mại nhà nước phải tiến hành kiểm kê, đối chiếu, phân loại tài sản, công nợ và xử lí các vấn đề tài chính trước khi tiến hành định giá. Tuy nhiên, khi triển khai cụ thể những công việc này thì các ngân hàng lại gặp phải những khó khăn không nhỏ. Đó là do hoạt động ngân hàng có nhiều đặc thù so với hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước khác nên khi thực hiện đã vấp phải một số vướng mắc chưa được hướng dẫn tại Thông tư của Bộ Tài chính số 146/2007/TT-BTC ngày 06 tháng 12 năm 2007 hướng dẫn thực hiện một số vấn đề về tài chính khi thực hiện chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần theo quy định tại Nghị định số 109/2007/NĐ-CP hoặc đã hướng dẫn nhưng chưa phù hợp với đặc thù hoạt động của ngân hàng. Xử lí tài sản là một trở ngại lớn đối với ngân hàng khi họ chưa được tự phát mại tài sản, nhất là khi khách hàng không hợp tác và các cơ quan chức năng nhiều khi chưa hỗ trợ hiệu quả. Hay khi bán tài sản trên đất của doanh nghiệp nhà nước vay tiền ngân hàng, giá trị quyền sử dụng đất thường bị chính quyền địa phương thu vào ngân sách nhà nước mà không dùng để trả cho ngân hàng. Có trường hợp ủy ban nhân dân tỉnh thu hồi đất đang thế chấp ngân hàng cho đơn vị khác thuê, chỉ đề bù giá trị tài sản trên đất với mức thấp. Việc bán tài sản công khai chưa có hướng dẫn cụ thể vì tổ chức đấu giá liên quan đến giấy phép và quy định về đấu giá. Bên cạnh đó, nợ quá hạn theo tiêu chuẩn quốc tế tại các ngân hàng thương mại nhà nước là rất lớn. Số liệu từ Ngân hàng Nhà nước cho thấy số nợ tồn đọng trong các ngân hàng thương mại nhà nước rất nhiều, lên tới hàng chục nghìn tỉ đồng. Trong khi đó, thực tế hoạt động của Tổ chức xử lí nợ quốc gia( DATC) và các tổ chức xử lí nợ tồn đọng trong thời gian qua cho thấy các cơ chế hiện hành vẫn chưa thực sự phù hợp. Trước hết, về cơ chế xử lí nợ, các quy định áp dụng cho DATC hầu như không tạo quyền ưu tiên trong việc tiếp cận và khai thác thông tin đánh giá khoản nợ cho nên đã gây ra không ít khó khăn trong việc mua và xử lí nợ. Thứ hai, xét về cơ chế tạo cung cầu cho xử lí nợ. Cơ chế quản lí tài chính hiện hành không buộc các doanh nghiệp nhà nước có nợ tồn đọng phải thực hiện việc bán nợ cho DATC. Do vậy mà vì tâm lí sợ trách nhiệm, sợ đụng chạm và mất quyền lợi nên các doanh nghiệp nhà nước thường chọn phương án tiếp tục treo nợ trong sổ kế toán để đảm bảo an toàn hơn là bán với giá thấp cho DATC rồi phải giả trình và gánh chịu những phiền phức có thể phát sinh. Nguồn cung về nợ tông đọng mặc dù là có nhưng lại bị hạn chế bởi tâm lí và nhận thức của chính chủ nợ- là các doanh nghiệp nhà nước nói chung và các ngân hàng thương mại nhà nước nói riêng. Thứ ba, xét về mục tiêu xử lí nợ. Kinh nghiệm ở nhiều quốc gia cho thấy việc xử lí nợ tồn đọng thường gắn liền và phục vụ cho một chính sách kinh tế cụ thể của đất nước chứ không thường chỉ nhằm xử lí nợ tồn đọng ở trong từng doanh nghiệp. Vì vậy, các nước như Hàn Quốc, Trung Quốc, Malaysia không đặt vấn đề bảo toàn vốn và có lợi nhuận làm nguyên tắc hoạt động cho các tổ chức xử lí nợ mà thay vào đó, họ yêu cầu các tổ chức xử lí nợ phải tối đa hóa giá trị thu hồi để giảm thiểu gánh nặng ngân sách mà Chính phủ phải bỏ ra để hỗ trợ cho chương trình xử lí nợ tồn đọng. Còn ở Việt Nam, chúng ta lại yêu cầu các tổ chức xử lí nợ quốc gia phải hoạt động với mục đích vừa làm lành mạnh hóa tài chính, thúc đẩy cổ phần hóa lại vừa theo cơ chế hạch toán kinh doanh. Và như vậy là để bảo toàn vốn theo yêu cầu của cơ chế tài chính áp dụng cho doanh nghiệp nhà nước thì DATC buộc phải cân nhắc chọn lựa kĩ những khoản nợ ít gặp rủi ro mất vốn nhất để xử lí. Điều này làm cho quá trình xử lí nợ chậm lại và số lượng các khoản nợ được xử lí cũng ít đi. Đó chính là mâu thuẫn trong giữa một bên là mục tiêu xử lí nợ tồn đọng, thúc đẩy cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và một bên là yêu cầu phải bảo toàn vốn và có lợi nhuận. Nó đòi hỏi phải có một cơ chế phù hợp, giải quyết được những vướng mắc phát sinh, tạo điều kiện cho DATC và các tổ chức xử lí nợ khác hoạt động có hiệu quả nhằm thúc đẩy quá trình cổ phần hóa. Ngoài ra, việc xử lí các khoản nợ của ngân hàng thương mại nhà nước còn vấp phải một số những vướng mắc từ chính những quy định của pháp luật về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Các văn bản pháp lí điều chỉnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước hiện nay còn có những quy định đề cao quyền lợi của các doanh nghiệp cổ phần hóa hơn là quyền lợi của các chủ nợ( thường là các ngân hàng) trong quá trình cổ phần hóa. Nó khiến cho các doanh nghiệp nhà nước có tâm lí ỷ lại vào việc xử lí nợ của nhà nước mà không chủ động giải quyết các khoản nợ trước khi cổ phần hóa, nhất là các khoản nợ vay của ngân hàng thương mại nhà nước. Đến lượt mình, các ngân hàng thương mại nhà nước phải tìm cách xử lí những khoản nợ đó khi tiến hành cổ phần hóa. 2.6 KHÓ KHĂN TRONG VIỆC HUY ĐỘNG VỐN KHI CỔ PHẦN HÓA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC Một vấn đề được quan tâm rất nhiều là sau khi cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước phải đảm bảo được năng lực hội nhập kinh tế quốc tế, đủ năng lực cạnh tranh với các ngân hàng trong nước và trên thế giới. Điều đó là rất khó khăn bởi vì quy mô của các ngân hàng thương mại nhà nước là rất nhỏ. Hiện nay, một ngân hàng hạng trung bình trên thế giới có quy mô vốn hoạt động khoảng 1 tỷ USD trở lên. Và để đủ năng lực cạnh tranh thì các ngân hàng thương mại Việt Nam sau khi cổ phần hóa phải đạt quy mô vốn tối thiểu là tương đương với mức đó, tức là khoảng 16 000 tỷ đồng. Trong đó, Nhà nước sẽ nắm giữ 51% nghĩa là vốn Nhà nước ở các ngân hàng thương mại phải đạt tối thiểu 8 160 tỷ đồng. Điều đó là rất khó thực hiện do vốn tự có của các ngân hàng thương mại nhà nước hiện nay là rất thấp so với yêu cầu. Đây là một thách thức lớn cho ngân hàng thương mại nhà nước khi cổ phần hóa. Hiện nay, theo các phương án đưa ra thì việc tăng vốn nhà nước có thể bằng hai hình thức. Phương án thứ nhất là giữ nguyên vốn Nhà nước hiện có tại ngân hàng , xem đó là 51% và phần còn lại sẽ huy động bằng cách phát hành thêm cổ phiếu thu hút vốn từ các cổ đông trong và ngoài nước. Tuy nhiên, phương án này gặp hạn chế ở chỗ là khi phần vốn nhà nước còn quá thấp thì số 49% huy động thêm cũng không đáng kể gì và năng lực tài chính của ngân hàng được tăng lên cũng sẽ không đáng kể. Chẳng hạn, một ngân hàng có tổng trị giá 5000 tỷ đồng thì theo phương án này, số còn lại được phép huy động tối đa cũng chỉ được 4804 tỷ đồng. Xác định tỷ lệ vốn như vậy rõ ràng không đạt được mục tiêu cổ phần hóa là tăng năng lực tài chính cho ngân hàng có đủ khả năng cạnh tranh với các ngân hàng quốc tế khác. Phương án thứ hai là bổ sung vốn Nhà nước để mức vốn điều lệ của ngân hàng tăng đến đâu thì mức vốn của Nhà nước tăng đến đó, luôn đảm bảo nhà nước chiếm giữ tỷ trọng 51%. Tuy nhiên phương thức này lại có hạn chế là khả năng bổ sung vốn của ngân sách nhà nước. Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, hiện nay ngân sách nhà nước còn gặp nhiều khó khăn, không đủ vốn để luôn duy trì tỷ lệ 51% khi mức vốn điều lệ của ngân hàng tăng cao. Đó là trở ngại không nhỏ đối với ngân hàng thương mại nhà nước khi cổ phần hóa. 2.7 KHÓ KHĂN TRONG VIỆC XÁC ĐỊNH CƠ CẤU SỞ HỮU VỐN ĐIỀU LỆ Việc xác định cơ cấu sở hữu vốn điều lệ tại ngân hàng sau cổ phần hóa theo quy định của pháp luật hiện hành cũng làm nảy sịnh một số vấn đề cho quá trình cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước. Tỷ lệ nắm giữ cổ phần của Nhà nước trong ngân hàng sau cổ phần hóa là tối thiểu 51%. Điều đó giúp cho Nhà nước duy trì được ảnh hưởng của mình đối với ngân hàng cổ phần hóa và hướng phát triển của ngân hàng sau cổ phần hóa không lệch ra ngoài đường lối chung của Nhà nước. Tuy nhiên, xác định tỷ lệ sở hữu cổ phần của Nhà nước như vậy làm phát sinh một số vấn đề. Thứ nhất, với tỷ lệ nắm giữ cổ phần 51%, Nhà nước sẽ phải bổ sung vốn cho ngân hàng sau cổ phần hóa khi ngân hàng có nhu cầu tăng vốn điều lệ. Đó là điều tất yếu sẽ xảy ra khi ngân hàng muốn hội nhập kinh tế quốc tế thành công. Để hội nhập kinh tế quốc tế và đủ khả năng cạnh tranh với các ngân hàng khác trong khu vực cũng như quốc tế thì ngân hàng thương mại nhà nước sau cổ phần phải tăng năng lực tài chính của mình hơn nữa. Trong khi đó, khả năng của ngân sách nhà nước là có hạn. Ngân sách nhà nước còn có rất nhiều khoản đầu tư khác phải thực hiện cho sự phát triển chung của đất nước và luôn luôn trong tình trạng không dư dật. Như vậy, tỷ lệ cổ phần chi phối mà nhà nước nắm giữ sẽ tạo nên một áp lực rất đáng kể cho ngân sách nhà nước vốn rất eo hẹp. Thứ hai, vấn đề Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối trong ngân hàng sau cổ phần hóa cũng ảnh hưởng rất lớn tới việc quản lí ngân hàng sau cổ phần. Chúng ta biết rằng sở dĩ các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả, làm ăn thua lỗ chính là bắt nguồn từ sở hữu và phương thức quản lí. Do sở hữu là của Nhà nước, người điều hành do Nhà nước bổ nhiệm. Người quản lí đại diện cho nhà nước nắm quyền quản lí doanh nghiệp và quyền sở hữu nhà nước trở thành quyền sở hữu của cá nhân được giao, dẫn đến tự chủ nhưng không chịu trách nhiệm, lợi ích của cá nhân được giao quyền quản lí doanh nghiệp đó lại thể hiện rõ rệt dưới nhiều hình thức như độc đoán, chuyên quyền, gia đình trị, tham ô… Doanh nghiệp thì luôn luôn có tâm lí ỉ lại, trông chờ vào sự bao cấp của nhà nước, hoạt động kém năng động, tính hiệu quả thấp. Cổ phần hóa là để xác định rõ ràng người làm chủ đích thực có quyền định đoạt trong quản lí, rõ trách nhiệm trong quản lí và điều hành, tăng cường được tính cạnh trạnh, tránh được thất thoát vốn và tài sản…ở ngân hàng thương mại nhà nước sau khi cổ phần hóa, việc Nhà nước nắm giữ 51% cổ phần chi phối cũng có nghĩa là Nhà nước vẫn là người định đoạt lớn nhất trong ngân hàng và cơ cấu quản lí ngân hàng. Ngân hàng sau cổ phần rất dễ lại bị lâm vào tình trạng “ bình mới rượu cũ”. Các bài học về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước trước đây cho thấy rất rõ điều này. Có nơi, giám đốc để doanh nghiệp thua lỗ 10 năm liên tiếp và sau khi cổ phần hóa vẫn đại diện sở hữu nhà nước tiếp tục làm giám đốc. Trong trường hợp đó, hầu như toàn bộ ban lãnh đạo cũ vẫn được giữ nguyên. Nó tạo ra tình trạng cổ phần hóa rồi nhưng cơ chế trông chờ, ỷ lại có thay đổi cũng chỉ thay đổi được rất ít. Bên cạnh tỷ lệ cổ phần chi phối của Nhà nước, vấn để tỷ lệ sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư chiến lược của ngân hàng cũng làm nảy sịnh nhiều vấn đề. Một trong những mục tiêu khi cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước là nhằm tranh thủ kinh nghiệm quản lí, điều hành cũng như công nghệ hiện đại của các nhà đầu tư mà đặc biệt là các nhà đầu tư chiến lược. Các nhà đầu tư chiến lược thường là các định chế tài chính hùng mạnh, có uy tín, có kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. Họ sẵn sàng góp vốn cũng như những yếu tố khác vào ngân hàng thương mại nhà nươc khi cổ phần hóa với mong muốn cùng tạo lập nên một ngân hàng giàu mạnh và cùng chia sẻ những thành quả đạt được. Tuy nhiên, với quy định của pháp luật hiện nay thì các nhà đầu tư chiến lược chỉ được nắm không quá 20% tổng số vốn điều lệ của ngân hàng sau cổ phần. Với tỉ lệ sở hữu cổ phần như vậy, các nhà đầu tư chiến lược không thể có ảnh hưởng lớn đối với việc quản lí cũng như điều hành ngân hàng và điều đó khiến cho các nhà đầu tư chiến lược giảm nhiệt tình đối với quá trình cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước. nó cũng khiến cho mục tiêu tranh thủ vốn, công nghệ quản lí , điều hành cũng như tranh thủ uy tín của các nhà đầu tư chiến lược trở nên khó đạt được hoặc có đạt được nhưng không được như mong muốn. Mong muốn khi cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước là kinh doanh đạt hiệu quả tốt hơn, kết hợp hài hòa các lợi ích để không ngừng phát triển và hội nhập. Tuy nhiên, cũng phải cần xem xét lại khía cạnh Nhà nước nắm cổ phần chi phối và tỉ lệ sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư chiến lược. Nếu như không giải quyết tốt những vấn đề đó thì sẽ rơi vào cổ phần hóa hình thức, cải lương, không khác gì so với doanh nghiệp nhà nước trước khi cổ phần hóa và không đạt được các mục tiêu cổ phần hóa đặt ra. 2.8 SỰ THIẾU VẮNG CÁC VĂN BẢN PHÁP LÍ ĐIỀU CHỈNH TRỰC TIẾP QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HÓA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC Cho đến thời điểm hiện nay, các quy định về mặt pháp lí của Nhà nước dành riêng cho quá trình cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước là hầu như chưa có. Số lượng các văn bản quy định về việc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước là ngân hàng còn rất hạn chế mà chỉ có các quy định về cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước nói chung, sản xuất, kinh doanh các hàng hóa dịch vụ thông thường. Hiện tại, vấn đề cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước được điều chỉnh bởi văn bản pháp lí có hiệu lực cao nhất là Nghị định của Chính phủ số109/2007/NĐ-CP ngày 26/06/2007 về chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần, kế đến là Thông tư của Bộ Tài chính số 146/2007/TT-BTC ngày 06 tháng 12 năm 2007 hướng dẫn thực hiện một số vấn đề về tài chính khi thực hiện chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần theo quy định tại Nghị định số 109/2007/NĐ-CP, các văn bản khác hướng dẫn thực hiện Nghị định 109, Nghị Định số 69/2007/NĐ-CP ngày 20 tháng 04 năm 2007 về việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của ngân hàng thương mại Việt Nam và một số văn bản pháp luật về chứng khoán, tổ chức tín dụng khác. Ngân hàng thương mại nhà nước không chỉ là doanh nghiệp nhà nước thông thường mà nó có nhiều đặc thù trong hoạt động nói chung cũng như trong vấn đề cổ phần hóa nói riêng. Và nếu áp dụng những quy định chung cho cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước vào quá trình cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước thì rõ ràng là sẽ có nhiều điểm không phù hợp. Điều đó gây không ít cản trở cho quá trình cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước. Với những ý kiến trên NHTMNN đã ảnh hưởng đối với Thị trường chứng khoán: 1.Thay đổi lãi suất chiết khấu Cái này ảnh hưởng nhiều và rõ nét nhất trong 3 công cụ. Ngân hàng TMNN tăng lãi suất -> Lượng tiền cơ sở giảm -> Mức cho vay của NH hạn chế và lãi suất cho vay cao -> Người chơi CK sẽ chủ yếu dùng tiền của mình, hạn chế không đi vay để chơi CK nữa -> Giảm lượng số lượng người và lượng tiền đầu tư trên TTCK  Ngân hàng TMNN tăng lãi suất -> Lượng tiền cơ sở giảm-> Lãi suất tiền gửi của NH cao, hấp dẫn (vì muốn thu hút thêm tiền gửi từ dân khi lượng tiền cơ sở giảm) Cộng thêm nếu thị trường CK không ổn định, rủi ro lớn -> Nhà đầu tư CK sẽ thích gửi tiền Ngân hàng hơn là chơi CK . - Kết luận: Thị trường CK cũng có xu hướng giảm theo. 2. Quy định mức dự trữ bắt buộc  Với hai mục này bởi vì quy định mới của NHNN về cho vay chứng khoán hạn chế ở mức 3%. Khi lượng dự trữ tiền cơ sở của các NHTM bị thay đổi vì chính sách tiền tệ thắt chặt của NN sẽ dẫn đến NHTM phải điều chỉnh tương ứng các mức hạn cho vay tương ứng trên tổng dư nợ của ngân hàng è lượng tiền cung từ NH ít đi, số tiền vay được để chơi CK ít hơn, dân tự huy động tiền nhàn rỗi của mình nhiều hơn . Kết luận: TTCK có ảnh hưởng nhưng không đáng kể  3. Nghiệp vụ thị trường mở  Cái này thực chất về vĩ mô và lâu dài thì có ảnh hưởng tới sự giao động của thị trường CK về lượng tiền đầu tư chứ không ảnh hưởng đến giá cả các cổ phiếu. Vì nghiệp vụ này khi tiến hành thì hầu hết chỉ có các NHTM nhà nước tham gia, nay có thêm ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, ngân hàng liên doanh, ngân hàng thương mại cổ phần và chỉ rất ít các lọai Trái Phiếu dân bỏ tiền ra mua. Mà TTCK hiện nay hầu hết khỏang 90% là các cá nhân và 10% là các tổ chức, các quỹ đầu tư nên cũng ảnh hưởng không nhiều. (Tuy nhiên tính trên tổng số vốn đầu tư thì tỷ lệ các tổ chức các quỹ năm giữ cũng khá nhiều.) Ngoài Lãi suất chiết khấu như đã giải thích, thì còn có Lãi suất tái chiết khấu - là hình thức lãi suất được áp dụng khi Ngân hàng Nhà nước chiết khấu lại các kỳ phiếu, thương phiếu... của các tổ chức tín dụng.  Nhưng vấn đề chính mà tôi muốn trình bày ở đây, đó là cả hai công cụ: tỉ lệ dự trữ bắt buộc & nghiệp vụ thị trường mở đều ảnh hưởng đến tổng cung tiền, qua đó ảnh hưởng khá mạnh tới lượng tiền đầu tư vào TTCK.  Nếu như Ngân hàng Nhà nước áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt thì sẽ làm giảm tổng lượng tiền cung ứng, gây ra đồng thời 2 hiệu ứng:  - Làm giảm lạm phát một cách trực tiếp.  - Làm giảm lạm phát thông qua việc tăng lãi suất. Vì lãi suất tăng => đầu tư giảm => Tổng cầu AD giảm => giá giảm.  Tuy nhiên, hai công cụ này cũng đồng thời làm tăng lãi suất, do cung tiền giảm.  Lãi suất tăng có thể gây ra tác động lớn tới TTCK:  - Thứ nhất, lãi suất tăng sẽ làm giảm chênh lệch giữa lợi nhuận kỳ vọng khi tham gia TTCK và lãi suất ngân hàng giảm xuống => một số người không ưa rủi ro có thể sẽ gửi vốn vào Ngân hàng.  - Thứ hai, lãi suất tăng làm cho chi phí của các khoản vay để đầu tư tăng lên => lợi nhuận kỳ vọng giảm => lượng tiền đầu tư vào TTCK có thể giảm.  - Thứ ba, lãi suất tăng làm giá của Trái phiếu chính phủ ( ở các nước phát triển ) giảm => tác động tới quyết định mua, bán hay giữ Trái phiếu chính phủ của các nhà đầu tư, dựa trên tình hình cụ thể. Tóm lại : Tỷ lệ lãi suất có một tác động rộng và đa dạng khi nền kinh tế. Khi nó được nâng lên, tác động chung là để giảm bớt lượng tiền trong lưu thông, hoạt động để giữ lạm phát thấp. Nó cũng làm cho vay tiền đắt hơn, ảnh hưởng đến người tiêu dùng và các doanh nghiệp chi tiêu tiền bạc của họ, điều này làm tăng chi phí cho các công ty, phần nào làm giảm thu nhập cho những người có nợ thanh toán. Cuối cùng, nó có xu hướng làm cho thị trường chứng khoán một nơi hơi kém hấp dẫn để đầu tư.  Tuy nhiên, những yếu tố này và kết quả tất cả các tương quan với nhau. Những gì chúng tôi mô tả ở trên là tương tác rất rộng, có thể sử dụng theo những vô số cách. Lãi suất không phải là yếu tố quyết định duy nhất của giá cổ phiếu và có cân nhắc rất nhiều vào giá chứng khoán và xu hướng chung của thị trường - một tăng lãi suất chỉ là một trong số họ. Vì vậy, người ta không bao giờ có thể nói với sự tự tin rằng một tăng lãi suất của NHTMNN sẽ có ảnh hưởng tổng thể tiêu cực đến giá cổ phiếu.  2.9 ĐÁNH GIÁ VÀ NHẬN XÉT CHUNG: Ưu điểm: Huy động một lượng vốn dồi dào. chủ động hơn về mặt nguồn vốn. Nhược điểm: Khi thị trường chứng khoán rơi vào tình trạng "ì xèo" thì khả năng huy động bị giảm sút , giá trị cổ phiếu giảm mạnh, gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới hoạt động kinh doanh tài chính. Nhìn chung, ngoài những ưu điểm và nhược điểm trên nó được đánh giá một phần nào của việc tiến trình cổ phần hóa các NHTMNN bị chậm trễ so với yêu cầu do nhiều nguyên nhân khác nhau tác động, trong đó nổi lên các yếu tố cản trở chủ yếu như sau: - Việc xử lý nợ khó đòi: Đây là khúc mắc lớn nhất của quá trình cổ phần hóa các ngân hàng thương mại Nhà nước. Ở rất nhiều ngân hàng thương mại Nhà nước, nợ xấu chủ yếu lại vẫn thuộc về doanh nghiệp nhà nước mà nguyên nhân là do các doanh nghiệp này làm ăn thua lỗ, bị khó khăn về tài chính, không trả được nợ. Việc giải quyết cho các DNNN được xóa nợ, khoanh nợ, giản nợ không phải là cách làm tích cực, gốc của vấn đề vẫn là đổi mới hoạt động sản xuất kinh doanh, bộ máy quản lý của các doanh nghiệp nhà nước hiện nay. - Việc xác định giá trị của các ngân hàng thương mại Nhà nước: Hiện nay, công việc đánh giá lại giá trị của các ngân hàng thương mại Nhà nước trước khi cổ phần hóa còn gặp nhiều khó khăn. Giá trị của ngân hàng thương mại Nhà nước được cổ phần hóa có thể tăng thêm khi định giá tài sản cố định, đặc biệt là bất động sản vì giá trị ghi trên sổ sách khi tính lại theo giá thị trường chắc chắn sẽ cao hơn nhiều. - Cơ chế cấp vốn: Vốn chủ sở hữu Nhà nước phải là vốn thực. Nhưng qua những đợt tăng vốn bổ sung, Nhà nước đã cấp loại trái phiếu đặc biệt cho các ngân hàng thương mại Nhà nước, mà đây chỉ là vốn danh nghĩa (vốn ghi trên sổ) chứ không thể tạo nên giá trị cho ngân hàng. - Tính phức tạp trong hoạt động của ngân hàng: Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp đặc biệt nên hoạt động của nó có tính phức tạp rất cao, trong khi đó khuôn khổ pháp lý lại chưa được hoàn thiện, các quy định cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước còn nhiều điểm chưa phù hợp với cổ phần hóa ngân hàng thương mại Nhà nước. - Sự lúng túng và sức ỳ trong chỉ đạo điều hành ở ngay trong nội bộ các ngân hàng thương mại Nhà nước: Phần lớn các ngân hàng thương mại Nhà nước đều lúng túng, chưa chủ động tích cực để xác định rõ phạm vi, phân loại và tổ chức hạch toán theo dõi riêng các khoản nợ tồn đọng. Vì chưa phân loại đối với từng khoản nợ tồn đọng nên chưa có giải pháp xử lý thích hợp đối với từng khoản nợ này. Bên cạnh đó, sức ỳ quan liêu của ban lãnh đạo, sự thiếu ủng hộ của người lao động, sự quan tâm quá ít ỏi của các nhà đầu tư và tư tưởng chưa thông suốt, còn muốn níu kéo sự bao bọc của Nhà nước của khá nhiều người trong việc cổ phần hóa cũng có ảnh hưởng nhất định đến tiến trình cổ phần hóa. CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ 3.1 GIẢI PHÁP 3.1.1. Về cơ chế pháp lý điều chỉnh hoạt động Ngân hàng Nhà nước trình Quốc hội nghiên cứu điều chỉnh bổ sung loại hình NHTM CPH trong loại hình các TCTD làm cơ sở pháp lý thực hiện. Là ngân hàng có yếu tố vốn đầu tư nước ngoài nên sẽ chịu điều chỉnh bởi Luật các TCTD và Luật đầu tư nước ngoài. 3.1.2. Về cơ chế quản trị ngân hàng Phải xây dựng được cơ chế quản lý của Hội đồng quản trị theo hướng nâng cao quyền lực. Theo đó, Hội đồng quản trị được quyền bỏ phiếu tín nhiệm đối với Tổng giám đốc điều hành; bộ phận kiểm soát và kiểm toán nội bộ ngân hàng hoạt động độc lập với Ban điều hành, chỉ trực thuộc Hội đồng quản trị, từ đó mới phát huy được vai trò hoạt động của Kiểm soát và kiểm toán nội bộ. Quy định một số quyền hạn nhất định của các cổ đông nước ngoài trong việc tham gia các quyết sách hoạt động của ngân hàng. Xây dựng được các chuẩn mực quốc tế về quy trình nghiệp vụ quản trị rủi ro, quản lý tín dụng hiện đại, quản lý tài sản nợ-có, quản lý đầu tư, quy trình kiểm toán nội bộ…. 3.1.3. Xác định giá trị thực tế ngân hàng Trong quá trình thực hiện CPH điều quan trọng là xác định giá trị thực tế ngân hàng để đưa giá bán cổ phần cho phù hợp, người mua và người bán có thể chấp nhận được. Tiến hành thí điểm và mở rộng bán đấu giá cổ phần lần đầu thông qua thị trường chứng khoán. Trong giai đoạn đầu, có thể nghiên cứu bán cổ phần không chi phối cho các nước có thực lực kinh tế phát triển mạnh để thu hút nhanh vốn. 3.1.4. Xây dựng lộ trình phát triển theo mục tiêu chiến lược của NH được CPH Trên cơ cơ sở mục tiêu chiến lược đã được định hướng, cần thiết phải xây dựng lộ trình phát triển hoạt động cho ngân hàng được CPH như sau : - Từ năm 2006 đến 2010: Phải đạt một số chuyển biến lớn về cơ sở hạ tầng, nguồn vốn, phát triển các loại hình sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại. Phát triển mạng lưới văn phòng đại diện và chi nhánh hoạt động ở nước ngoài, hình thành một NHTM mạnh có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. - Từ năm 2010: Hoạt động NHTM theo chuẩn mực quốc tế kể cả về vốn, quản lý, công nghệ thông tin, đáp ứng nhu cầu về vốn và thanh toán chủ yếu của nền kinh tế, đồng thời khẳng định vai trò nhất định trên thị trường tài chính khu vực và quốc tế. 3.1.5. Cổ phần hoá gắn với ni

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docGiải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh trong hoạt động cho vay tiêu dùng của VPBank.doc
Tài liệu liên quan