MỤC LỤC:
A. ĐẶT VẤN ĐỀ: 1
B.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: 1
I.Khái quát chung về chế định người bào chữa: 1
1.Tại sao phải đặt ra chế định người bào chữa: 1
2.Khái niệm người bào chữa: 1
3.Phân loại người bào chữa: 3
4.Địa vị pháp lý của người bào chữa: 4
II.Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa: 6
1.Quyền của người bào chữa: 6
2. Nghĩa vụ của người bào chữa: 8
4. Mối quan hệ giữa người bào chữa với bị can, bị cáo: 10
III.Thực trạng hoạt động của người bào chữa ở nước ta hiện nay: 12
IV.Một số kiến nghị: 13
C. KẾT LUẬN: 14
16 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2431 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Địa vị pháp lý của người bào chữa trong luật tố tụng hình sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ề dân sự cho người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.
Như đã trình bày, người bào chữa không có quyền và lợi ích trong vụ án hình sự. Việc họ tham gia tố tụng bất luận trong trường hợp nào cũng chỉ để nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội. Cơ sở cho sự hiện diện của họ trong tố tụng hình sự xuất phát từ hợp đồng bào chữa giữa họ với người bị buộc tội (hoặc với người đại diện hợp pháp của người bị buộc tội) và phải được sự chấp thuận của cơ quan tiến hành tố tụng. Trong trường hợp đặc biệt do Bộ luật tố tụng hình sự quy định, nếu người bị buộc tội hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì các cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu Đoàn Luật sư cử người bào chữa cho họ và dĩ nhiên ngay trong trường hợp này sự tham gia của người bào chữa cũng phải được sự đồng ý của người bị buộc tội.
Từ những phân tích trên, có thể nói về khái niệm người bào chữa trong tố tụng hình sự như sau: “Người bào chữa trong tố tụng hình sự là người tham gia tố tụng để chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội, giúp người bị buộc tội về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, thông qua đó góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa”.
3.Phân loại người bào chữa:
Điều 56, BLTTHS quy định về người bào chữa, bao gồm:
“a) Luật sư;
b) Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;
c) Bào chữa viên nhân dân”.
Luật sư là người hoạt động bào chữa chuyên ngành hiệp hoạt động trong đoàn luật sư.
Người đại diện của bị can, bị cáo có thể tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa để bào vệ quyền và lợi ích của bị can bị cáo. Đây là trường hợp người đại diện cho bị can, bị cáo là người chưa thành niên hoặc có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần. Nếu bị can, bị cáo là người đủ 18 tuổi và không có nhược điểm gì về thể chất, tâm thần khi tham gia tố tụng hình sự với tư cách bị can, bị cáo thì không có người đại diện hợp pháp. Như vậy, chế định người đại diện cho bị can, bị cáo chỉ được áp dụng đối với người phạm tội là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về mặt tâm thần. Ví dụ: một hành vi phạm tội của bị can, bị cáo được thực hiện ở độ tuổi từ 14 đến dười 18 tuổi khi bại khởi tố bị can, cơ quan tiến hành tố tụng phải yêu cầu đoàn luật sư cử người bào chưa cho họ nếu như bị can hoặc gia đình bị can không mời người bào chữa, hoặc cơ quan tiến hành tố tụng phải yêu cầu gia đình cử người đại diện hợp pháp tham gia trong suốt các giai đoạn tố tụng. Nếu thiếu người đại diện hợp pháp khi tham gia tố tụng hoặc có người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo mà không có chữ ký của họ trong biên bản hỏi cung của bị can thì biên bản đó không có giá trị.
Viện kiểm sát có quyền kiểm sát việc tuân theo Pháp luật của cơ quan điều tra trong hoạt động tố tụng của họ. Tại khoản 3, Điều132, BLTTHS quy định: “Khi hỏi cung có mặt người bào chữa, người đại diện hợp pháp của bị can thì Điều tra viên phải giải thích cho những người này biết quyền và nghĩa vụ của họ trong khi hỏi cung bị can. Bị can, người bào chữa, người đại diện hợp pháp cùng ký vào biên bản hỏi cung”.
Bào chữa viên nhân dân: hiện nay được coi là người được tổ chức, đoàn thể xã hội cử ra để bào chữa cho bị can, bị cáo. Hoạt động của bào chữa viên nhân dân không mang tính chuyên nghiệp mà mang tính nghiệp dư.
Thực tế pháp luật quy định ba đối tượng trên đều là người bào chữa, nhưng trên thực tế, thông thường, luật sư là người xuất hiện nhiều nhất. Bởi xét cho cùng, trong ba đối tượng trên, luật sư là người có trình độ va hiểu biết pháp luật tốt hơn cả. Họ là người không liên quan đến bị can, bị cáo cũng như tòa án, vì vậy, họ có thể làm tốt công việc của mình, vừa có thể giúp bị can, bị cáo gỡ tội, vừa đảm bảo đúng pháp luật.
4.Địa vị pháp lý của người bào chữa:
Nói đến người bào chữa trong tố tụng hình sự không thể không nói đến địa vị pháp lý của họ. Về vấn đề này cũng có nhiều quan điểm khác nhau.
Có quan điểm cho rằng người bào chữa là người giúp đỡ tòa án trong việc xác định những tình tiết cần thiết về vụ án để cuối cùng tòa án ra một bản án có căn cứ và đúng pháp luật.
Lại có quan điểm cho rằng người bào chữa trong tố tụng hình sự vừa là người đại diện cho bị can, vừa là người tham gia tố tụng độc lập. Cơ sở của nhận định này xuất phát từ việc họ cho rằng người bào chữa không chỉ là người đại diện cho tố tụng của bị can mà còn là người tham gia tố tụng độc lập, có thể đưa ra các quan điểm trong một số trường hợp mà không phụ thuộc vào ý chí của bị can.
Quan điểm khác lại cho rằng người bào chữa tham gia vào tố tụng hình sự với vị thế độc lập. Theo tôi, quan điểm này thuyết phục hơn cả.
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo bằng những phương pháp, cách thức hợp pháp là một trong những nguyên tắc của tố tụng hình sự. Người bào chữa thể hiện vị trí tố tụng độc lập của mình cũng có nghĩa là người bào chữa không có quyền tuân theo những yêu cầu không hợp pháp, không có căn cứ của bị can, bị cáo.
Vị trí độc lập của người bào chữa trong tố tụng hình sự được xác định rõ bằng những quy phạm tố tụng hình sự trong đó chứa đựng những quyền và nghĩa vụ mà người bào chữa có như một chủ thể của tố tụng hình sự độc lập. Tại khỏa 3, điều 36, BLTTHS quy định người bào chữa có nghĩa vụ sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sảng tỏ những tình tiết xác định bị can, bị cáo vô tội, hay những tình tiết làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của họ; giúp bị can bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Muốn thực hiện được các công việc trên, phải xác định được thời điểm bắt đầu cũng như thời điểm chấm dứt việc tham gia tố tụng của người bào chữa.
Xác định thời điểm bắt đầu hoạt động của người bào chữa trong tố tụng hình sự không chỉ đơn thuần là việc giải quyết theo tinh thần của cá quy phạm pháp luật tố tụng hình sự. trên thực tế, để xác định thời điểm đó cũng có nhiều ý kiến khác nhau.
Có người cho rằng hoạt động điều tra trước khi mở phiêm tòa là điều tra sơ bộ, là căn cứ để tiến hành các giai đoạn tố tụng tiếp theo. Điều tra tại phiên tòa là điều tra công khai nhất, khách quan nhất. Vì thế bản án chủ yếu chỉ dựa trên những chứng cứ được xem xét tại phiên tòa. ..cho nên việc quy định thời điểm bắt đầu hoạt động của người bào chữa là từ giai đoạn khởi tố bị can là không thực sư cần thiết. Người bào chữa chỉ cần tham gia tố tụng từ khi có quyết định truy tố trước tòa án.
Xét về nguyên tắc khi nào quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo bị vi phạm thì họ được quyền thực hiện bào chữa cho dù chỉ có Tòa án mới có quyền quyết định ai là người có tội và quyết định hình phạt dối với họ, nhưng ở giai đoạn tố tụng trước đó mà lợi ích của họ bị xâm phạm, định truy tố trước tòa án.
Xét về nguyên tắc khi nào quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo bị vi phạm thì họ được quyền thực hiện bào chữa cho dù chỉ có Tòa án mới có quyền quyết định ai là người có tội và quyết định hình phạt dối với họ, nhưng ở giai đoạn tố tụng trước đó mà lợi ích của họ bị xâm phạm, thì thời điểm bắt đầu việc tham gia tố tụng hinh sự của người bào chữa được tính kể từ thời điểm khởi tố bị can.
Thời điểm khi nào được xem là chấm dứt sự tham gia tố tụng của người bào chữa cũng có nhiều ý kiến khác nhau.
Có ý kiến cho rằng khi người bào chữa dự xong phiên tòa xét xử sơ thẩm thì họ chấm dứt việc bào chữa. Còn khi họ tham gia tố tụng cũng trong vụ án đó nhưng ở các giai đoạn tiếp theo được coi là thủ tục tham gia hoàn toàn mới.
Ý kiến khác lại cho rằng khi người bào chữa tham gia tố tụng một vụ án từ gia đoạn điều tra thì họ vẫn có trách nhiệm tham gia vụ án đó ở những cấp xét xử tiếp, như phúc thâm, giám đốc thẩm. Tuy nhiên, điều này còn phụ thuộc vào tòa án nhân dân từng cấp.
Trong các quy định cụ thể ở luật tố tụng hình sự Việt Nam chỉ quy định thời điểm bắt đầu tham gia tố tụng của người bào chữa chứ không có trường hợp nào quy định thời điểm chấm dứt sự tham gia của người bào chữa trong các vụ án. Vì thế có thể hiểu người bào chữa có trách nhiệm tham gia tố tụng một vụ án cho đến lúc bản án của vụ án đó có hiệu lực pháp luật, không còn kháng cáo, kháng nghị hay xét sử theo trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm….Khi Tòa án ở cấp phúc thâm, giám đốc thẩm chuẩn bị xét xử thì đương nhiên tòa án phải triệu tập người bào chữa đã tham gia tố tụng tai phiên tòa sơ thẩm hoặc phúc thẩm trước đó.
II.Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa:
1.Quyền của người bào chữa:
Khoản 2, Điều 58, BLTTHS quy định về quyền của người bào chữa gồm có:
a) Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;
b) Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can;
c) Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này;
d) Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác;
đ) Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
e) Gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam;
g) Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật;
h) Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên toà;
i) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
k) Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 của Bộ luật này.
Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can: Đây là một quyền mới của người bào chữa được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự nhằm ngăn ngừa những hành vi vi phạm pháp luật trong công tác điều tra. Nếu cần giữ bí mật điều tra đối với tội phạm đặc biệt nguy hiểm xâm phạm tới an ninh quốc gia thì Việ trưởng viện kiểm sát nhân dân quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ jhi kết thúc điều tra.
Người bào chữa có quyền có mặt khi trực tiếp hỏi cung bị can để trực tiếp nghe bị can khai báo. Trong quá trình hỏi cung bị can, nếu người bào chữa phát hiện những tình tiết cần thiết đối với việc minh oan hoặc giảm nhẹ tội cho bị can thì có thể đề nghị điểu tra viên lưu ý tình tiết đó. Khi hỏi cung bị can, nếu điều tra viên đồng ý, người bào chữa có thể hỏi bị can. Quy định này giúp cho điều tra viên tiếp nhận một số tình tiết nào đó cần thiết làm sang tỏ để đánh giá khách quan đối với các tình tiết vụ án. Người bào chữa cũng có quyền có mặt trong các hoạt động điều tra khác như khám nghiệm hiện trường, khám chỗ ở. Người bào chữa có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch khi thấy sự tham gia của những người này không khách quan và có ảnh hưởng tới việc xử lý vụ án. Người bào chữa cũng có quyền đưa ra những chứng cứ và những yêu cầu. Khi bào chữa cho các bị can, bị cáo, người bào chữa có thể phát hiện những chứng cứ mới mà cơ quan điều tra, Viện kiểm sat hoặc tòa án chưa đề cập đến. trong trường hợp đưa ra các tình tiết mới này có lợi cho bị can, bị cáo, người bào chữa có quyền yêu cầu cơ quan tiến hành xem xét. Người bào chữa cũng có thể đưa ra yêu cầu triệu tập người làm chứng nếu những người làm chứng đó có lợi cho bị can, bị cáo. Người bào chữa có quyền gặp bị can, bị cáo trong giai đoạn bị can, bị cáo bị tạm giam. Khi gặp người bào chữa, bị can, bị cáo nhận thức đúng đắn việc bảo vệ bị can bị cáo là bảo vệ lợi ích của chính mình. Trên cơ sở pháp luật và tôn trọng sự thật khách quan của vụ án, giải thích những vấn đề pháp luật mà họ chưa hiểu cũng như chưa biết cách trình bày trước cơ quan tiến hành tố tụng nhằm minh oan hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Người bào chữa phân tích cho bị can, bị cáo thấy cần khai báo thật thà để người bào chữa có căn cứ rõ rang, vững chắc cho họ.
Người bào chữa được đọc hồ sơ vụ án và ghi chép những vấn đề cần thiết sau khi kết thúc điều tra. Quyền này giúp cho người bào chữa nắm vững nội dung và các tình tiết vụ án. Qua hồ sơ, nếu thấy vấn đề còn thiếu sót thì người bào chữa có quyền kiến nghị yêu cầu kiểm tra bổ sung. Người bào chữa có quyền khiếu nại các quyết định của cơ quan tiến hành tó tụng, nếu quyết định của cơ quan này không có căn cứ. Cơ quan tiến hành tó tụng có trách nhiệm xem xét khiếu nại của người bào chữa, nếu khiếu nại có căn cứ thì quyết định phải được sủa đổi.
Người bào chữa có quyền tham gia xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa. Trong quá trình xét hỏi, người bào chữa được quyền hỏi bị cáo, người làm chứng. Khi Kiểm sát viên đọc bản cáo trạng, người bào chữa chú ý xem cáo trạng đọc tại phiên tòa có giống với cáo trạng mà bị cáo nhận được không. Qua đó, người bào chữa đề nghị hội đồng xét xử lưu ý những lời khai có lợi cho bị cáo mà hồ sơ chưa phản ánh hoặc phản ánh chưa đầy đủ. Khi tranh luận, đặc biệt là khi luận tội, người bào chữa lắng nghe, xem xét ý kiến liên quan tới việc phạm tội của bị cáo và trên cơ sở đó phát biểu ý kiến bào chữa cho bị cáo.
Người bào chữa có quyền tham gia kháng cáo bản án và quyết định của tòa án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về thể chất tinh thần .
2. Nghĩa vụ của người bào chữa:
Khoản 3, điều 56, BTTTHS quy định: Người bào chữa có nghĩa vụ:
“a) Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.
Tùy theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án, thì người bào chữa có trách nhiệm giao cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Việc giao nhận các tài liệu, đồ vật đó giữa người bào chữa và cơ quan tiến hành tố tụng phải được lập biên bản theo quy định tại Điều 95 của Bộ luật này;
b) Giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ;
c) Không được từ chối bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà mình đã đảm nhận bào chữa, nếu không có lý do chính đáng;
d) Tôn trọng sự thật và pháp luật; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật;
đ) Có mặt theo giấy triệu tập của Toà án;
e) Không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện việc bào chữa; không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân”.
3. Các trường hợp buộc phải có người bào chữa:
Điều 190, BLTTHS quy định về sự có mặt của người bào chữa trong môt phiên tòa: “Người bào chữa có nghĩa vụ tham gia phiên tòa. Người bào chữa có thể gửi trước bản bào chữa cho Tòa án. Nếu người bào chữa vắng mặt Tòa án vẫn mở phiên tòa xét xử.
Trong trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa theo quy định tại khoản 2, điều 57 của Bộ luật này mà người bào chữa vắng mặt, thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa”.
Như vậy là, không phải lúc nào, người bào chữa cũng buộc phải có mặt tại phiên tòa. Họ hoàn toàn có thể vắng mặt sau khi gửi bản bào chữa cho Tòa án. Tuy nhiên, có những trường hợp buộc phải có mặt người bào chữa thì phiên tòa mới có thể tiếp tục. Đó là nhừng trường hợp quy định tại điều 57, BLTTHS, bao gồm:
a) Bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình được quy định tại Bộ luật hình sự;
b) Bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
Trong những trường hợp trên, bị can, bị cáo và người đại diện hợp pháp của họ vẫn có quyền yêu cầu thay dổi hoặc từ chối người bào chữa.
Trong thực tế, việc thực hiện các quy dịnh trên vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Đó chỉ là những suy nghĩ một chiều, thiển cận vì khi quyết định sỗ phận, tính mạng của một con người bao giờ cũng là việc khó nhất, do vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng phải cân nhắc cận trọng. Sự tham gia của người bào chữa là giúp cho cơ qua tiến hành tố tụng, nhất là tòa án nhìn nhận về phương diện buộc tội và gỡ tội sao cho bản án được đưa ra chính xác, khách quan.
- Bị can, bị cáo là người chưa thành niên: Đây là là lứa tuổi được phát triển cả về tâm lý và thể chất nhưng chưa hoàn thiện. Những người này hiểu biết xã hội, pháp luật còn hạn chế, tâm lý dễ bị kích động, lôi kéo nghe theo sự xúi dụ của người khác. ..Và khi hành động họ chư ý thức được hậu quả của hành vi mà mình đã gây ra. Ở góc độ pháp luật thì đây được xem là người chưa có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ.
Từ những lý do trên, nhận thấy cần phải có người đại diện hợp pháp tham gia tố tụng để giúp họ bảo vệ quyền lợi. Người đại diện hợp pháp cho họ có thể nhờ người bào chữa hoặc tự mình bào chữa.
- Bị can bị cáo là người bị khỏi tố về tội có mức phạt cao nhất là tử hình: như chúng ta đã biết, tính mạng là tài sản quý giá nhất của một con người. Không gì có thể đánh đổi lấy một tính mạng Nhà nước ta lại là nhà nước xã hội chủ nghĩa, do nhân dân lao động làm chủ. Vì vậy, việc bảo vệ con người là một trong những nhiệm vụ cần thiết của pháp luật Việt Nam. Chỉ khi nào phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, xâm hại nghiêm trọng đến lợi ích chung của xã hội, của con người, thì mới phải chịu chế tài là hình phạt tử hình. Tuy nhiên, ở phiên tòa, luôn phải có người bào chữa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị can, bị cáo, để phần nào giảm bớt tội trạng cho họ.
4. Mối quan hệ giữa người bào chữa với bị can, bị cáo:
Nghiên cứu mối quan hệ giữa bị can, bị cáo nhằm mục đích xác định rõ được phân giới, chức năng của người bào chữa, vừa bào vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo; đồng thời góp phần vào việc giúp cơ quan tiến hành tố tụng xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, tránh được việc chỉ thiên về một tội của cơ quan tiến hành tố tụng.
Những người bào chữa thường là người có trình độ về mặt pháp luật, am hiểu chuyên môn. Khi họ đưa ra những lời bào chữa thì bị can bị cáo thường đồng ý nhưng cũng có những trường hợp không đồng ý với người bào chứa bởi những lý do sau:
Người bào chữa khi tham gia tố tụng họ phải thực hiện cùng một lúc hai nhiệm vụ: thứ nhất là họ phải bảo vệ quyền và lợi ích của bị can, bị cáo. Thứ hai là người bào chữa phải tôn trọng sự thật, bảo vệ pháp luật. Nếu chỉ quan tâm đến việc bảo vệ bị can, bị cáo mà quên đi sự thật khách quan và pháp luật thì người bào chữa sa vào những việc như ngụy biện, gian dối, xuyên tạc sự thật dẫn đến vi phạm pháp luật. Ngược lại, nếu chỉ quan tâm đến khía cạnh ôn trọng sự thật và pháp luật thì người bào chữa có thể sẽ trở thành người buộc tội bị can, bị cáo, đi ngược lại với chưac năng của người bào chữa – điều mà bị can bị cáo không bao giờ muốn. Bởi vì từ những suy nghĩ của họ là nhờ người bào chữa bảo vệ quyền lợi cho mình, hi vọng rằng họ sẽ làm giảm tội của mình hoặc chứng minh rằng mình đúng trước pháp luật.
Người bào chữa muốn giải quyết hài hòa các mối quan hệ giữa họ với bị can, bị cáo; giữa họ với sự khách quan của pháp luật. Đây là vấn đề rất phức tạp trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự. Cụ thể là các vấn để sau:
a.Trường hợp bị can, bị cáo không phạm tội nhưng lại nhận tội:
Trong thực tiễn, có những bị can, bị cáo, vì một lý do nào đó, không phải họ phạm tội nhưng vì để nhận tội thay cho người khác, trốn tội nặng hơn, hay có thể là do bị can, bị cáo tưởng mình là người phạm tội vì rơi vào đúng hoàn cảnh, điều kiện như thật. Hoặc cũng có thể vì sự liên quan trong quá trình tố tụng trái pháp luật của những cơ quan tiến hành tố tụng như dụ dỗ, hứa hẹn, ép cung, bức cung, dùng nhục hình để ép họ nhận tội và họ bị điều tra, truy tố, xét xử về tội đó.
Trong trường hợp này, người bào chữa không nhất thiết phải thống nhất ý kiến với bị can, bị cáo mà người lại, họ có thể tìm ra những chứng cứ, tình tiết bác bỏ lời nhân tội của bị can, bị cáo để chứng minh bị can, bị cáo vô tội. Điều này hoàn toàn phù hợp với những quy định của pháp luật là vừa bảo vệ quyề và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo vừa tôn trọng pháp luật và sự thật khách quan.
Trường hợp bị can, bị cáo nhận tội và có đủ chứng cứ để chứng minh là họ phạm tội.
Trong thực tế hiện nay, đối với trường hợp bị can, bị cáo mà hành vi phạm tội đó đã rõ ràng thì có nhiều ý kiến cho rằng việc tham gia tố tụng của người bào chữa chỉ là thủ tục mà thôi. Đây là một quan điểm sai lầm. Bởi vì kết luận của cơ quan điều tra và bản án của Viện kiểm sát chỉ là căn cứ để tòa án đưa vụ án ra xét xử chứ chưa có tính chất dứt điểm xác định là bị cáo có tội, bởi vì không một ai có thể bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Với chức năng của mình, dù bị can, bị cáo có phạm tội nghiêm trọng đi chăng nữa, người bào chữa có thể tìm ra những tình tiết để tòa án xem xé và cân nhắc trước khi đưa ra phán xét cuối cùng. Người bò chữa không có quyền từ chối bào chữa khi thấy hành vi phạm tội đó của bị can, bị cáo đó rõ ràng nhưng cũng không có quyền chấp nhận những yêu cầu trái sự thật và pháp luật của bị can, bị cáo.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra mối quan hệ giữa bị cáo và người bào chữa như sau:
Người bào chữa tham gia tố tụng một cách độc lập để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo trong khuôn khổ pháp luật cho phép.
Khi tham gia tố tụng hình sự, người bào chữa có những quyền và những ngĩa vụ phải thưc hiện được quy định tại bộ luật TTHS.
Đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên, bị nhược điểm về thể chất, tinh thần thì người bào chữa hoàn toàn độc lập và không phụ thuộc vào ý kiến của bị can, bị cáo, miễn sao lời bào chữa có lợi cho họ và không trái pháp luật.
Người bào chữa tham gia tố tụng có tính chất đại diện để bảo vệ bị can, bị cáo; cùng với các bị can, bị cáo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Khi bảo vệ quyền lợi cho nhiều bị can, bị cáo trong một vụ án, người bào chữa không đưa ra những chứng cứ làm giảm tội cho bị can, bị cáo này nhưng lại tăng trách nhiệm hình sự cho bị can, bị cáo khác.
III.Thực trạng hoạt động của người bào chữa ở nước ta hiện nay:
Mặc dù pháp luật quy định về việc bảo đảm quyền dược bào chữa của bị can, bị cáo, tuy nhiên, không phải bị can, bị cáo nào cũng chấp nhận có người bào chữa cho mình. Đó là vì những lý do sau:
- Thứ nhất, nhân dân ta chưa có thói quen nhờ người bào chữa và chưa thấy rõ được vai trò của người bào chữa trong các vụ án hình sự.
- Thứ hai, nhiều người biết nhưng lại không có tiền hoặc sợ tốn kém nên không mời người bào chữa.
- Thứ ba, trình độ hiểu biết pháp luật của một số bị can, bị cáo hiện nay là quá thấp nên mặc dù được cơ quan tiến hành tố tụng giải thích nhưng họ vẫn không hiểu. Ngược lại, có trường hợp bị can, bị cáo không được cơ quan tiến hành tố tụng giải thích một cách rõ ràng.
- Thứ tư, bị can, bị cáo không tin tưởng vào người bào chữa, sợ những người bào chữa cho mình chịu chi phối bởi những hoàn cảnh khác, mà tìm ra những chứng cứ không có lợi cho bị can, bị cáo.
Nói tóm lại, do một số nguyên nhân mà trước đây, bị can, bị cáo thường tự bào chữa cho mình, mà không tìm sự giúp đỡ từ người bào chữa. Tuy nhiên, trong mấy năm trở lại đây, cùng với sự phát triển của xã hội, nhận thức của người dân được nâng cao, vì vậy, họ đã bắt đầu tìm đến sự trợ giúp từ những người có đủ hiểu biết về mặt pháp luật, thay vì tự mình như trước đây. Theo đó, những vụ án oan, án sai giảm một cách đáng kể.
Về phía người bào chữa. Pháp luật quy định có ba nhóm người bào chữa, tuy nhiên, trên thực tế chỉ có luật sư là người đảm nhiệm công việc này. Một trong những lý do đó là trình độ pháp luật của người đại diện cho bị cáo và bào chữa viên nhân dân còn nhiều hạn chế. Họ không phải là người được đào tạo bài bản về mặt pháp luật. Thường thì họ chỉ tham gia trong trường hợp bắt buộc phải tham gia, do Tòa án cử trong trườn hợp những bị can, bị cáo buộc phải có người bào chữa, mà họ không mời hoặc không có khả năng mời người bào chữa. Chính vì vậy, hiệu quả của những vụ án như thế chưa đặt được hiệu quả như mong muốn.
Một lỗ hổng về mặt pháp luật, đó là về người đại diện cho bị can, bị cáo. Rõ ràng, pháp luật có quy định người bào chữa không phải là người thân thích của bị can, bị cáo, nhưng lại quy định đó có thể là người đại diện cho bị can, bị cáo. Liệu hai điều này có mâu thuẫn với nhau?
Về bào chữa viên nhân dân: Hiện không có một quy định cụ thể nào quy định về trình độ, thẩm quyền cũng như chức năng của bào chữa viên nhân dân. Chức danh Bào chữa viên nhân dân ở nước ta ra đời trên cơ sở Sắc lệnh số 69/SL ngày 18/6/1949. Sau đó, Nghị định số 01 – NĐ – VY ngày 12/1/1950 của Bộ Tư pháp đã quy định rõ tiêu chuẩn Bào chữa viên nhân dân. Trong suốt thời gian dài ( từ 1949 – 1987) Bào chữa viên nhân dân đã đóng một vai trò rấ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bamp224i t7853p l7899n h7885c k7923 t7889 t7909ng.doc