Tư tưởng bao dung Hồ Chí Minh xuất phát từ quan điểm: “Sông to, biển rộng, thì
bao nhiêu nước cũng chứa được, vì độ lượng nó rộng và sâu. Cái ché nhỏ, cái đĩa
cạn, thì một chút nước cũng đầy tràn: vì độ lượng nó hẹp nhỏ”. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã phân biệt bọn thực dân cướp nước ta với nhân dân lương thiện ở các nước
đó. Người cũng phân biệt bọn hiếu chiến Mỹ với nhân dân Mỹ yêu tự do và hoà
bình. Người không hề đánh đồng bọn xâm lược Mỹ với nhân dân Mỹ. Và chính
Người đã coi bạn bè năm chân tận tình ủng hộ cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ
của nhân dân ta, trong đó có cả nhân dân yêu chuộng hoà bình Mỹ. Vì sự nghiệp
giải phóng dân tộc, vì tiến bộ xã hội, Hồ Chí Minh đưa ra chủ trương có lý, có tình
đối với kiều dân nước ngoài ở Việt Nam, nhằm bảo vệ tính mạng, tài sản của họ.
Người đánh giá cao vấn đề này và ghép tộ i "vô cớ sát hại kiều dân ngoạiquốc" vào
tử hình.Với lòng nhân ái bao la, phát huy truyền thống "thương người như thể
thương thân", "đánh kẻ chạy đi không đánh kẻ chạy lại", Hồ Chí Minh có chính
sách khoan hồng đại lượng, đối xử nhân đạo với tù binh.
14 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7291 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Giá trị nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
những người nô lệ mất nước, những người lao động cùng khổ đến giải
phóng con người”. Đó chính là mục tiêu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng
định trong Lời ra mắt của báo “Người cùng khổ” (Le Paria) tại nước Pháp năm
1921.
Đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, từ khi về nước lãnh đạo nhân
dânđấu tranh giành chính quyền cách mạng, Hồ Chí Minh lại dùng đến khái niệm
"đồngbào", "quốc dân"... Khi miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Người dùng
thêm nhiềukhái niệm như "công nhân", "nông dân", "trí thức", "lao động chân tay",
"lao động tríóc", "người chủ xã hội"...
I.2) Thương yêu con người, thương yêu nhân dân
Người từng nói: "Nghĩ cho cùng, mọi vấn đề... là vấn đề ở đời và làm người ở đời
và làm người phải là thương nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ bị áp
bức". (Hồ Chí Minh: Nhà nước và pháp luật Việt Nam, Nxb Pháp lý, H.1990,
tr174).
Tình yêu thương con người ở Hồ Chí Minh xuất phát từ tình yêu thương của những
người đồng cảnh ngộ, mất nước, bị nô lệ, cùng chung số phận bị áp bức bóc lột, đi
tìm lối thoát cho dân tộc. không chung chung, trừu tượng kiểu tôn giáo, mà luôn
luôn được nhận thức và giải quyết trên lập trường của giai cấp vô sản, dành cho
các dân tộc và con người bị áp bức, đau khổ. Khi bôn ba nơi hải ngoại, chứng kiến
cảnh bị áp bức bóc lột của công nhân, của nhân dân lao động các nước tư bản chủ
nghĩa, chứng kiến cảnh bị áp bức của nhân dân các thuộc địa khác, tình yêu thương
con người ở Người mở rộng sang yêu thương những người cùng cảnh ngộ, những
người lao động nghèo đói, những người thuộc các dân tộc Việt Nam. Xuất phát từ
tình yêu thương ấy mà Người đã đi tìm con đường giải phóng cho dân tộc, giải
phóng khỏi mọi áp bức, bất công. Mục tiêu của Hồ Chí Minh đã từng nói rõ trong
lời ra mắt của báo Người cùng khổ (Le Paria) năm 1921: "đi từ giải phóng những
người nô lệ mất nước, những người lao động cùng khổ đến giải phóng con người".
Hồ Chí Minh thương yêu con người với một tình cảm sâu sắc, vừa bao la rộng lớn,
vừa gần gũi thân thương đối với từng số phận con người. Hồ Chí Minh luôn sống
giữa cuộc đời và không có cái gì thuộc về con người đối với Hồ Chí Minh lại là xa
lạ. Người quan tâm đến tư tưởng, công tác, đời sống của từng người, việc ăn, việc
mặc, ở, học hành, giải trí của mỗi người dân, không quên, không sót một ai, từ
những người bạn thuở hàn vi, đến những người quen mới. Tình thương yêu con
người ở Hồ Chí Minh luôn gắn liền với hành động cụ thể, phấn đấu vì độc lập của
Tổ quốc, tự do hạnh phúc cho con người.Với mục tiêu được xác định, Người trở về
nước thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi ách áp bức của thực
dân Pháp và bè lũ tay sai. Với đường lối đúng đắn mà Người đề ra, tập hợp, đoàn
kết toàn dân tộc vào một Mặt trận thống nhất và tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của
quốc tế, nhân dân ta đã đánh đuổi đế quốc thực dân, giải phóng dân tộc, nước ta
hoàn toàn độc lập, thống nhất và xây dựng cuộc sống mới. Luôn thương yêu con
người, nên Hồ Chí Minh luôn khát khao hòa bình, một nền hòa bình thật sự, trong
độc lập, tự do. Trước cách mạng, trong kháng chiến, Hồ Chí Minh luôn có thái độ
nghiêm túc, thận trọng đối với vấn đề khởi nghĩa, tranh thủ khả năng phát triển hòa
bình để hạn chế sự đổ máu cho nhân dân ta và nhân dân các nước. Lãnh đạo Cách
mạng Tháng Tám năm 1945, Người chủ trương chủ yếu sử dụng bạo lực chính trị.
Đó là cuộc cách mạng ít đổ máu nhất. Sau Cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh
đã cố gắng làm tất cả những gì có thể làm được để tránh cuộc chiến tranh Việt -
Pháp. Nhưng khi bọn thực dân hiếu chiến quyết gây ra chiến tranh để buộc dân ta
sống kiếp đời nô lệ, mất nước thì Hồ Chí Minh kêu gọi cả dân tộc đứng lên chiến
đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì nền hòa bình và phẩm giá của nhân loại tiến
bộ. Hồ Chí Minh coi sinh mạng con người là quý giá nhất. Theo Người, "không có
một trận đánh đẫm máu nào là "đẹp" cả, mặc dù thắng lớn. Người quý trọng
sứcdân, của dân; trọng người tài, đức, trân trọng "người tốt, việc tốt" dù rất
nhỏ".Người trân trọng từng ý kiến của dân, lắng nghe dân, học hỏi dân, bàn bạc
với dân, tự phê bình trước dân, trả lời ý kiến của dân, tôn trọng và chấp hành
nghiêm minh pháp luậtNgay sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công,
Người đề ra những nhiệm vụ cấp bách là diệt giặc đói và diệt giặc dốt cùng với
việc chống giặc ngoại xâm. Trước mắt phải xóa đói nghèo, làm cho kinh tế phát
triển "làm cho người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu và người khá giàu
thì giàu thêm" (Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H.1995, t5, tr65). Kinh tế có
phát triển, đời sống đồng bào có ấm no thì đất nước mới cường thịnh. Người từng
nói: Tôi thấy các cháu bụng ỏng, mắt choẹt, tôi hết sức đau lòng". Người yêu cầu
những người lãnh đạo chính quyền phải chăm lo đến đời sống nhân dân, phải chăm
lo từ việc "tương cà, mắm muối của dân", không được áp bức quần chúng nhân
dân.
Người chăm lo đến việc nâng cao dân trí, chống giặc dốt, xóa nạn mù chữ, phát
triển giáo dục. Người từng nói "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu". Người yêu
cầu đảng cầm quyền phải chăm lo đến nâng cao trình độ học vấn cho nhân dân,
chăm lo phát triển mọi mặt của dân tộc ta. Người thường nói chế độ thực dân đã
dùng mọi thủ đoạn ngu dân để đầu độc dân tộc ta, để hủ hóa nhân dân ta bằng
những thói xấu như lười biếng, gian xảo, tham ô. Cho nên phải làm sao để dân tộc
Việt Nam trở thành một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc
xứng đáng với nước Việt Nam độc lập, "sánh vai với các cường quốc năm châu".
Tình yêu thương con người ở Hồ Chí Minh không chỉ giới hạn ở nhân dân Việt
Nam mà ở tình bác ái bao la. Người từng vạch rõ: "Trừ bọn Việt gian bán nước, trừ
bọn phát xít thực dân, là những ác quỷ mà ta phải kiên quyết đánh đổ, đối với tất cả
những người khác thì ta phải yêu quý, kính trọng, giúp đỡ... Phải thực hành chữ
Bác-Ái" (Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H.1995, t5, tr644). Người còn nói
"Lòng yêu thương của tôi đối với nhân dân và nhân loại không bao giờ thay đổi"
và trước lúc đi xa, Người viết "Đầu tiên là vấn đề con người" và "Cuối cùng tôi để
lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các
cháu thanh niên và nhi đồng. Tôi cũng gửi lời chào thân ái đến các đồng chí, các
bầu bạn và các cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế".
Chăm lo, bồi dưỡng, phát huy sức mạnh của con người, tin tưởng vững chắc vào
khả năng và phẩm giá tốt đẹp của con người. Cách mạng Tháng Tám thành công,
tại cuộc họp đầu tiên của ủy ban nghiên cứu kế hoạch, kiến quốc, Hồ Chí Minh nêu
rõ mục tiêu của Nhà nước là: "Làm cho dân có ăn. Làm cho dân có mặc. Làm cho
dân có chỗ ở. Làm cho dân có học hành". Người còn nói: "Chúng ta đã hy sinh
phấn đấu để giành độc lập. Chúng ta đã tranh được rồi... Chúng ta tranh được tự
do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì .
Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ".
I.3)Tin vào sức mạnh, phẩm giá và tính sáng tạo của con người
Hồ Chí Minh kế thừa tư tưởng kiệt xuất của các anh hùng, hào kiệt của dân tộc như
Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi... về sức mạnh của nhân dân "Khoan thư sức dân để
làm kế bền gốc, sâu rễ", "đẩy thuyền cũng là dân mà lật thuyền cũng là dân".
Người còn kế thừa tư tưởng nhân văn "lấy dân làm gốc" và chủ nghĩa nhân đạo
hiện thực của học thuyết Mác để hình thành tư tưởng nhân văn mới, tin tưởng
mãnh liệt vào sức mạnh, tính chủ động, sáng tạo của quần chúng nhân dân và lòng
tôn trọng, kính trọng nhân dân lao động. Người nói "Trong bầu trời không có gì
quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của
nhân dân".
Trong điều kiện bị đế quốc thực dân thống trị, kẻ thù đàn áp dã man, cùng với
chính sách ngu dân của chúng, người dân các nước thuộc địa tưởng chừng không
thể gượng dậy nổi, song Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn tin tưởng ở nhân dân mình, dân
tộc mình "...đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương đang dấu một cái
gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm khi thời cơ đến..."
và sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: chủ nghĩa xã hội chỉ cần
phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi. Trong quá
trình đấu tranh, Người đã làm cho nhân dân thế giới nhận thức rõ vấn đề thuộc địa,
đoàn kết giúp đỡ phong trào giải phóng dân tộc là giúp đỡ cho chính mình. Năm
1921, Hồ Chí Minh đã có những quan điểm khác hẳn với nhiều suy nghĩ lúc bấy
giờ. Người viết: "Bị đầu độc cả về tinh thần lẫn thể xác, bị bịt mồm và bị giam
hãm, người ta có thể tưởng rằng cái bẫy người ấy cứ mãi mãi bị dùng làm đồ để tế
cái ông thần tư bản, rằng bầy người đó không sống nữa, không suy nghĩ nữa và là
vô dụng trong việc cải tạo xã hội. Không: người Đông Dương không chết, người
Đông Dương vẫn sống, sống mãi mãi... Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người
Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách
ghê gớm, khi thời cơ đến" Dân ta có tài năng, trí tuệ và sáng tạo, họ biết "giải
quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài
giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra". Đặc biệt là lòng sốt sắng, hăng hái
của dân để thực hiện con đường cách mạng. Hồ Chí Minh có niềm tin vững chắc
rằng với tinh thần quật cường và lực lượng vô tận của dân tộc ta, với lòng yêu
nước và chí kiên quyết của nhân dân và quân đội ta, chẳng những chúng ta có thể
thắng lợi, mà chúng ta nhất định thắng lợi.
Điểm nhấn trong tư tưởng nhân văn của Hồ Chí Minh không những là tình
thương, sự đồng cảm với những con người cùng cảnh ngộ. Thực chất, đó không
phải là lòng thương hại, mà chính là lòng tin vững chắc vào khả năng và phẩm giá
tốt đẹp của con người. Tư tưởng “Dĩ dân vi bản” (Lấy dân làm gốc) với Người vẫn
muôn đời không đổi. Lòng tin của Người vào sức mạnh và tính sáng tạo của quần
chúng nhân dân đã khẳng định điều đó. Sống trong lòng nhân dân, gắn bó máu thịt
với nhân dân nên suy nghĩ thường trực trong Người là “đem tài dân, sức dân, của
dân để làm lợi cho dân”.
Trên cơ sở của tình thương để đặt niềm tin vào con người, đây là nền tảng thiết
yếu của một hệ thống tư tưởng lớn hơn. Từ Thương (đồng cảm) đến Tin rồi mới
Trọng. Đây là một quá trình hoàn toàn biện chứng, Hồ Chí Minh đã vận dụng vô
cùng tinh tế truyền thống của cha ông trong một triết lý: “Có trọng người, kính
người thì người mới trọng ta”. Ngày nay, nội dung trên càng có ý nghĩa lớn lao, nó
đã thúc đẩy và tạo được mối dung hoà, gắn kết bền chặt ở cả lý luận và thực tiễn.
Người nhận thấy rõ vai trò của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách
mạng, "người là gốc của làng nước", "nước lấy dân làm gốc", "gốc có vững cây
mới bền", "xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân". Người còn nói rằng: "Dân như
nước, mình như cá", "lực lượng nhiều là ở dân hết". "Công việc đổi mới là trách
nhiệm ở dân". Do đó, Người yêu cầu "Đem tài dân, sức dân, của dân, làm lợi cho
dân". Niềm tin vào sức mạnh của dân còn được nhận thức từ mối quan hệ giữa
nhân dân với Đảng và Chính phủ. Hồ Chí Minh chỉ rõ: nếu không có nhân dân thì
Chính phủ không đủ lực lượng; nếu không có Chính phủ thì nhân dân không có ai
dẫn đường. Đảng lãnh đạo để dân làm chủ. Lực lượng bao nhiêu là nhờ ở dân hết.
Nhận thức như vậy để hiểu rằng tin dân, học dân, tôn trọng dân, dựa vào dân theo
đúng đường lối quần chúng sẽ tạo nên sức mạnh vô địch. Bởi vì sự nghiệp cách
mạng giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ có thể thực hiện
được với sự giác ngộ đầy đủ và lao động sáng tạo của hàng chục triệu quần chúng
nhân dân.
Tình thương bao la của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ đối với các anh hùng, liệt
sĩ, cán bộ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong, đối với cha mẹ, vợ con của
thương binh, liệt sĩ, mà ngay cả đối với các nạn nhân chiến tranh, đối với những
người lầm đường lạc lối, những người thiếu tu dưỡng…Người cũng tìm cách phát
huy những ưu điểm và hạn chế những nhược điểm của họ. Người căn dặn phải
giúp họ trở thành những người lao động lương thiện
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng xây dựng "con người mới" vì đây là động
lực quyết định hướng đi lên của xã hội Việt Nam tương lai. Người đòi hỏi phải có
chiến lược trồng Người. Con người mới vừa là nhân vừa là quả của quá trình đấu
tranh xây dựng xã hội mới. Theo Người, con người mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam
phải có tinh thần làm chủ xã hội "đã là người chủ thì phải biết tự mình lo toan gánh
vác, không ỷ lại, không ngồi chờ". Con người mới phải có tri thức văn hóa và khoa
học, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Con người mới phải có phẩm chất đạo đức
cách mạng "cần, kiệm, liêm, chính', "Chí công, vô tư". Phải nghiêm khắc chống
chủ nghĩa cá nhân. Nhưng chống chủ nghĩa cá nhân không có nghĩa là phủ định lợi
ích chính đáng của cá nhân. Người nói: "Mỗi người đều có tính cách riêng, sở
trường riêng, đời sống riêng của bản thân và gia đình. Nếu lợi ích cá nhân đó
không trái với lợi ích tập thể thì không phải là xấu".Theo Người, con người mới
Việt Nam là con người phải mang đậm truyền thống dân tộc, đồng thời giàu chất
quốc tế xã hội chủ nghĩa.
Một điểm rất nổi bật là tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh có tính vượt thời đại. Đó
là sự tuyệt đối tin tưởng vào thắng lợi ngày mai, lo cho tương lai của đất nước.
Trong chiến tranh ác liệt, vận mệnh đất nước lâm nguy, nhưng với nhãn quan duy
vật biện chứng, Chủ tịch Hồ Chí Minh thấy được thắng lợi tất yếu của cách mạng
Việt Nam. Thật hiếm thấy ở một vị lãnh đạo quốc gia nào mà sự quan tâm đến con
người, đến nhân dân lại được đặt lên tầm lớn lao, sâu sắc nhưng hết sức cụ thể,
thiết thực như ở Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tính nhân văn cao cả trong tư tưởng Hồ
Chí Minh là đặt hạnh phúc nhân dân lên trên hết. ở Hồ Chí Minh, nhân dân không
phải là một khái niệm chung chung, mơ hồ mà là cộng đồng Việt Nam, là đồng
bào, là từng con người, từng cuộc đời, từng hoàn cảnh cụ thể. Cho đến lúc đi xa,
Người chỉ nghĩ đến sự đoàn kết toàn dân, sự phát triển và tiến bộ của Đảng, của
dân tộc; Người vẫn dành muôn vàn tình thương yêu cho mọi người.
I.4) Lòng khoan dung rộng lớn
Tư tưởng bao dung Hồ Chí Minh xuất phát từ quan điểm: “Sông to, biển rộng, thì
bao nhiêu nước cũng chứa được, vì độ lượng nó rộng và sâu. Cái ché nhỏ, cái đĩa
cạn, thì một chút nước cũng đầy tràn: vì độ lượng nó hẹp nhỏ”. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã phân biệt bọn thực dân cướp nước ta với nhân dân lương thiện ở các nước
đó. Người cũng phân biệt bọn hiếu chiến Mỹ với nhân dân Mỹ yêu tự do và hoà
bình. Người không hề đánh đồng bọn xâm lược Mỹ với nhân dân Mỹ. Và chính
Người đã coi bạn bè năm chân tận tình ủng hộ cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ
của nhân dân ta, trong đó có cả nhân dân yêu chuộng hoà bình Mỹ.Vì sự nghiệp
giải phóng dân tộc, vì tiến bộ xã hội, Hồ Chí Minh đưa ra chủ trương có lý, có tình
đối với kiều dân nước ngoài ở Việt Nam, nhằm bảo vệ tính mạng,tài sản của họ.
Người đánh giá cao vấn đề này và ghép tội "vô cớ sát hại kiều dân ngoạiquốc" vào
tử hình.Với lòng nhân ái bao la, phát huy truyền thống "thương người như thể
thương thân", "đánh kẻ chạy đi không đánh kẻ chạy lại", Hồ Chí Minh có chính
sách khoan hồng đại lượng, đối xử nhân đạo với tù binh.
Chủ nghĩa bao dung trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh không chỉ là sự quan
tâm đến hạnh phúc của con người, mà còn là tấm lòng rộng mở đối với cả tự nhiên.
Người không quên dặn dò các thế hệ sau này phải bảo vệ hệ sinh thái cho đa dạng,
cân bằng. Người đề xuất ý tưởng trồng cây và bảo vệ sự trong sạch của môi trường
sống. Trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề cần giáo dục đạo đức
sinh thái cho nhân dân.
Có thể nói, bao dung trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh gắn chặt chẽ với các
vấn đề đạo đức mới, mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gọi là đạo đức vĩ đại. Đạo đức
này không chỉ quan tâm đến con người, thương người, tin tưởng ở con người, tự
giác phục vụ những lợi ích của con người mà còn có cả tình cảm bao la quan tâm
đến tự nhiên, bảo vệ mối quan hệ hài hoà giữa con người với tự nhiên.
Sinh thời, Người trồng cây, nuôi cá, chăm chút từng gốc bưởi, hàng bụt mọc nơi
mình sinh sống. Người thương con người và thương yêu cả cây cỏ, hoa lá. Tình
cảm khoan dung Hồ Chí Minh là một nét đặc sắc trong chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí
Minh.
Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh không phải là một chủ nghĩa nhân văn không có
tính chiến đấu. Hồ Chí Minh kiên quyết chống lại mọi cái gì trái với lẽ phải. Vì
thế, tính nhân văn trong tư tưởng của Người gắn liền tình thương bao la với lẽ phải
chân chính. Bọn xâm lược Mỹ, những phần tử hại dân, hại nước, những hư hỏng
của xã hội không thể được khoan dung vô điều kiện. Phải cải tạo, phải đấu tranh để
cho cái thiện thắng cái ác.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người rất toàn diện. Con người không phải là
thần thánh, có cả cái tốt và cái xấu. Bởi vậy, theo Người phải "làm cho phần tốt
trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi". Người
yêu cầu phải thức tỉnh, tái tạo lương tâm, đánh thức những gì tốt đẹp trong con
người. Ngay cả đối với những người lầm đường lạc lối, Chủ tịch Hồ Chí Minh
cũng rất khoan dung, độ lượng: "Năm ngón tay cũng có ngón ngắn, ngón dài.
Nhưng ngắn dài đều họp lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế
này, thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta
phải khoan hồng đại độ". Khi cán bộ, đảng viên có lỗi, Người chú ý giáo dục, nhẹ
về xử phạt. Người cố gắng cổ vũ con người, hướng con người tới chân - thiện - mỹ
và trân trọng mọi ý kiến khác nhau, kể cả những ý kiến không đồng tình, trái với
suy nghĩ của Người.
Ứng xử văn hóa của Hồ Chí Minh đã tranh thủ được trái tim, khối óc của bạn bè
năm châu, làm cho kẻ thù cũng phải khâm phục.
Văn hóa khoan dung Hồ Chí Minh là kết tinh truyền thống nhân ái, độ lượng Việt
Nam và cũng là nét đặc trưng của văn hóa hòa bình trong thời đại ngày nay. Người
nói: “Dân tộc ta là một dân tộc giàu lòng đồng tình và bác ái”. Hồ Chí Minh đã kế
thừa và phát triển những giá trị khoan dung của dân tộc và nhân loại, nâng lên
thành một chất lượng mới, ở một tầm cao mới.
Là người cộng sản, Hồ Chí Minh có thái độ tôn trọng, không bao giờ tỏ ra kỳ thị,
bài bác mà luôn luôn có ý thức khai thác, vận dụng những yếu tố tích cực của các
học thuyết chính trị và tôn giáo như Nho, Phật, Lão, Thiện chúa giáo… vào sự
nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước.
Khoan dung văn hóa Hồ Chí Minh được xây dựng trên cơ sở chữ “nhân” nhưng là
một chữ nhân sáng suốt, có nguyên tắc, lấy công lý, chính nghĩa là nền tảng, chủ
trương giải quyết những vấn đề dân tộc và quốc tế trên cơ sở “có lý, có tình”.
Khoan dung văn hóa Hồ Chí Minh là thái độ trân trọng đối với mọi giá trị văn hóa
nhân loại, là không ngừng rộng mở, thâu hóa những yếu tố tích cực, tiến bộ và
nhân văn của loài người để làm giàu cho văn hóa Việt Nam. Khoan dung văn hóa
Hồ Chí Minh là chấp nhận giao lưu và đối thoại bình đẳng về giá trị để đạt tới cái
chung, cái nhân loại, để cùng tồn tại và phát triển. Trong khi chống thực dân Pháp
xâm lược, Người vấn đề cao văn hóa Pháp. Trong khi chống đế quốc Mỹ, Người
vẫn ca ngợi truyền thống văn hóa dân chủ và cách mạng Mỹ.
Nói về văn hóa khoan dung Hồ Chí Minh, nhà báo Mỹ Đ.Han-bơ-xtam đã thừa
nhận: “Cụ Hồ đã làm được một điều đáng chú ý: biết dùng tới văn hóa và tâm hồn
kẻ thù để chiến thắng”
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc Việt Nam một di sản văn hóa cao đẹp
và phong phú, trong đó không thể nhắctới những tư tưởng chỉ đạo của Người về
xây dựng một nền văn hóa mới: dân tộc, khoa học và nhân văn, một nền văn hóa
“lấy hạnh phúc của đồng bào, của dân tộc làm cơ sở”, “làm cho ai cũng có lý
tưởng, độc lập, tự chủ”, “văn hóa phải sửa đổi được tham nhũng, lười biếng, phù
hoa xa xỉ”, “văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”… Những phương châm đó
vẫn giữ nguyên giá trị chỉ đạo đối với việc xây dựng nền văn hóa dân tộc, cho hôm
nay và cả mai sau.
II) Con người vừa là mục tiêu,vừa là động lực cách mạng
I.1) Con người là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng
Mục tiêu cách mạng của Hồ Chí Minh là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội,
giải phóng con người, thực hiện độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Khi đất
nước còn nô lệ, lầm than thì mục tiêu trước hết, trên hết là giải phóng dân tộc,
giành độc lập dân tộc. Sau khi chính quyền đã về tay nhân dân, thì mục tiêu ăn,
mặc, ở, đi lại, học hành, chữa bệnh lại được ưu tiên hơn. Bởi vì, Người cho
rằng, nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng
không có nghĩa lý gì; vì vậy, chúng ta phải thực hiện ngay: làm cho dân có ăn,
làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân được học hành. Trong
Di chúc, Người viết: "Đầu tiên là công việc đối với con người".
Xuất phát từ truyền thống yêu nước, thương dân bị nô lệ, Hồ Chí Minh đi tìm
đường cứu nước, cứu dân. Suốt cuộc đời của người là vì dân, vì nước.
"Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là nước được độc lập, tự do,
nhân dân ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành".Cách mạng tháng
Tám 1945 thành công, tại cuộc họp đầu tiên của Uỷ ban nghiên cứu kế hoạch kiến
quốc, Hồ Chí Minh nêu rõ mục tiêu của Nhà nước là:
"1. Làm cho dân có ăn.
2. Làm cho dân có mặc.
3. Làm cho dân có chỗ ở.
4. Làm cho dân có học hành".
Người còn nói "Chúng ta đã hy sinh phấn đấu để giành độc lập. Chúng ta đã
tranh được rồi… Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết
rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc
lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ" Do vậy, khi có chính quyền rồi, Người luôn
nhắc nhở phải xây dựng bộ máy trong sạch, đấu tranh với những biểu hiện của thói
quan liêu, hách dịch, nhũng nhiễu nhân dân; phải dựa vào nhân dân, khơi dậy sức
mạnh tiềm tàng trong nhân dân để phục vụ cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng đời
sống mới trong nhân dân…
II.2)Con người là động lực của cách mạng
Con người là động lực của cách mạng được nhìn nhận trên phạm vi cả nước,
toàn thể đồng bào, song trước hết là ở giai cấp công nhân và nông dân. Điều
này có ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Không phải mọi con người đều trở thành động lực, mà phải là những
con người được thức tỉnh, giác ngộ, giáo dục, định hướng và tổ chức. Họ phải
có trí tuệ và bản lĩnh, văn hóa, đạo đức, được nuôi dưỡng trên nền truyền thống
lịch sử và văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam...
Như vậy, con người phải được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển. Nó vừa
nằm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước với nghĩa rộng,
vừa nằm trong chiến lược giáo dục - đào tạo theo nghĩa hẹp. Người khẳng định:
Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ
nghĩa. Con người xã hội chủ nghĩa đương nhiên phải do chủ nghĩa xã hội tạo ra.
Nhưng ở đây trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội thì "trước hết cần có
những con người xã hội chủ nghĩa". Điều này cần được hiểu là ngay từ đầu phải
đặt ra nhiệm vụ xây dựng con người có những phẩm chất cơ bản, tiêu biểu cho
con người xã hội chủ nghĩa, làm gương, lôi cuốn xã hội. Công việc này là một
quá trình lâu dài không ngừng hoàn thiện, nâng cao và thuộc về trách nhiệm của
Đảng, Nhà nước, gia đình, cá nhân mỗi người. Mỗi bước xây dựng những con
người như vậy là một nấc thang xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là mối quan hệ
biện chứng giữa "xây dựng chủ nghĩa xã hội" và "con người xã hội chủ nghĩa".
Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người xã hội chủ nghĩa có hai mặt gắn bó
chặt chẽ với nhau. Một là kế thừa những giá trị tốt đẹp của con người truyền
thống (Việt Nam và phương Đông). Hai là hình thành những phẩm chất mới
như: có tư tưởng xã hội chủ nghĩa; có đạo đức cách mạng; có trí tuệ và bản lĩnh
để làm chủ; có tác phong xã hội chủ nghĩa; có lòng nhân ái, vị tha, độ lượng.
III). Xây dựng con người là chiến lược hàng đầu của cách mạng
Con người phải được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển. Nó vừa nằm
trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước với nghĩa rộng, vừnằm
trong chiến lược giáo dục - đào tạo theo nghĩa hẹp. Người khẳng định: Muốn
xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa.
Hồ Chí Minh quan niệm"Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm
năm thì phải trồng người". Để "trồng người", có nhiều biện pháp, nhưng giáo
dục - đào tạo là biện pháp quan trọng bậc nhất. Bởi vì giáo dục tốt sẽ tạo ra tính
thiện, đem lại tương lai tươi sáng cho thế hệ trẻ. Ngược lại giáo dục tồi sẽ ảnh
hưởng xấu tới thế hệ trẻ. Hồ Chí Minh nói vai trò của giáo dục: Một dân tộc dốt
là một dân tộc yếu; dốt thì dại, dại thì hèn... Cho nên phải chống giặc dốt cũng
như chống giặc đói, giặc ngoại xâm, giặc nội xâm. Muốn có cán bộ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tiểu luận đề tài- Giá trị nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh.pdf