MỤC LỤC
1. Đặc điểm của hệ thống Bretton Woods 2
2. Hoạt động của hệ thống Bretton Woods 3
3. Nguyên nhân sụp đổ của hệ thống Bretton Woods 4
7 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4825 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Hệ thống Bretton Woods, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. Sự hình thành hệ thống Bretton Woods
Ngay trước khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, các nước đồng minh đã bắt đầu việc xây dựng một hệ thống tiền tệ quốc tế mới nhằm thúc đẩy các quan hệ tiền tệ và thương mại quốc tế. Vào năm 1944, một hội nghị quốc tế được nhóm họp tại Bretton Woods (Mỹ) với sự tham gia của đại diện 44 quốc gia đã đưa ra một loạt các biện pháp liên quan đến lĩnh vực tài chính tiền tệ, dẫn đến sự hình thành hệ thống tiền tệ quốc tế mới với tên gọi là hệ thống Bretton Woods.
Hệ thống tiền tệ quốc tế mới được xây dựng chủ yếu trên cơ sở kế hoạch do đoàn đại biểu Mỹ đưa ra (một kế hoạch khác do Anh đưa ra đã không được chấp thuận) theo đó hệ thống phải đáp ứng được một số yêu cầu cơ bản sau đây:
- Các tổ chức quốc tế - hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tài chính tiền tệ đòi hỏi phải thành lập một tổ chức quốc tế với những chức năng và quyền hạn nhất định.
- Chế độ tỷ giá hối đoái - tỷ giá hối đoái phải được xác định cố định về mặt ngắn hạn, nhưng có thể được điều chỉnh khi xuất hiện tình trạng “mất cân đối cơ bản”.
- Dự trữ quốc tế - để giúp chế độ tỷ giá cố định điều chỉnh hoạt động một cách có hiệu quả, các quốc gia cần tới một lượng dự trữ quốc tế lớn, vì vậy phải có sự gia tăng vàng và các nguồn dự trữ bằng tiền.
- Khả năng chuyển đổi của đồng tiền – vì lợi ích kinh tế chung mà tất cả các quốc gia phải tham gia vào mọi hệ thống thương mại đa phương tự do, trong đó các đồng tiền chuyển đổi tự do được sử dụng.
1. Đặc điểm của hệ thống Bretton Woods
Thứ nhất là chế độ tỷ giá. Tỷ giá hối đoái cố định trong ngắn hạn, có thể điều chỉnh trong những trường hợp cụ thể. Theo quy định của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), mỗi đồng tiền quốc gia được ấn định một tỷ giá cố định với USD và được phép dao động trong biên độ ±1%. Giá USD được cố định với vàng là 35USD/ounce. Việc cố định tỷ giá đôla với vàng đã tạo lòng tin cho cả thế giới vì Mỹ vào thời điểm đó chiếm 70% dự trữ vàng của thế giới. Chính phủ Mỹ cam kết đổi đôla ra vàng không hạn chế. Một cách gián tiếp, các quốc gia có thể hoàn toàn tin tưởng khi neo giá đồng tiền nước mình với đồng đôla. Trong những trường hợp mất cân bằng nghiêm trọng trong cán cân thanh toán, các quốc gia có thể tiến hành phá giá hay nâng giá đồng tiền với biên độ nhỏ hơn 10% trước khi IMF phải can thiệp.
Thứ hai, là dự trự quốc tế. Muốn duy trì tỷ giá hối đoái cố định, các quốc gia phải có một lượng dự trữ quốc tế đủ lớn bằng vàng và ngoại tệ. Theo quy định của IMF, tổ chức này sẽ giám sát và hỗ trợ hợp tác quốc tế trên lĩnh vực tiền tệ và thương mại. Để cho các quan hệ thương mại ổn định, cần phải duy trì một hệ thống tỷ giá ổn định, hiệu quả. Nhằm trành cho các quốc gia thành viên thực hiện phá giá hoặc nâng giá đồng tiền, IMF cung cấp cho các thành viên một hạn mức tín dụng thường xuyên để tài trợ cho thâm hụt cán cân thanh toán. Hạn mức tín dụng phụ thuộc vào quy mô của các nền kinh tế và tỷ trọng đóng góp của các quốc gia đó vào IMF. Các quốc gia đóng góp vào IMF theo tỷ lện ¼ là tài sản dự trữ (chủ yểu là vàng), ¾ bằng đồng tiền quốc gia. Khi gặp khó khăn, mỗi thành viên được rút 25% hạn mức trong lần đầu, sau đó muốn rút thêm phải tuân thủ nghiêm ngặt các chính sách kinh tế của IMF đưa ra, có thể rút trong 4 lần, mỗi lần 25% hạn mức.
Thứ ba là khả năng chuyển đổi các đồng tiền. Các quốc gia tham gia vào quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Hiệp định chung về thương mại và thuế quan GATT phải cam kết chuyển đổi không hạn chế đồng nội tệ đối với các giao dịch trong cán cân vãng lai (có thể hạn chế kiểm soát chu chuyển vốn nhưng không kiểm soát các chuyển đổi tiền tệ phục vụ mục đích thương mại).
2. Hoạt động của hệ thống Bretton Woods
Thời gian tồn tại của hệ thống BW có thể chia thành hai giai đoạn: giai đoạn “đói Đôla” (1940 – 1958) và giai đoạn “bội thực Đôla” ( 1959 – 1971).
Giai đoạn “đói đôla” (1940-1958):
Trong chiến tranh thế giới II, Mỹ đã thu được nguồn vàng lớn từ bên ngoài bằng việc buôn bán vũ khí cho các nước tham chiến. Sau chiến tranh, Mỹ đã có 1 nguồn dự trữ vàng lên tớI 26 tỉ đôla chiếm 60% dự trữ vàng trên toàn thế giới. Do đó, đồng đôla của Mỹ được coi là tốt như vàng.
Trong khi đó, do bị chiến tranh tàn phá nặng nề nên các nước Tây Âu có một nhu cầu tín dụng lớn để nhập khẩu những gì cần thiết cho công cuộc tái thiết. Theo kế họach Marshall, vẫn được biết đến là kế hoạch tái thiết Châu Âu, từ 1948 đến 1954, $17 tỉ Mỹ đã được đưa vào 16 nước Tây Âu.
Hơn nữa, trong giai đoạn này, những bất đồng lớn trong phe đồng minh chống phát xít bắt đầu xuất hiện. Mặc dù Liên Xô có tham gia vào hộI nghị Bretton Woods năm 1944 nhưng Liên Xô lại từ chối tham gia vào quỹ tiền tệ thế giới. Đặc biệt trong không khí căng thẳng của chiến tranh lạnh, Mỹ đã phải chi trả một khoản lớn cho quân sự, do đó vào cuối những năm 50 đầu những năm 60 nền kinh tế Mỹ bắt đầu xuất hiện một số dấu hiệu của khủng hoảng.
Giai đoạn “bội thực đôla” (1959-1971):
Trong giai đoạn này, nền kinh tế ở các nước Tây Âu dần đi vào ổn định và phát triển. Nguồn dự trữ đôla ở ngân hàng các nước tăng lên nhanh với tốc độ không mong muốn, các ngân hàng đó bắt đầu tìm cách chuyển đổi đôla lấy vàng.
Thêm vào đó, thị trường vàng kép xuất hiện mà khoảng cách giữa giá vàng trên thị trường tự do với giá vàng của ngân hàng nhà nước là rất lớn, mức giá vàng trên thị trường tự do là $35/ounce, còn mức giá trên thị trường tự do biến động theo quy luật cung - cầu. Điều này dẫn đến tình trạng những nhà đầu cơ mua vàng ở ngân hàng trung ương và bán vàng trên thị trường tự do.
Lúc này, nền kinh tế của Tây Âu và Nhật Bản phát triển mạnh mẽ. Do đó, giá trị đồng tiền của các nước này cũng tăng. Lòng tin vào đồng đôla cũng giảm sút, nguồn vốn khổng lồ bằng đồng đôla dần được chuyển sang các đồng tiền mạnh hơn.
Đến năm 1971, Mỹ phải tuyên bố ngừng đổi đồng đôla sang vàng và phá giá lần thứ nhất đối với đồng đôla. Bằng việc ký thỏa thuận Smith mà theo đó giá vàng chính thức được tăng từ 35 đôla lên $38/ounce, và đồng tiền của một số nước như Mac Đức, Yên Nhật, Franc Thụy Sỹ được nâng giá. Mức dao động xung quanh ngang giá được nâng lên từ 1% lên 2,25%. Do việc chuyển đổi đôla thành vàng không được phục hồi cho nên trong thời gian đó gọi là “chế độ bản vị đôla” tuy nhiên hiệp ước Smith chỉ tồn tại được 15 tháng.
Vào đầu năm 1973 do khủng hoảng của đồng $ nên các quốc gia công nghiệp chủ chốt đã bãi bỏ các mức ngang giá chính thức với đồng $ và thực hiện thả nổi độc lập (hoặc tập thể) đồng tiền của mình, sau khi Mỹ phá giá đồng $ lần thứ 2. Điều này đánh dấu sự thất bại hoàn toàn trong việc cải tổ hệ thống Bretton Woods và sự sụp đổ của hệ thống bản vị $ này.
3. Nguyên nhân sụp đổ của hệ thống Bretton Woods
Hệ thống Bretton Woods hoạt động với sự thành công rõ ràng và đáng ghi nhận, trong suốt những năm từ 1947 đến 1971 chỉ xảy ra một số lần điều chỉnh đột xuất. Việc giải thích sự sụp đổ của Bretton Woods thường tập trung vào vấn đề thanh khoản và sự thiếu vắng một cơ chế điều chỉnh phù hợp.
- Vấn đề thanh khoản:
Với mức giá $35 /ounce thì tổng tài sản nợ của chính phủ Mỹ đã vượt tổng tài sản có bằng vàng. Điều này có nghĩa là khả năng chuyển đổi toàn bộ tài sản nợ bằng USD ra vàng tại mức giá $35/ounce là không thể thực hiện. Triffin đã tiên đoán rằng: một khi chính phủ Mỹ đã bộc lộ mất khả năng thanh toán (chuyển đổi USD ra vàng tại mức giá $35/ounce như cam kết), tức USD được dự tính là sẽ phá giá đối với vàng; do đó, các ngân hàng trung ương nước ngoài sẽ chuyển đổi USD dự trữ của mình ra vàng, do lượng vàng không đủ nên chính phủ Mỹ cuối cùng buộc phải từ chối việc chuyển đổi USD ra vàng, nghĩa là chấm dứt duy trì tỷ giá cố định với USD, làm cho Bretton Woods sụp đổ.
- Sự thiếu vắng một cơ chế điều chỉnh:
Bretton Wood cho phép điều chỉnh tỷ giá chính thức như là biện pháp cuối cùng để điều chỉnh sự mất cân đối cơ bản trong BOP của các nước thành viên. Tuy nhiên trong thực tế các quốc gia có BOP mất cân đối tỏ ra rất miễn cưỡng khi thực hiện cac biện pháp như: phá giá, nâng giá, hay các chính sách kinh tế khác nhằm duy trì trạng thái cân bằng của BOP.
Về phía Mỹ: Cho dù tỷ lệ lạm phát sau nhiều năm tuy có cao, nhưng chính phủ Mỹ không thể phá giá USD đối với vàng được, bởi vì nếu phá giá sẽ làm xói mòn lòng tin vào toàn hệ thống Bretton Woods. Hơn nữa, giả sử chính phủ Mỹ phá giá USD so với vàng thì cũng không cải thiện được sức cạnh tranh thương mại quốc tế nếu như các bạn hàng vẫn duy trì tỷ giá cố định đối với USD. Như vậy, để duy trì và kiểm soát được thâm hụt BOP chính phủ Mỹ buộc phải áp dụng các chính sách thiểu phát nền kinh tế.
Đối với các nước có BOP thâm hụt: Rõ ràng hành động phá giá là phương thuốc cuối cùng để cải thiện BOp của các nước bị thâm hụt. Nhưng thực tế chỉ ra rằng các nước có BOp thâm hụt lại tỏ ra rất miễn cưỡng khi phá giá đồng tiền của mình, bởi vì phá giá thường được xem là biểu hiện yếu kém của chính phủ và của cả một quốc gia. Một khi các quốc gia có thâm hụt BOP miễn cưỡng áp dụng các chính sách thiểu phát nền kinh tế cũng như phá giá đồng bản tiền tệ, có nghĩa là hệ thống Bretton Woods phải trông chờ vào các nước có thặng dư BOP làm một cái gì đó để BOP của họ giảm xuống.
Đối với các nước có thặng dư BOP như Đức, Nhật, Thuỵ Sỹ... cũng muốn chứng tỏ rằng việc nâng giá đồng tiền của họ cũng khó khăn và miễn cưỡng chẳng kém gì các nước phải phá giá đồng tiền. Điều này xảy ra là vì khi đồng tiền của họ tiếp tục được định giá thấp sẽ cho phép duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong xuất khẩu và hướng nền kinh tế vào sản xuất hàng xuất khẩu. Họ lo ngại rằng nếu nâng giá đồng bản tệ sẽ khiến cho tăng trưởng xuất khẩu chậm lại, thất nghiệp gia tăng bởi vì các ngành sản xuất hàng xuất khẩu phải co lại. Hơn nữa, các quốc gia này không dễ gì áp dụng chính sách mở rộng tiền tệ như là các biện pháp giảm thặng dư BOP bởi vì họ luôn lo ngại về những hậu quả của lạm phát có thể gây ra.
Trong chế độ tỷ giá cố định, áp lực luôn đè nặng lên con nợ phải tiến hành biện pháp điều chỉnh nào đó bởi vì nếu không dự trữ ngoại hối sẽ cạn kiệt để bảo vệ tỷ giá.
- Về đặc quyền phát hành USD: Vai trò độc tôn của USD bao hàm ý rằng, nước Mỹ là người cung cấp nguồn thanh khoản quốc tế chủ yếu dưới chế độ Bretton Woods. Để có được nguồn dự trữ quốc tế, phần thế giới còn lại (không phải Mỹ) phải duy trì BOP luôn ở trạng thái thặng dư, trong khi đó Mỹ phải duy trì một BOP luôn thâm hụt. Điều này có nghĩa là phần còn lại của thế giới phải tiêu dùng ít hơn những gì mà chính nó sản xuất ra, trong khi đó nước Mỹ có đặc quyền là có thể tiêu dùng nhiều hơn những gì mà chính nước Mỹ sản xuất ra.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- (6).doc