Tiểu luận Đặc điểm và xu hướng phát triển nền kinh tế thế giới và lợi ích của Nước ta khi gia nhập vào khu vực quốc tế

MỤC LỤC

 

LỜI MỞ ĐẦU 1

Chương 1. NHẬN THỨC VỀ TOÀN CẦU HÓA VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ 3

1.1. Toàn cầu hoá 3

1.2. Nhận thức chung về hội nhập 4

1.3. Xu hướng nền kinh tế thế giới chuyển sang nền kinh tế có cơ sở vật chất kỹ thuật mới:: .6

Chương 2: THỜI CƠ VÀ THÁCH THỨC 10

2.1. Toàn cầu hoá và những động lực 10

2.2. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế - Những lợi ích 10

2.3. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế - Những thách thức 13

Chương3: VIỆT NAM VỚI TOÀN CẦU HÓA VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ 16

3.1. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam 16

3.2. Cần quán triệt những quan điểm và nguyên tắc của Đảng về hội nhập. 17

3.3. Việt Nam với toàn cầu hoá - Cơ hội và thách thức 19

KẾT LUẬN 24

 

 

 

doc25 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5480 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Đặc điểm và xu hướng phát triển nền kinh tế thế giới và lợi ích của Nước ta khi gia nhập vào khu vực quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ập và tham gia WTO. Cần tham khảo và thu hút giới doanh nghiệp tham gia xây dựng chính sách, lộ trình, các biện pháp hội nhập vì chính họ sẽ thực hiện các cam kết và bảo đảm hiệu quả của quá trình hội nhập. Những năm đầu của thế kỷ XXI nền kinh tế thế giới phát triển theo các xu hướng sau đây: 1.3. Xu hướng nền kinh tế thế giới chuyển sang nền kinh tế có cơ sở vật chất kỹ thuật mới: Từ trước đến nay nền kinh tế thế giới vẫn đang hoạt động chủ yếu dựa vào những cơ sở vật chất - kỹ thuật truyền thống. Trước yêu cầu phát triển của giai đoạn mới cơ sở này ngày càng tỏ ra không đáp ứng được. Tại các nước công nghiệp phát triển, kỹ thuật cơ khí hoá đã đạt trình độ cao và phổ biến các nguồn năng lượng dựa trên cơ sở sử dụng nguyên liệu rắn và lỏng, các vật liệu kim khí… đều đã được tận dụng cao độ và nguồn cung cấp chúng ngày càng hạn chế. Các quá trình công nghệ không liên tục ngày càng không đáp ứng các yêu cầu phát triển, không gian lục địa đã tỏ ra không đủ cho một nền kinh tế thế giới trong tương lai… Thế kỷ XXI nền kinh tế trí tuệ đang được hình thành và phát triển. Đó là những người máy công nghiệp sẽ thay thế bằng những người lao động. Các quá trình lao động trí óc cũng được người máy thay thế. Các nguồn năng lượng mặt trời và nhiệt hạch… sẽ phổ biến và thay thế cho những cho các nguồn năng lượng hiện có. Các chất siêu dẫn, siêu cứng, siêu sạch, siêu bền… sẽ thay thế các vật liệu truyền thống. Công nghệ vi sinh, công nghệ gen sẽ phát triển… Các công nghệ liên tục sẽ được sử dụng rộng rãi. Không gian của nền kinh tế thế giới sẽ được mở rộng đến đáy Đại Dương và vũ trụ … Khi đó nền sản xuất thế giới sẽ đảm bảo cung cấp hàng hoá dồi dào với chi phí rất thấp, các khu vực sản xuất vật chất sẽ thu hẹp lại nhỏ bé so với các khu vực kinh tế trí tuệ. Để có thể thực hiện bước quá độ sang một nền kinh tế mới, các nước trên thế giới dù thuộc chế độ chính trị nào cũng phải có những thay đổi về cơ sở vật chất kỹ thuật và kiến trúc thượng tầng, nhưng theo cách riêng của mình. Bất cứ quốc gia nào, muốn đạt được sự phát triển và tiến nhanh trên con đường hiện đại hoá đều phải giải quyết hai vấn đề cơ bản: Một là, tạo ra phát minh mới trên các lĩnh vực công nghệ kỹ thuật cao (vi điện tử, năng lượng, vật liệu, công nghệ) hoặc du nhập chúng và áp dụng nhanh chóng vào sản xuất. Hai là, chuyển nhượng sang nơi khác các kỹ thuật trung gian và truyền thống. Hai vấn đề này có mối liên quan và đòi hỏi có sự phối hợp toàn cầu nếu không chuyển nhượng các kỹ thuật trung gian truyền thống sang các quốc gia kém phát triển hơn thì các tiến bộ kỹ thuật dù có đạt được cũng không có nơi sử dụng hoặc việc áp dụng có nhiều hạn chế. Các quốc gia có nền kinh tế phát triển, trình độ công nghiệp hoá cao coi khoa học công nghệ là cốt lõi của biến đổi nền kinh tế. Các nước này áp dụng nhiều biện pháp để dành được các ưu thế trong sáng tạo kỹ thuật công nghệ như: tăng cường quản lý nhà nước về lĩnh vực nghiên cứu khoa học công nghệ, thực hiện kế hoạch nghiên cứu khoa học công nghệ và tăng cường đầu tư nghiên cứu khoa học, cải cách và chấn hưng giáo dục, bồi dưỡng và thu hút nhân tài, thành lập các thành phố khoa học kỹ thuật cao. Các nước phát triển, đặc biệt là Nhật Bản đã đạt được thành tựu kinh tế nổi bật còn nhờ việc nhập bằng phát minh từ nước ngoài và đưa các bằng phát minh này vào ứng dụng trong sản xuất. Nhật Bản trong 20 năm (1950-1970) đã nhập 11.606 bằng phát minh, vào những năm gần đây khối lượng các bằng phát minh Nhật nhập vào còn nhiều hơn. Việc chuyển nhượng các kỹ thuật trung gian và truyền thống ở các nước phát triển sang các nước kém phát triển hơn. Nhờ đó mà các nước nghèo rút ngắn được chu kỳ đổi mới kỹ thuật và thời gian hoàn vốn cho những kỹ thuật nhập khẩu. Cách thứ hai là áp dụng kết cấu hai tầng trong công nghiệp. Tầng thứ nhất gồm các xí nghiệp lớn, hiện đại. Tầng thứ hai gồm các xí nghiệp nhỏ và vừa kém hiện đại hơn. Các kỹ thuật được xem là cũ luôn luôn được chuyển nhượng từ tầng thứ nhất sang tầng thứ hai. Nhật Bản đã thành công trong việc chuyển nhượng kỹ thuật trung gian và truyền thống theo cả hai cách này. Các nước NIC hiện cũng đang tìm một tầng công nghiệp thứ hai ở các công nghiệp nước kém phát triển hơn. Bước quá độ chuyển sang một nền kinh tế mới ở các nước kém phát triển. Để xây dựng những ngành công nghiệp hiện đại cho nền kinh tế của mình đa số các quốc gia đi theo hai hướng: Một là, du nhập các kỹ thuật trung gian và truyền thống của các nước phát triển trên cơ sở đó nhanh chóng bắt nhịp với trình độ hiện đại của nền sản xuất thế giới. Nam Triều Tiên là nước đi theo con đường này. Hai là, nhập các bằng phát minh sáng chế, nghiên cứu, ứng dụng chúng vào sản xuất để tạo dựng cho mình một tầng công nghiệp hiện đại. Tầng công nghiệp truyền thống được coi là tiền đề để áp dụng hướng thứ hai. Hướng thứ nhất càng mở rộng, càng mạnh thì khả năng nghiên cứu ứng dụng và phát minh sáng chế càng lớn. Các nước đang phát triển hiện đứng trước một thách thức mới. Đó là lợi thế của các quốc gia này về nguồn nguyên liệu, nhưng tỷ trọng giao dịch nông sản phẩm khoáng sản trên thị trường thế giới ngày càng giảm do cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ đang phổ biến. Vì vậy, các nước đang phát triển phải áp dụng chính sách kinh tế mới, thực hiện chính sách mở cửa với bên ngoài, tham gia cạnh tranh quốc tế, sử dụng những thành tựu mới của khoa học kỹ thuật và dịch vụ quốc tế. Những thay đổi về cơ cấu kinh tế thế giới dẫn tới những thay đổi về thị trường: thị trường của hàng hoá có hàm lượng kỹ thuật cao và thị trường dịch vụ sẽ ngày càng mở rộng, còn thị trường hàng hoá truyền thống sẽ ngày càng thu hẹp và cạnh tranh để tiêu thụ ngày càng gay gắt. Hiện nay, khu vực dịch vụ ở các nước phát triển chiếm khoảng 50 – 60% dân số lao động và 60 – 65% tổng số sản phẩm quốc dân, khu vực công nghiệp chỉ còn chiếm khoảng 40% lao động, 30 -35% tổng sản phẩm quốc dân. Dự báo thế kỷ XXI khu vực dịch vụ ở các nước này có thể tăng 70 – 80% dân số lao động và khu vực công nghịêp sẽ giảm đi tương ứng, mà trong đó tỷ trọng của những ngành công nghiệp sản xuất ra hàng hoá có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao tăng lên và tỷ trọng của những ngành có hàm lượng khoa học kỹ thuật trung gian sẽ giảm đi. Tóm lại, ngày nay thế giới đang có sự biến động sâu sắc về nhiều mặt. Về phương diện kinh tế, các quan hệ kinh tế quốc dân đan quyện vào nhau và chi phối nền kinh tế của tất cả các nước. Bối cảnh quốc tế mới vừa tạo ra thời cơ mới tương đối thuận lợi, đồng thời cũng đặt ra những thách thức mới đối với nền kinh tế của các quốc gia. Thời cơ mới là một nhân tố hết sức quan trọng, như một luồng gió mới sẽ có tác động rất lớn đối với sự phát triển kinh tế của các quốc gia. Sự diễn biến phức tạp của tình hình thế giới đòi hỏi từng quốc gia phải có tư duy mới, biết tận dụng tối đa các nguồn lực sẵn có, phát huy thế mạnh của mình để hội nhập với nền kinh tế thế giới. Đối với nước ta, việc hoà nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực là việc làm hết sức cần thiết. Nếu không quan tâm đến điều này, nền kinh tế Việt Nam không thể phát triển như hiện nay. Trong thế kỷ XXI, hy vọng nền kinh tế Việt Nam sẽ phát triển mạnh mẽ và sẽ trở thành nước công nghiệp phát triển trong những năm tới. Chương 2: THỜI CƠ VÀ THÁCH THỨC 2.1. Toàn cầu hoá và những động lực Theo thuật ngữ kinh tế, động lực của quá trình toàn cầu hoá có thể được biểu hiện thông qua 3 xu hướng chủ đạo sau đây: - Xu hướng thứ nhất, và là xu hướng có tác động sâu sắc nhất là sự thay đổi về khoa học - công nghệ. Khoa học và công nghệ có vai trò quyết định lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển của các quốc gia. - Xu hướng thứ hai là việc ngày càng có nhiều Chính phủ theo đuổi chính sách tự do hoá, mở cửa thị trường và loại bỏ những cản trở về mặt luật lệ đối với các hoạt động kinh tế. - Xu hướng thứ ba là sự kết hợp của những công nghệ mới và những thị trường tự do hơn, tạo điều kiện cho các khu vực kinh doanh ở nhiều nước có thể quốc tế hoá các hoạt động của mình, dệt nên một mạng lưới phức tạp hơn bao giờ hết các hoạt động liên kết với nhau trên bình diện toàn cầu. Cả 3 xu hướng này: tiến bộ công nghệ, tự do hoá kinh tế, quốc tế hoá sản xuất - đã làm cho các quốc gia trở nên phụ thuộc lẫn nhau hơn về mặt kinh tế, tạo ra những cơ hội cũng như những thách thức về kinh tế, xã hội, chính trị chưa từng có. 2.2. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế - Những lợi ích Toàn cầu hoá là xu hướng tất yếu của quá trình tập trung, chuyên môn hoá sản xuất và phân công lao động quốc tế. Khi nền kinh tế thế giới phát triển thành một thị trường thống nhất thì không một quốc gia nào có thể đứng ngoài tiến trình này mà có thể tồn tại và phát triển được. Toàn cầu hoá và khu vực hoá đã trở thành một trong những xu thế chủ yếu của quan hệ quốc tế hiện đại và sẽ tiếp tục phát triển mạnh trong thế kỷ tới. Toàn cầu hoá và khu vực hoá được thể hiện rõ trong sự gia tăng rất nhanh trao đổi quốc tế về hàng hoá, dịch vụ, tài chính và các yếu tố sản xuất. Toàn cầu hoá và khu vực hoá còn được thể hiện qua sự hình thành và củng cố của các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực. Toàn cầu hoá và khu vực hoá được quyết định bởi nhiều yếu tố liên quan tới công nghệ, thị trường và chính sách, nổi lên là: sự cạnh tranh gia tăng trong kinh tế thế giới thúc đẩy tìm kiếm những thị trường có lợi nhất cho hàng xuất khẩu và nguồn nhập khẩu rẻ nhất; những yếu tố thúc đẩy các công ty xuyên quốc gia phân bố lại dây chuyền sản xuất, tiêu thụ, hình thành nên các mạng lưới toàn cầu và khu vực. Sự phát triển trong công nghệ thông tin, thị trường tài chính, dịch vụ và giao thông vận tải… Toàn cầu hoá và khu vực hoá có tác dụng hỗ trợ, bổ sung cho nhau và cùng nhằm mục tiêu thúc đẩy trao đổi hàng hoá, dịch vụ, vốn và lao động. Liên kết khu vực vừa củng cố quá trình toàn cầu hoá vừa giúp các nước trong từng khu vực bảo vệ lợi ích của mình. Mặt khác, toàn cầu hoá, khu vực hoá cũng làm cho sự cạnh tranh giữa các thực thể kinh tế trở nên gay gắt chưa từng có. Toàn cầu hoá đã và đang mang lại những cơ hội to lớn cho nền kinh tế thế giới và cho mỗi quốc gia tham gia vào quá trình hội nhập: - Hội nhập quốc tế tạo điều kiện để phát huy lợi thế so sánh, thúc đẩy việc tham gia vào phân công lao động quốc tế, tranh thủ được lợi ích của việc phân bổ nguồn tài lực hợp lý trên bình diện quốc tế từ đó phát huy cao độ nhân tố sản xuất hữu dụng của từng quốc gia. - Tự do hoá luân chuyển hàng hoá, dịch vụ và vốn với việc hạ thấp hàng rào thuế quan, đơn giản hoá trong khâu thủ tục, cắt giảm kiểm soát hành chính sẽ góp phần giảm chi phí sản xuất, đầu tư, tăng sản lượng, giảm thất nghiệp và tăng thêm lợi ích cho người tiêu dùng. - Toàn cầu hoá tạo ra nhiều cơ hội đầu tư mới, tăng nhanh vòng quay vốn và tạo điều kiện để đa dạng hoá các loại hình đầu tư nhờ đó vừa nâng cao hiệu quả vừa hạn chế rủi ro đầu tư. - Toàn cầu hoá thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ, chuyển giao vốn, kỹ năng quản lý, qua đó mở rộng địa bàn đầu tư cho các nước phát triển, đồng thời giúp các nước tiếp nhận đầu tư có thêm nhiều cơ hội phát triển. - Tự do hóa giá cả nông sản sẽ có lợi cho các quốc gia sản xuất nông nghiệp. Bảo hộ giá nông sản của các quốc gia phát triển giảm xuống sẽ mở rộng hơn nữa thị trường nông sản của Việt Nam. - Chi phí kinh doanh sẽ giảm vì hiện tại lĩnh vực dịch vụ là khu vực được Nhà nước bảo hộ nhiều nhất. Hậu quả là năng lực cạnh tranh và chất lượng dịch vụ kém và giá cao. Khi gia nhập vào WTO, độc quyền của những ngành này sẽ phải bãi bỏ, buộc các doanh nghiệp này phải cải cách, cắt giảm chi phí, nâng cao chất lượng và hạ giá dịch vụ, hiệu quả cho toàn nền kinh tế sẽ lớn hơn. - Với hiệp định những biện pháp đầu tư có liên quan đến thương mại (TRIMS) đã tạo thêm sự đảm bảo quốc tế, khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. - Đời sống nhân dân được cải thiện. 2.3. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế - Những thách thức Như vậy, lợi ích của Việt Nam khi gia nhập WTO khá rõ: “Việt Nam không thể tự bảo vệ mình trước sự bảo hộ của các nước khác khi nằm ngoài WTO”. Tuy nhiên gia nhập WTO không chỉ mang lại lợi ích kinh tế cho mình mà doanh nghiệp phải đối mặt với những thách thức: - Khi gia nhập WTO, Việt Nam phải trao qui chế tối huệ quốc, qui chế đối xử quốc gia cho các quốc gia thành viên khác của WTO, nghĩa là tiến hành giảm thuế quan và ràng buộc tất cả các dòng thuế, đồng thời phải dỡ bỏ các hàng rào phi thuế trong một thời gian nhất định. Mức độ cam kết giảm thuế phụ thuộc nhiều vào kết quả đàm phán đa phương và song phương đối với các mặt hàng cụ thể. Vì vậy cạnh tranh sẽ khốc liệt hơn ở thị trường nội địa. - Toàn bộ thể chế kinh tế phải chuyển đổi nhằm thích ứng với sự phát triển nhanh chóng của quan hệ thương mại đầu tư, chuyển giao công nghệ, nếu không sẽ gặp khó khăn trước những đối thủ cạnh tranh hùng mạnh, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ không được bảo vệ khi xảy ra tranh chấp thương mại. - Thách thức thứ hai là những vấn đề nảy sinh từ việc thúc đẩy nhanh chóng tiến trình cải cách khu vực kinh tế nhà nước, chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Trong quá trình đàm phán để gia nhập WTO, vai trò của khu vực kinh tế nhà nước tiếp tục suy giảm, trong khi việc thực hiện và các biện pháp thực hiện mục tiêu đó lại mang tính xã hội và ảnh hưởng tới nhiều tầng lớp xã hội có liên quan. Mặt khác, cải cách sẽ khiến cho tốc độ tăng trưởng trong công nghiệp quốc doanh chậm lại trong một thời gian, một phần do đầu tư vào khu vực này giảm, phần nữa là các xí nghiệp yếu kém sẽ thu hẹp sản xuất, đóng cửa hoặc chuyển sang lĩnh vực kinh doanh mới. Nguy cơ  phá sản đối với các loại hình doanh nghiệp tăng lên. Công nghệ và trình độ dân trí có chuyển biến lớn, nhưng khoảng cách tụt hậu còn xa so với phần lớn các nước trên thế giới. - Những thách thức trong lĩnh vực nông nghiệp thậm chí còn lớn hơn, do trên 75% dân số vẫn sống dựa vào nông nghiệp, trong khi đó diện tích canh tác bình quân trên một lao động thấp, phương thức canh tác lạc hậu nên giá thành nông sản nhìn chung sẽ cao hơn mặt bằng giá thế giới. Khi những rào cản thương mại được bãi bỏ hoặc giảm thiểu, nông sản nhập khẩu từ các nước phát triển với giá thấp sẽ gây sức ép lớn cho kinh tế nông thôn, nhiều đơn vị kinh doanh nông nghiệp có thể sẽ bị phá sản. Số người này sẽ di chuyển về thành phố, làm trầm trọng thêm tình trạng thất nghiệp. - Hiện tại, cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là hàng gia công, chúng ta sẽ không được hưởng lợi khi gia nhập WTO, khi quy định qui tắc xuất xứ để hưởng ưu đãi là trị giá nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng hóa tại nước được hưởng phải thấp hơn 65%. Có thể nói khi gia nhập vào WTO, Việt Nam nhận được nhiều lợi ích nhưng cũng đối mặt với nhiều thách đố . Nhưng về tổng thể những lợi ích dài hạn cho quốc gia - Sự bất ổn định của thị trường tài chính quốc tế. Thực vậy, có sự khác biệt cơ bản giữa tư bản công nghiệp và tư bản tài chính, hay nói cách khác là khác biệt giữa đầu tư trực tiếp và đầu tư tài chính. Các nhà đầu tư trực tiếp đã bỏ tiền đầu tư xây dựng nhà xưởng thì không dễ gì một sớm một chiều có thể rút lại vốn đầu tư. Trong khi đó, các nhà đầu tư tài chính có lợi thế linh hoạt hơn nhờ tính chuyển nhượng cao của chứng khoán. Mặt khác nguồn tài chính được phân bố không đồng đều, tập trung vào một số trung tâm tài chính lớn là các nước công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới. Quá trình hội nhập và toàn cầu hoá càng làm cho dòng vốn chảy mạnh hơn, dễ dàng hơn và tất nhiên rủi ro sẽ lớn hơn. - Nguy cơ tụt hậu của một số quốc gia. Một số quốc gia tranh thủ được lợi ích của hội nhập mậu dịch quốc tế và thị trường tài chính quốc tế, phát huy được lợi thế so sánh, nhờ đó thúc đẩy tăng trưởng, mở rộng thương mại, thu hẹp dần khoảng cách với các nước phát triển, thì một số nước khác lại không có khả năng hội nhập vào quá trình phát triển thương mại, thu hút vốn đầu tư và kết cục tất yếu là sẽ bị đẩy lùi xa hơn nữa về phía sau. - Chính sách tiền tệ - tài chính của các nước yếu bị phụ thuộc vào chính sách của các nước mạnh. - Mối đe doạ của quá trình toàn cầu hoá đó chính là xu hướng hình thành thế độc quyền, tập trung quyền lực vào một số tập đoàn đầu sỏ quốc tế. Xu hướng sát nhập đang diễn ra mạnh mẽ chưa từng có trong lịch sử phát triển kinh tế thế giới cận đại. Vậy thế thì đâu là điểm dừng của xu thế sát nhập này? Bởi lẽ nếu xu thế sát nhập tiếp tục gia tăng chắc chắn sẽ có tác động xấu đến "thị trường cạnh tranh hoàn hảo - nhân tố đã góp phần thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế trong suốt hàng thế kỷ qua. - Quá trình toàn cầu hoá phát triển, khi tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế, các nước nhất là đang phát triển phải giảm dần thuế và bỏ hàng rào phi quan thuế, nghĩa là bỏ hàng rào mậu dịch, thì các hàng hoá nước ngoài sẽ ồ ạt đổ vào, bóp chết hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. - Quá trình toàn cầu hoá phát triển làm tan vỡ các hàng rào bảo hộ của các quốc gia. Do vậy các quốc gia không chỉ chịu tác động tích cực của quá trình này mà còn phải chịu cả những chấn động của hệ thống kinh tế toàn cầu trong các lĩnh vực tiền tệ, tài chính, nguyên nhiên liệu… Các nước càng yếu kém, các chính sách kinh tế vĩ mô càng không đủ thông thoáng phù hợp với các định chế quốc tế, tệ tham nhũng và quan liêu càng nặng, hệ thống ngân hàng - tài chính càng lạc hậu… thì càng chịu tác động nặng nề hơn. - Quá trình toàn cầu hoá phát triển, không chỉ có các lực lượng kinh tế tiến bộ tham gia vào quá trình này mà còn có cả các thế lực phản động, bọn mapha, các tổ chức khủng bố… Mạng lưới hoạt động của maphia hiện đang lan khắp toàn cầu, các đường dây buôn lậu ma tuý đã len lỏi đến cả các trường học. Các thế lực phản động cũng không bỏ lỡ thời cơ xâm nhập vào nước ta phá hoại chính sách đúng đắn là phải ngăn chặn, chống lại mọi hoạt động phá hoại. Nhưng không thể vì nó mà đóng cửa đất nước hay hạn chế sự hội nhập của đất nước vào quá trình toàn cầu hoá. - Quá trình toàn cầu hoá phát triển còn nảy sinh những mặt tiêu cực khác nữa như: sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các nước giàu và nghèo có thể tăng lên, sự xung đột giữa các nền văn hoá khác nhau có thể xảy ra, các nước lớn có thể bị phân rã… Song những tác động tiêu cực này có thể lớn nhỏ đến đâu, điều đó lại tuỳ thuộc vào chính sách hội nhập quốc tế của các quốc gia. Một chính sách hội nhập quốc tế đúng đắn và thích hợp, thì tác hại của những mặt tiêu cực này sẽ bị hạn chế và ngược lại. Chương 3. VIỆT NAM VỚI TOÀN CẦU HÓA VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ 3.1. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam Chúng ta đi vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá trùng với thời điểm trên thế giới đang diễn ra những thay đổi to lớn về chính trị và kinh tế. Hoà bình, hợp tác để phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi bức xúc của các dân tộc và quốc gia trên thế giới. Các nước đều ưu tiên phát triển kinh tế, cần có môi trường hoà bình, ổn định và thực hiện chính sách mở cửa. Trong một thế giới ngày càng được toàn cầu hoá, bất cứ nước nào muốn không bị gạt ra ngoài dòng chảy phát triển, đều phải nỗ lực hội nhập vào xu thế chung, điều chỉnh chính sách, giảm dần hàng rào quan thuế và dỡ bỏ hàng rào phi quan thuế, làm cho việc trao đổi hàng hoá, luân chuyển vốn, lao động, công nghệ và kỹ thuật trên phạm vi thế giới ngày càng thông thoáng hơn. Việt Nam không phải là ngoại lệ, vấn đề là phải chọn tiến trình hội nhập sao cho phù hợp với hoàn cảnh và quá trình phát triển của mình. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986) đã khởi xướng công cuộc đổi mới mà một trong những hướng quan trọng là mở rộng quan hệ và hợp tác quốc tế. Đại hội VII (1992), Đại hội VIII (1996) đã tiếp tục phát triển đường lối đổi mới của Đại hội VI, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ theo tinh thần: Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1996, trang 130) nhằm đẩy mạnh quan hệ đối ngoại, phá thế bị bao vây cấm vận, tham gia tích cực vào đời sống của cộng đồng quốc tế. Chủ trương này đã tạo điều kiện thúc đẩy tiến trình hội nhập quốc tế của ta. Chúng ta cũng nhận thức rõ hội nhập quốc tế thực chất là cuộc đấu tranh phức tạp để góp phần phát triển kinh tế và củng cố an ninh chính trị, độc lập kinh tế và bản sắc dân tộc của mỗi nước thông qua việc thiết lập các mối quan hệ tuỳ thuộc lẫn nhau, đan xen, nhiều chiều, ở nhiều tầng nấc với các quốc gia khác. Chính sách hội nhập quốc tế từng bước được hình thành trong quá trình triển khai đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. Tiếp đó, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đã quyết định:"Nhiệm vụ đối ngoại trong thời gian tới là củng cố môi trường hoà bình và tạo điều kiện quốc tế thuận lợi hơn nữa để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước", xây dựng một nền kinh tế mở và đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Chúng ta đã nỗ lực thúc đẩy hợp tác với tất cả các nước và thể chế chính trị khác nhau. Chúng ta đã phá được thế bao vây cô lập về chính trị, cấm vận về kinh tế, thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 160 nước trong đó có tất cả các nước lớn, phát triển quan hệ thương mại với 130 nước và lãnh thổ. Đồng thời, chúng ta đã khai thông được quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế như IMF, WB và các tổ chức phát triển khác trong hệ thống liên hợp quốc. Chúng ta đã cố gắng cải cách quản lý kinh tế, bao gồm cả lĩnh vực pháp lý và xây dựng cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với luật pháp và tập quán quốc tế. 3.2. Cần quán triệt những quan điểm và nguyên tắc của Đảng về hội nhập. Hội nhập quốc tế giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là yêu cầu chính trị cao nhất đối với tiến trình hội nhập quốc tế của ta. Hội nhập phải tuân thủ các nguyên tắc chung là bảo vệ độc lập, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng, cùng có lợi, bảo vệ và phát triển sản xuất, giữ vững an ninh quốc gia, giữ gìn và phát huy truyền thống và bản sắc của dân tộc. Vậy hiểu như thế nào về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa? · Đổi mới ở Việt Nam không làm thay đổi tính chất và mục tiêu của CNXH mà là quá trình tự hoàn thiẹen CNXH nhằm không ngừng thúc đẩy quá trình phát triển và lớn mạnh của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. · Bản chất của chủ nghĩa xã hội: Cụ thể là, về cơ cấu của chế độ sở hữu, chủ trương phát triển đồng thời nhiều thành phần kinh tế, trong đó coi chế độ công hữu là chủ thể hay kinh tế công hữu là cơ sở để từ đó phát huy tác dụng chỉ đạo của nền kinh tế quốc hữu; về quan hệ phân phối đều duy trì chế độ phân phối theo lao động, những hình thức phân phối khác chỉ là bổ trợ, phấn đấu đạt mục tiêu cùng giàu có, loại trừ tình trạng phân hoá giàu nghèo trong xã hội; về phương diện chính trị đều kiên trì sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, không chấp nhận chế độ đa Đảng và tự do hoá chính trị. · Chủ trương lợi dụng một cách hợp lý cơ chế thị trường. Trong thể chế kinh tế mới, cơ chế thị trường trở thành phương thức cốt yếu trong phân phối nguồn tài nguyên và điều hoà các mối quan hệ kinh tế. Tuy vậy, cơ chế thị trường mà ta đang xây dựng không hoàn toàn là tự phát, nó coi trọng vai trò quản lý của Nhà nước và vai trò điều tiết vĩ mô của Chính phủ, tích cực ngăn chặn và khắc phục những khiếm khuyết cũng như các tác động tiêu cực của kinh tế thị trường. · Coi trọng nền văn minh tinh thần và những chuẩn mực đạo đức xã hội chủ nghĩa nhằm loại trừ mọi biểu hiện tiêu cực trong xã hội. - Hội nhập quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh, cốt lõi là giành thị trường, vốn, công nghệ và kỹ thuật; phải tuân thủ các nguyên tắc, luật lệ và tập quán quốc tế, trên cơ sở "bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi". - Hội nhập quốc tế là nhằm mục tiêu phát triển, phục vụ đổi mới thành công, thực hiện thắng lợi công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đảm bảo hiệu quả kinh tế xã hội và tăng trưởng bền vững của nền kinh tế quốc dân, hạn chế tối đa tiêu cực của những chao đảo, biến động từ bên ngoài. - Hội nhập phù hợp với chủ trương "phát triển kinh tế đối ngoại theo hướng xây dựng hệ thống kinh tế mở" hình thành thị trường đồng bộ, thông suốt trong cả nước, gắn với kinh tế với thị trường thế giới, thể hiện cả trong sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý… góp phần khơi dậy và phát huy có hiệu quả các nguồn lực trong nước… 3.3. Việt Nam với toàn cầu hoá - Cơ hội và thách thức 3.3.1. Về kinh tế Quá trình toàn cầu hoá đã tạo ra những cơ hội để tăng cường sự phát triển của quốc gia. - Cơ hội để chuyên môn hoá sâu hơn qúa trình sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng ta có ưu thế cạnh tranh; nhập những sản phẩm trung gian và tiêu dùng với giá rẻ hơn. - Sự cạnh tranh tăng lên: những cải tiến công nghệ, tri thức được tăng lên cường qua nhập khẩu hoặc thực tế công việc, hạn chế tham nhũng và ăn chênh lệch giá. - Thương mại còn thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, tạo thêm những cơ hội buôn bán mới do có nhiều sự tương đồng về văn hoá, luật pháp, quan hệ dân tộc và các hệ thống phân phối. - Tăng thu hút đầu tư và chuyển giao kỹ thuật, côn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTieu luan.doc