Tiểu luận Cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính, tiền tệ, Đông Nam Á - Châu Á (Thái lan)

MỤC LỤC

 

Lời mở đầu Trang2

Lời cám ơn 3

Chương I : Tổng quan về cuộc khủng hoảng tài chính

I. Khủng hoảng tài chính là gì 4

1. Khái niệm 4

2. Phân loại 4

II. Sơ lược về cuộc khủng hoảng tài chính

1. Sơ lược 5

2. Tác động 6

Chương II : Thực trạng khủng hoảng tài chính ĐNÁ

I. Nguyên nhân 7

II. Diễn biến 10

III. Tác động tới các nước khác 13

1. Tác động tới Châu Á, Châu Âu, Châu Mỹ .13

2. Tác động tới Việt Nam 14

Chương III : Kết luận, kiến nghị, đề ra giải pháp khắc phục

I. Kết luận 15

II. ĐNÁ đối phó với cuộc khủng hoảng 18

III. Các biện pháp khắc phục 19

Tài liệu tham khảo 21

 

 

 

 

docx22 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7993 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính, tiền tệ, Đông Nam Á - Châu Á (Thái lan), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ài chính vốn nhiều yếu kém tiềm tàng của các nước trong khu vực. Nguyên nhân trực tiếp của khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997 là những cuộc tấn công của một số thể chế đầu cơ vĩ mô đối với hệ thống tiền tệ châu Á (George Soros) và sau đó là việc rút vốn đồng loạt của các nhà đầu tư do người ta không còn tin rằng các chính phủ đủ khả năng giữ nổi tỷ giá hối đoái cố định trong điều kiện dự trữ ngoại hối đã cạn. Nhiều bài phân tích về sau này nhận xét rằng khi mới bị tấn công tiền tệ, các nước châu Á lẽ ra phải lập tức thả nổi đồng tiền của mình chứ không nên cố sức bảo vệ tỷ giá để đến nối cạn kiệt cả dự trữ ngoại hối nhà nước mà lại càng làm cho tấn công đầu cơ thêm kéo dài. Tại Thái Lan, ngày 14/5/1997, baht Thái bị tấn công quy mô lớn. 2/7 buộc phải thả nổi baht và baht ngay lập tức mất giá 50%. Finance One, công ty tài chính lớn nhất của Thái Lan bị phá sản do thị trường nhà đất đóng băng, mất khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Ngay lập tức, đồng Ringgit của Malaysia và thị trường chứng khoán Kuala Lumpur lập tức bị sụt giảm mạnh. Phần lớn sức ép giảm giá đối với Ringgit là từ việc buôn bán đồng tiền này trên thị trường tiền ở nước ngoài. Trong Q2 và Q3, lượng vốn chảy ra đạt tới mức 24,6 tỷ Ringgit 3/7, Philippines cố can thiệp để giữ giá đồng peso nhưng peso vẫn mất giá nghiêm trọng. Tháng 8, đồng Rupiah Inđo bị giới đầu cơ tấn công và đến ngày 14 thì chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý được thay thế bằng chế độ thả nổi hoàn toàn. Trước tình hình đó, nhiều công ty đẩy mạnh mua Dollar vào khiến Rupiah thêm mất giá và tỷ lệ lạm phát tăng vọt do lo sợ Rupiah mất giá làm suy yếu bảng cân đối tài sản và làm cho món nợ ngân hàng nước ngoài của các công ty tăng lên. 4/10, Dollar Hồng Kông bị tấn công . Cơ quan Tiền tệ Hong Kong đã phải chi hơn 1 tỷ USD để bảo vệ đồng tiền của mình. Từ 20/10 - 23/10, Hangseng Index giảm 23%. Tại Hàn, vào thời điểm này đang chịu gánh nặng nợ nước ngoài khổng lồ. Tháng 11, các nhà đầu tư bắt đầu xả chứng khoán ở quy mô lớn. Từ 28/11 tới 11/12, Moody's đánh tụt hạng của Hàn . Cuộc khủng hoảng bắt đầu từ Thái lan và tiếp là Malaysia, Philipines, Hồng Kông, Hàn Quốc. Tác động Khủng hoảng đã gây ra những ảnh hưởng vĩ mô nghiêm trọng, bao gồm mất giá tiền tệ, sụp đổ thị trường chứng khoán, giảm giá tài sản ở một số nước châu Á. Nhiều doanh nghiệp bị phá sản, dẫn đến hàng triệu người bị đẩy xuống dưới ngưỡng nghèo trong các năm 1997-1998. Những nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất là Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan. Khủng hoảng kinh tế còn dẫn tới mất ổn định chính trị với sự ra đi của Suharto ở Indonesia và Chavalit Yongchaiyudh ở Thái Lan. Tâm lý chống phương Tây gia tăng cùng với sự phê phán gay gắt nhằm vào George Soros và Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Các phòng trào Hồi giáo và ly khai phát triển mạnh ở Indonesia khi chính quyền trung ương của nước này suy yếu. Một ảnh hưởng lâu dài và nghiêm trọng, đó là GDP và GNP bình quân đầu người tính bằng Dollar Mỹ theo sức mua tương đương giảm đi. Nội tệ mất giá là nguyên nhân trực tiếp của hiện tượng này. Cuốn CIA World Fact Book cho biết thu nhập bình quân đầu người của Thái Lan đã giảm từ mức 8.800 USD năm 1997 xuống còn 8.300 USD vào năm 2005, của Indonesia giảm từ 4.600 USD xuống 3.700 USD, của Malaysia giảm từ 11.100 USD xuống 10.400 USD. Cuộc khủng hoảng không chỉ lây lan ở khu vực Đông Á mà nó góp phần dẫn tới khủng hoảng tài chính Nga và khủng hoảng tài chính Brasil. Một số nước không bị khủng hoảng, nhưng kinh tế cũng chịu ảnh hưởng xấu do xuất khẩu giảm và do FDI vào giảm. CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG CUỘC KHỦNG HOẢNG ĐÔNG NAM Á NGUYÊN NHÂN Nền tảng kinh tế vĩ mô yếu kém Thái Lan và một số nước Đông Nam Á đã cố gắng thực hiện cái mà -các nhà kinh tế gọi là Bộ ba chính sách không thể đồng thời. Họ vừa cố định giá trị đồng tiền của mình vào Dollar Mỹ, vừa cho phép tự do lưu chuyển vốn (tự do hóa tài khoản vốn). Kinh tế Đông Nam Á tăng trưởng nhanh trong thập niên 1980 và nửa đầu thập niên 1990 đã tạo ra sức ép tăng giá nội tệ. Để bảo vệ tỷ giá cố định, các ngân hàng trung ương Đông Nam Á đã thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng. Kết quả là cung tiền tăng gây ra sức ép lạm phát. Chính sách vô hiệu hóa (sterilization policy) đã được áp dụng để chống lạm phát vô hình chung đẩy mạnh các dòng vốn chảy vào nền kinh tế. Vào giữa thập niên 1990, Hàn Quốc có nền tảng kinh tế vĩ mô tương đối tốt ngoại trừ việc đồng Won Hàn Quốc không ngừng lên giá với Dollar Mỹ trong thời kỳ từ sau năm 1987. Điều này làm cho tài khoản vãng lai của Hàn Quốc suy yếu vì giá hàng xuất khẩu của Hàn Quốc trên thị trường hàng hóa quốc tế tăng. Trong hoàn cảnh đó, Hàn Quốc lại theo đuổi một chế độ tỷ giá hối đoái neo lỏng lẻo và chính sách tự do hóa tài khoản vốn. Vì thế, thâm hụt tài khoản vãng lai được bù đắp lại bằng việc các ngân hàng của nước này đi vay nước ngoài mà phần lớn là vay nợ ngắn hạn và nợ không tự bảo hiểm rủi ro. Năm 1994, nhà kinh tế Paul Krugman của trường đại học Princeton, (lúc đó còn ở MIT), cho đăng bài báo tấn công ý tưởng về "thần kỳ kinh tế Đông Á".Ông ta cho rằng: Sự tăng trưởng kinh tế của Đông Á, trong quá khứ, là do kết quả của đầu tư theo hình thức tư bản, dẫn tới sự tăng năng suất lao động. Trong khi đó, năng suất tổng nhân tố lại chỉ được nâng lên ở một mức độ rất nhỏ, hoặc hầu như giữ nguyên. Krugman cho rằng việc chỉ tăng trưởng năng suất tổng nhân tố không thôi, mà không cần đầu tư vốn, đã có thể mang lại sự thịnh vượng dài hạn. Krugman có thể được nhiều người coi như một nhà tiên tri sau khi khủng hoảng tài chính lan rộng, tuy nhiên chính ông ta cũng đã từng phát biểu rằng ông ta không dự đoán cơn khủng hoảng hoặc nhìn trước được chiều sâu của nó. Các dòng vốn nước ngoài kéo vào Chính sách tiền tệ nới lỏng và việc tự do hóa tài chính ở Mỹ, châu Âu và Nhật Bản cuối thập niên 1980 đã khiến cho tính thanh khoản toàn cầu trở nền cao quá mức. Các nhà đầu tư ở các trung tâm tiền tệ nói trên của thế giới tìm cách thay đổi danh mục tài sản của mình bằng cách chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài. Trong khi đó, các nước châu Á lại thực hiện chính sách tự do hóa tài khoản vốn. Lãi suất ở các nước châu Á cao hơn ở các nước phát triển. Chính vì thế, các dòng vốn quốc tế đã ồ ạt chảy vào các nước châu Á. Ngoài ra, những xúc tiến đầu tư của chính phủ và những bảo hộ ngầm của chính phủ cho các thể chế tài chính cũng góp phần làm các công ty ở châu Á bắt chấp mạo hiểm để đi vay ngân hàng trong khi các ngân hàng bắt chấp mạo hiểm để đi vay nước ngoài mà phần lớn là vay nợ ngắn hạn và nợ không tự bảo hiểm rủi ro. (Hiện tượng thông tin phi đối xứng dẫn tới lựa chọn nghịch và rủi ro đạo đức.) Những thay đổi bất lợi của kinh tế thế giới Nhật Bản, một trong những thị trường xuất khẩu lớn nhất của các nước châu Á bị trì trệ từ đầu thập niên 1990. Nhân dân tệ được định giá thấp so với Dollar Mỹ từ năm 1994 cùng nhiều nhân tố khác làm cho hàng xuất khẩu của Trung Quốc rẻ hơn so với hàng xuất khẩu cùng loại của Đông Nam Á. Trong khi đó, nền kinh tế của Mỹ đang được khôi phục lại sau tình trạng suy thoái đầu những năm 1990, Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ dưới sự lãnh đạo của Alan Greenspan bắt đầu nâng lãi suất của Mỹ lên để ngăn chặn lạm phát. Việc này làm cho Mỹ trở thành một thị trường hấp dẫn đầu tư hơn so với các nước ở Đông Á, và do đó hấp dẫn những luồng vốn đầu tư ngắn hạn thông qua lãi suất ngắn hạn cao và làm tăng giá đồng Đô La Mỹ. Và do đồng tiền của các nước Đông Nam Á được neo vào Dollar Mỹ, nên xuất khẩu của các nước này trở nên kém cạnh tranh. Từ mùa Xuân năm 1996, tăng trưởng trong xuất khẩu của Đông Nam Á giảm xuống một cách nhanh chóng, làm suy yếu tài khoản vãng lai của họ. Tấn công đầu cơ và rút vốn đồng loạt Nguyên nhân trực tiếp của khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997 là những cuộc tấn công đầu cơ và việc rút vốn đồng loạt khỏi các nước châu Á. Những nguyên nhân sâu xa nói trên rồi cũng bộc lộ. Thị trường bất động sản của Thái Lan đã vỡ. Một số thể chế tài chính bị phá sản. Người ta không còn tin rằng chính phủ đủ khả năng giữ nổi tỷ giá hối đoái cố định. Khi phát hiện thấy những điểm yếu chết người trong nền kinh tế của các nước châu Á, một số thể chế đầu cơ vĩ mô đã tiến hành tấn công tiền tệ châu Á. Các nhà đầu tư nước ngoài đồng loạt rút vốn ra. Một nguyên nhân trực tiếp nữa của khủng hoảng là năng lục xử lý khủng hoảng yếu kém. Nhiều nhà kinh tế cho rằng khi mới bị tấn công tiền tệ, đáng lẽ các nước châu Á phải lập tức thả nổi đồng tiền của mình chứ không nên cố sức bảo vệ tỷ giá để đến nối cạn kiệt cả dự trữ ngoại hối nhà nước mà lại càng làm cho tấn công đầu cơ thêm kéo dài. Ngoại trưởng 10 nước ASEAN lúc đó tin rằng, việc liên kết các hệ thống tiền tệ chặt chẽ là một nỗ lực thận trọng nhằm củng cố vững chắc các nền kinh tế ASEAN. Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 30 diễn ra tại Subang Jaya, Malaysia đã thông quan một Tuyên bố chung vào ngày 25 tháng 7 năm 1997 nêu rõ mối quan ngại sâu sắc và kêu goi các nước ASEAN cần hợp tác chặt chẽ hơn nhằm bảo vệ và tăng cường lợi ích của ASEAN trong giai đoạn này. Ngẫu nhiên là trong cùng ngày này, các Ngân hàng Trung ương của hầu hết các nước chịu tác động của khủng hoảng đã gặp nhau tại Thượng Hải trong Hội nghị cấp cao Đông Á Thái Bình dương EMEAP, và thất bại trong việc đưa ra một biện pháp Dàn xếp cho vay mới. Trước đó một năm, Bộ trưởng Tài chính của các nước này cũng đã tham dự Hội nghị Bộ trưởng Tài chính APEC lần thứ 3 tại Kyoto, Nhật Bản vào ngày 17 tháng 3 năm 1996, và theo như Tuyên bố chung, các bên đã không thể nhân đôi được Quỹ tài chính phục vụ cho Hiệp định chung về cho vay và Cơ chế Tài chính trong tình trạng khẩn cấp. Vì vậy, cuộc khủng hoảng có thể xem như một thất bại trong việc xây dựng năng lực phù hợp kịp thời, thất bại trong việc ngăn chặn sự lôi kéo tiền tệ. Một số nhà kinh tế lại chỉ trích chính sách tài chính thắt chặt của IMF được áp dụng ở các nước xảy ra khủng hoảng càng làm cho khủng hoảng thêm trầm trọng. DIỄN BIẾN Thái Lan Từ năm 1985 đến năm 1995, kinh tế Thái Lan tăng trưởng với tốc độ bình quân hàng năm là 9%. Cuối năm 1996, báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới của IMF đã cảnh báo nền kinh tế Thái Lan tăng trưởng quá nóng và bong bóng kinh tế có thể không giữ được lâu. Cuối năm 1996, thị trường chứng khoán Thái Lan bắt đầu có sự điều chỉnh. Cả mức vốn hóa thị trường vốn lẫn chỉ số thị trường chứng khoán đều giảm đi. Ngày 14 tháng 5 và ngày 15 tháng 5 năm 1997, đồng baht Thái bị tấn công đầu cơ quy mô lớn. Ngày 30 tháng 6, thủ tướng Thái Lan Chavalit Yongchaiyudh tuyên bố sẽ không phá giá baht, song rốt cục lại thả nổi baht vào ngày 2 tháng 7. Baht ngay lập tức mất giá gần 50%. Vào tháng 1 năm 1998, nó đã xuống đến mức 56 baht mới đổi được 1 dollar Mỹ. Chỉ số thị trường chứng khoán Thái Lan đã tụt từ mức 1.280 cuối năm 1995 xuống còn 372 cuối năm 1997. Đồng thời, mức vốn hóa thị trường vốn giảm từ 141,5 tỷ USD xuống còn 23,5 tỷ USD. Finance One, công ty tài chính lớn nhất của Thái Lan bị phá sản. Ngày 11 tháng 8, IMF tuyên bố sẽ cung cấp một gói cứu trợ trị giá 16 tỷ dollar Mỹ cho Thái Lan. Ngày 20 tháng 8, IMF thông qua một gói cứu trợ nữa trị giá 3,9 tỷ dollar. Philippines Sau khi khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, ngày 3 tháng 7 ngân hàng trung ương Philippines đã cố gắng can thiệp vào thị trường ngoại hối để bảo vệ đồng peso bằng cách nâng lãi suất ngắn hạn (lãi suất cho vay qua đêm) từ 15% lên 24%. Đồng peso vẫn mất giá nghiêm trọng, từ 26 peso ăn một dollar xuống còn 38 vào năm 2000 và còn 40 vào cuối khủng hoảng. Khủng hoảng tài chính nghiêm trọng thêm do khủng hoảng chính trị liên quan tới các vụ bê bối của tổng thống Joseph Estrada. Do khủng hoảng chính trị, vào năm 2001, Chỉ số Tổng hợp PSE của thị trường chứng khoán Philippines giảm xuống còn khoảng 1000 điểm từ mức cao khoảng 3000 điểm hồi năm 1997. Nó kéo theo việc đồng peso thêm mất giá. Giá trị của đồng peso chỉ được phục hồi từ khi Gloria Macapagal-Arroyo lên làm tổng thống. Hong Kong Tháng 10 năm 1997, Dollar Hong Kong bị tấn công đầu cơ. Đồng tiền này vốn được neo vào Dollar Mỹ với tỷ giá 7,8 HKD/USD. Tuy nhiên, tỷ lệ lạm phát ở Hong Kong lại cao hơn ở Mỹ. Đây là cơ sở để cho giới đầu cơ tấn công. Nhờ có dự trữ ngoại tệ hùng hậu lên tới 80 tỷ USD vào thời điểm đó tương đương 700% lượng cung tiền M1 hay 45% lượng cung tiền M3, nên Cơ quan Tiền tệ Hong Kong đã dám chi hơn 1 tỷ USD để bảo vệ đồng tiền của mình. Các thị trường chứng khoán ngày càng trở nên dễ đổ vỡ. Từ ngày 20 tháng 10 đến 23 tháng 10, Chỉ số Hang Seng đã giảm 23%. Ngày 15 tháng 8 năm 1998, Hong Kong nâng lãi suất cho vay qua đêm từ 8% lên thành 23% và ngay lập tức nâng vọt lên 500%. Đồng thời, Cơ quan Tiền tệ Hong Kong bắt đầu mua vào các loại cổ phiếu thành phần của Chỉ số Hang Seng để giảm áp lực giảm giá cổ phiếu. Cơ quan này và ông Donald Tsang, lúc đó là Bộ trưởng Tài chính và sau này làm Trưởng Đặc khu hành chính Hong Kong, đã công khai tuyên chiến với giới đầu cơ. Chính quyền đã mua vào khoảng 120 tỷ Dollar Hong Kong (tương đương 15 tỷ Dollar Mỹ) các loại chứng khoán. Sau này, vào năm 2001, chính quyền đã bán ra số chứng khoáng này và thu lời khoảng 30 tỷ Dollar Hong Kong (khoảng 4 tỷ Dollar Mỹ). Các hoạt động đầu cơ nhằm vào Dollar Hong Kong và thị trường chứng khoán của nước này đã ngừng lại vào tháng 9 năm 1998 chủ yếu do các nhà đầu cơ bị thiệt hại bởi chính sách điều tiết dòng vốn nước ngoài của chính phủ Malaysia và bởi sự sụp đổ của thị trường trái phiếu và tiền tệ ở Nga. Tỷ giá neo giữa Dollar Hong Kong và Dollar Mỹ vẫn được bảo toàn ở mức 7,8 : 1. Hàn Quốc Vào thời điểm khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, Hàn Quốc có một gánh nặng nợ nước ngoài khổng lồ. Các công ty nợ ngân hàng trong nước, còn ngân hàng trong nước lại nợ ngân hàng nước ngoài. Một vài vụ vỡ nợ đã xảy ra. Khi thị trường châu Á bị khủng hoảng, tháng 11 các nhà đầu tư bắt đầu bán ra chứng khoán của Hàn Quốc ở quy mô lớn. Ngày 28 tháng 11 năm 1997, tổ chức đánh giá tín dụng Moody đã hạ thứ hạng của Hàn Quốc từ A1 xuống A3, sau đó vào ngày 11 tháng 12 lại hạ tiếp xuống B2. Điều này góp phần làm cho giá chứng khoán của Hàn Quốc thêm giảm giá. Riêng trong ngày 7 tháng 11, thị trường chứng khoán Seoul tụt 4%. Ngày 24 tháng 11 lại tụt 7,2% do tâm lý lo sợ IMF sẽ đòi Hàn Quốc phải áp dụng các chính sách khắc khổ. Trong khi đó, đồng Won giảm giá xuống còn khoảng 1700 KRW/USD từ mức 1000 KRW/USD. Malaysia Ngay sau khi Thái Lan thả nổi đồng Baht (ngày 2 tháng 7 năm 1997), đồng Ringgit của Malaysia và thị trường chứng khoán Kuala Lumpur lập tức bị sức ép giảm giá mạnh. Ringgit đã giảm từ mức 3,75 Ringgit/Dollar Mỹ xuống còn 4,20 Ringgit/Dollar. Phần lớn sức ép giảm giá đối với Ringgit là từ việc buôn bán đồng tiền này trên thị trường tiền ở nước ngoài. Những người tham gia thị trường tiền duy trì tài khoản bằng đồng Ringgit ở trạng thái bán ra nhiều hơn mua vào với dự tính về sử giảm giá của đồng Ringgit trong tương lai. Kết quả là lãi suất trong nước của Malaysia giảm xuống khuyến khích dòng vốn chảy ra nước ngoài. Lượng vốn chảy ra đạt tới mức 24,6 tỷ Ringgit vào quý hai và quý ba năm 1997. Indonesia Tháng 7, khi Thái Lan thả nổi đồng Baht, cơ quan hữu trách tiền tệ của Indonesia đã nới rộng biên độ dao động của tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar Mỹ từ 8% lên 12%. Tháng 8, đồng Rupiah bị giới đầu cơ tấn công và đến ngày 14 thì chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý được thay thế bằng chế độ thả nổi hoàn toàn. Đồng Rupiah liên tục mất giá. IMF đã thu xếp một gói viện trợ tài chính khẩn cấp cho Indonesia lên tới 23 tỷ Dollar, nhưng Rupiah tiếp tục mất giá do đồng Rupiah bị bán ra ồ ạt và lượng cầu Dollar Mỹ ở Indonesia tăng vọt. Tháng 9, cả giá Rupiah lẫn chỉ số thị trường chứng khoán đều giảm xuống mức thấp lịch sử. Rupiah mất giá làm suy yếu bảng cân đối tài sản của các công ty Indonesia, đặc biệt là làm cho món nợ ngân hàng nước ngoài của các công ty tăng lên. Trước tình hình đó, nhiều công ty đẩy mạnh mua Dollar vào (có nghĩa là bán Rupiah ra) khiến cho nội tệ thêm mất giá và tỷ lệ lạm phát tăng vọt. Lạm phát tăng tốc cùng với chính sách tài chính khắc khổ theo yêu cầu của IMF khiến chính phủ phải bỏ trợ giá lương thực và xăng đã khiến giá hai mặt hàng này tăng lên. Tình trạng bạo động để tranh giành mua hàng đã bùng phát. Riêng ở Jakarta đã có tới 500 người bị chết do bạo động. Khủng hoảng kinh tế và khủng hoảng xã hội đã dẫn tới khủng hoảng chính trị. Giữa năm 1998, Suharto buộc phải từ chức tổng thống. Trước khủng hoảng, tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar vào khoảng 2000 : 1. Nhưng trong thời kỳ khủng hoảng, tỷ giá đã giảm xuống mức 18.000 : 1. Do thay đổi tỷ giá hối đoái và do nhiều nhân tố khác, GDP theo Dollar Mỹ của Indonesia đã giảm đi. TÁC ĐỘNG ĐẾN CÁC NƯỚC KHÁC Châu Á, Châu Âu, Châu Mỹ Khủng hoảng tài chính châu Á là cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ tháng 7 năm 1997 ở Thái Lan rồi ảnh hưởng đến các thị trường chứng khoán, trung tâm tiền tệ lớn, và giá cả của những tài sản khác ở vài nước châu Á, nhiều quốc gia trong đó được coi như là "những con Hổ Đông Á". Cuộc khủng hoảng này còn thường được gọi là Khủng hoảng tiền tệ châu Á. Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan là những nước bị ảnh hưởng mạnh nhất bởi cuộc khủng hoảng này. Hồng Kông, Malaysia, Lào, Philippines cũng bị ảnh hưởng bởi sự sụt giá bất thình lình. Còn Đại lục Trung Hoa, Đài Loan, Singapore và Việt Nam không bị ảnh hưởng. Nhật Bản cũng không bị ảnh hưởng nhiều bởi sự khủng hoảng, song nền kinh tế Nhật phải kinh qua những khó khăn kinh tế dài hạn của chính bản thân mình. Mặc dù được gọi là cơn khủng hoảng "Đông Á" bởi vì nó bắt nguồn từ Đông Á, nhưng ảnh hưởng của nó lại lan truyền toàn cầu và gây nên sự khủng hoảng tài chính trên toàn cầu, với những tác động lớn lan rộng đến cả các nước như Nga, Brasil và Hoa Kỳ. Tác Động Tới Việt Nam Trong ngắn hạn, ảnh hưởng cuộc khủng hoảng đến Việt Nam là không lớn: * Việt Nam chịu tác động gián tiếp hơn tác động trực tiếp, do hệ thống Ngân hàng Việt Nam chưa có nhiều hoạt động giao thương trực tiếp với các trung tâm tài chính và các luồng chuyển dịch tiền thế giới. * Tốc độ tăng trưởng GDP có thể chậm ở mức 5,5 – 6 % * Dòng vốn đầu tư vào chứng khoán sẽ ít đi, tác động tâm lý đến thị trường chứng khoản Việt Nam: Vn-Index giảm xuống mức thấp 242,53 điểm vào ngày 26/2/2009. Nhưng xét về mặt dài hạn, những tác động này có thể trở nên sâu rộng hơn: Nếu cuộc khủng hoảng toàn cầu kéo dài và dữ dội hơn thì sẽ tác động mạnh đến mạnh đến thâm hụt cán cân thương mại của Việt Nam, thể hiện rõ nhất qua chỉ tiêu xuất – nhập khẩu. Xuất khẩu chịu ảnh hưởng do sự suy giảm nền kinh tế toàn cầu và việc giảm giá của các mặt hàng : Sự suy thoái của ba quốc gia nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam: Mỹ, Nhật Bản, và Châu Âu (chiếm khoản 60% kim ngạch xuất khẩu), Sự giảm giá các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam: dầu thô (chiếm tỷ trọng khoảng 18%), sản phẩm nông nghiệp (chiếm tỷ trọng khoảng 13,5%), đồng tiền các nước có xuất khẩu các mặt hàng nông sản và dệt may tương tự Việt Nam mất giá so với USD: Indonesia dự kiến mất giá 17,8% trong nửa năm 2009, Thái Lan (6,1% trong 3 quý đầu năm 2009) sau khi mất giá trong tháng 10 và 11 năm 2008 là 30,5% (Indonesia), 6% (Thái Lan). Trong khi đó, tỷ lệ lạm phát của các nước này trong năm 2009 dự báo vẫn ở mức dưới 2 con số: Indonesia (7,5%) và Thái Lan (2,5%). Theo dự báo, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu dự kiến chậm lại trong năm 2009, đạt mức 10%-13%. Nhu cầu nhập khẩu trong năm 2009 vẫn cao, do yêu cầu về tăng trưởng nhưng tốc độ tăng trưởng nhập khẩu chậm lại khoảng 12% - 16% do tăng trưởng kinh tế giảm và giá các mặt hàng nhập khẩu giảm. Các nguồn vốn FDI, ODA, FII chảy vào Việt Nam năm 2009 sẽ giảm nhiều hơn so với các năm trước CHƯƠNG III : KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ, ĐỀ RA GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC KẾT LUẬN Khủng hoảng tài chính Đông Á làm người ta nhận thức rõ hơn sự cần thiết phải có một hệ thống tài chính - ngân hàng vững mạnh, minh bạch. Điều này thôi thúc Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thanh toán Quốc tế đổi mới các quy chế về ngân hàng và các tổ chức tín dụng nói chung. Chính phủ nhiều nước đang phát triển cho rằng các dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài và vốn vay ngân hàng nước ngoài có thể đem lại những tác động bất lợi với nền kinh tế của họ. Do đó, nhiều chính phủ đã ban hành những quy chế nhằm điều tiết các dòng vốn này. Bên cạnh đó,những thỏa thuận ở cấp khu vực nhằm phát triển một hệ thống phòng ngừa khủng hoảng tái diễn đã được thúc đẩy ở châu Á, ví dụ như Sáng kiến Chiang Mai, Tiến trình Đánh giá và Đối thoại Kinh tế ASEAN+3, Sáng kiến Thị trường Trái phiếu Châu Á, ... Về mặt học thuật, các nhà nghiên cứu kinh tế đã nhận thấy sự hạn chế của các mô hình lý luận về khủng hoảng tiền tệ trước đây trong việc giải thích nguồn gốc và sự lây lan của khủng hoảng tài chính Đông Á. Đã có nhiều nỗ lực nhằm đưa ra một mô hình mới về khủng hoảng tiền tệ, chẳng hạn như mô hình phương pháp tiếp cận bảng cân đối tài sản, lý thuyết bong bóng, lý thuyết về nguồn gốc khủng hoảng từ chính sách tài chính và chính sách tiền tệ. Quốc từ A1 xuống B2 càng khiến tâm lý mọi người trở nên hỗn loạn. Đồng Won giảm từ 1000 W còn khoảng 1700 W/USD. - Cuốn sách The Economics of Money Trên góc độ kinh tế, Frederic Mishkin, tác giả cuốn sách The Economics of Money, Banking and Financial Markets, nói rằng: Tiến trình xảy ra cuộc khủng hoảng Châu Á khác với những gì đã xảy ở nước Mỹ, sự khác biệt này đến từ những đặc trưng khác nhau của cách thức tổ chức thị trường vốn và thị trường nợ. Một trong những yếu tố căn bản dẫ đến cuộc khủng hoảng là tình trạng xấu đi nhanh chóng của bảng cân đối kế toán ngân hàng mà nguyên nhân trực tiếp là từ những khoản vay không có khả năng thanh toán ngày càng tăng. Khi những quốc gia, đặc biệt ở khu vực Đông Á, bắt đầu nới lỏng các quy định với thị trường tài chính vào đầu những năm 1990, một làn sóng vay dâng lên rất cao, trong đó, hoạt động cho vay tín dụng với các khu vực kinh doanh phi tài chính tư nhân tăng đặc biệt nhanh. Do khả năng giám sát yếu của các cơ quản điều hành pháp lý ngân hàng, bản thân ngân hàng thiếu chuyên gia trong việc theo dõi và giám sát hành vi của đối tương vay, tác động tiêu cực đến cả nguồn vốn thực của ngân hàng. Nguồn lực bị bào mòn, ngân hàng không còn đủ khả năng cho vay, các hoạt động của nền kinh tế bị thu hẹp. ĐNÁ ĐỐI PHÓ VỚI CUỘC KHỦNG HOẢNG Trong cuộc họp lần này, ngoài bộ trưởng tài chính 10 nước ASEAN còn có các bộ trưởng tài chính, quan chức đến từ Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Đoàn đại biểu Việt Nam do Bộ trưởng Tài chính Vũ Văn Ninh dẫn đầu. Từ trước khi cuộc họp này diễn ra, vấn đề được bàn thảo là mở rộng quỹ trao đổi tiền tệ dựa trên Sáng kiến Chiang Mai từ 80 tỉ USD lên 120 tỉ USD. Sáng kiến Chiang Mai, một thỏa thuận trao đổi song phương, được 10 nước ASEAN cùng Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc đưa ra hồi năm 2000 tại Chiang Mai, Thái Lan, ngay sau khi cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1997 quét qua các nước châu Á. Thỏa thuận này nhằm giúp các nước vay tiền để thanh toán ngắn hạn khi gặp khó khăn do khủng hoảng. Hồi tháng 5.2008, ASEAN+3 đã đồng ý thành lập quỹ trao đổi tiền tệ dựa trên Sáng kiến Chiang Mai với số tiền 80 tỉ USD nhưng sau đó đề xuất nâng số tiền này. Đây cũng được coi là tâm điểm của cuộc họp hôm qua. Kết thúc phần họp sáng qua, các bộ trưởng tài chính đã đồng ý trên nguyên tắc việc mở rộng quỹ trao đổi tiền tệ từ 80 tỉ USD lên 120 tỉ USD. Trong đó, 80% số tiền trong quỹ sẽ do Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc đóng góp. Phần 20% còn lại (24 tỉ USD) sẽ do các nước thành viên ASEAN đóng góp. Tuy nhiên, việc ký kết chính thức để thành lập quỹ này thì phải đợi đến cuộc họp thường niên các Bộ trưởng Tài chính ASEAN+3 diễn ra vào tháng 5 tại Bali, Indonesia. Hiện chưa rõ mỗi nước sẽ đóng góp cụ thể bao nhiêu. Tất cả vẫn còn trong vòng thảo luận. Về thời gian Sáng kiến Chiang Mai đi vào thực tế thì Bộ trưởng Tài chính Thái Lan Korn Chatikavanij cho hay mỗi nước có một quy trình riêng về việc thông qua các chính sách và sẽ mất các khoảng thời gian khác nhau để hoàn tất. Do đó, mọi việc cần được tiếp tục bàn thảo giữa các nước. Hội nghị lần này cũng thảo luận các vấn đề về khủng hoảng kinh tế toàn cầu và các chính sách phản ứng của các nước. Mở đầu hội nghị, Bộ trưởng Tài chính Thái Lan Korn Chatikavanij phát biểu: “Cuộc họp hôm nay chắc chắn sẽ đưa ra một tín hiệu mạnh mẽ đến toàn thế giới rằng chúng ta sẽ giải quyết các vấn đề và nhìn nhận sự suy giảm của kinh tế toàn cầu một cách nghiêm túc”. Mục tiêu của cuộc họp hôm qua, cũng theo ông Korn, là khuyến khích và củng cố hợp tác kinh tế và tài chính giữa các nước ASEAN+3 đồng thời xây dựng các mối quan hệ quốc tế vững mạnh hơn trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đang khủng hoảng và hệ thống tài chính bất ổn. Cuộc họp hôm qua cũng có sự xuất hiện của Tổng thư ký ASEAN Surin Pitsuwan và Chủ tịch Ngân hàng Phát triển châu Á Haruhiko Kuroda. III. CÁC BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC Để khôi phục nền kinh tế và ngăn ngừa khủng hoảng tái diễn, các nền kinh tế Đông Á bị ảnh hưởng nặng đều tiến hành các cải cách cơ cấu mạnh mẽ, gồm: cải tổ cách thức quản lý trong khu vực doanh nghiệp, cải cách tài chính, đẩy mạnh hội nhập quốc tế, đổi mới phương pháp quản l

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxCuộc khủng hoảng kinh tế tài chính tiền tệ Đông Nam Á Châu Á (Thái lan).docx
Tài liệu liên quan