MỤC LỤC
MỤC LỤC 3
LỜI MỞ ĐẦU 4
I. TỔNG QUAN VỀ HIỆP ĐỊNH SCM 5
1.1. Hoàn cảnh ra đời và mục tiêu của hiệp định SCM 5
1.1.1. Hoàn cảnh ra đời 5
1.1.2. Mục tiêu của hiệp định SCM 6
1.2. Các nội dung chủ yếu của hiệp định SCM 6
1.3. Vai trò của hiệp định SCM đối với các thành viên của WTO 9
1.3.1. Vai trò của trợ cấp 9
1.3.2. Vai trò của các biện pháp đối kháng 10
II. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG HIỆP ĐỊNH SCM TẠI VIỆT NAM 11
2.1. Thực tiễn áp dụng hiệp định SCM tại Việt Nam 11
2.2. Thuận lợi và khó khăn khi áp dụng SCM tại Việt Nam 13
2.2.1. Khó khăn 13
2.2.2. Thuận lợi 14
III/ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THỰC THI HIỆU QUẢ HIỆP ĐỊNH SCM TẠI VIỆT NAM 16
3.1. Xu hướng giải pháp chung 16
3.2. Một số biện pháp cụ thể 18
KẾT LUẬN 21
TÀI LIỆU THAM KHẢO 22
20 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5329 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Hiệp định SCM và thực trạng áp dụng vào Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à kỷ cương hơn trong việc sử dụng trợ cấp và các biện pháp đối kháng.
1.2. Các nội dung chủ yếu của hiệp định SCM
Hiệp định SCM bao gồm 9 phần chính, 36 điều khoản và 7 phụ lục.
Trong khuôn khổ của Hiệp định SCM, trợ cấp được dựa trên ba điều kiện căn bản. Trước hết, trợ cấp phải được xuất phát từ một chính phủ hoặc một cơ quan nhà nước trong lãnh thổ của một thành viên WTO. Thứ hai, trợ cấp phải là một sự đóng góp tài chính. Sự đóng góp tài chính có thể là các khoản vay ưu đãi, bảo lãnh vay vốn, giảm thuế, hỗ trợ thu nhập hoặc trợ giá, cũng như hàng hóa dịch vụ do nhà nước cấp ( ngoại trừ dành cho cơ sở hạ tầng của nhà nước ). Thứ ba, nguồn lợi phải được dành cho một bên tiếp nhận thong qua trợ cấp.
Cụ thể, Hiệp định SCM quy định 3 loại trợ cấp như sau:
Thứ nhất là trợ cấp bị cấm gồm những khoản trợ cấp sau: khối lượng trợ cấp, theo luật hoặc trong thực tế, dù là một điều kiện riêng biệt hay kèm theo những điều kiện khác, căn cứ vào kết quả xuất khẩu; khối lượng trợ cấp, dù là một điều kiện riêng biệt hay kèm theo những điều kiện khác, ưu tiên sử dụng hàng nội địa hơn hàng ngoại. Trợ cấp bị cấm là đối tượng của những vụ kiện giải quyết tranh chấp. Điểm nổi bật là lịch trình giải quyết của Cơ quan Giải quyết Tranh chấp (DSB) nhanh gọn, và nếu cơ quan này nhận thấy rằng khoản trợ cấp này là trợ cấp bị cấm, ngay lập tức phải thu hồi lệnh trợ cấp. Nếu phán quyết không được thực hiện trong thời gian quy định, thành viên khiếu nại được quyền áp dụng các biện pháp trả đũa.
Thứ hai là trợ cấp có thể đối kháng. Hiệp định quy định rằng không một Thành viên nào thông qua việc sử dụng trợ cấp gây ra tác động có hại đến quyền lợi của Thành viên khác, như gây tổn hại cho một ngành sản xuất nội địa của một Thành viên khác, làm vô hiệu hay gây phương hại đến những quyền lợi mà Thành viên khác trực tiếp hoặc gián tiếp được hưởng từ Hiệp định GATT 1994 (đặc biệt là những quyền lợi có được từ những ưu đãi thuế quan có ràng buộc), và gây tổn hại nghiêm trọng đối với lợi ích của Thành viên khác. “Thiệt hại nghiêm trọng” sẽ được xem là tồn tại trong trường hợp tổng trị giá trợ cấp theo trị giá cho một sản phẩm vượt quá 5%. Trong trường hợp này, bên trợ cấp có nghĩa vụ chứng minh rằng những khoản trợ cấp đó không gây ra những thiệt hại nghiêm trọng đối với bên khiếu nại. Những thành viên bị ảnh hưởng tiêu cực bởi trợ cấp có thể đối kháng có thể đưa tranh chấp này lên cơ quan giải quyết tranh chấp. Trong trường hợp cơ quan giải quyết tranh chấp đưa ra phán quyết có tồn tại tác động tiêu cực, bên trợ cấp phải thu hồi lại khoản trợ cấp hoặc xóa bỏ những tác động tiêu cực này.
Thứ ba là trợ cấp không thể đối kháng, có thể là trợ cấp không mang tính chất riêng biệt hoặc mang tính chất riêng biệt bao gồm hỗ trợ cho các hoạt động nghiên cứu công nghiệp và hoạt động phát triển tiền cạnh tranh, hỗ trợ cho các vùng miền khó khăn, hỗ trợ nhằm xúc tiến nâng cấp những phương tiện hạ tầng hiện có cho phù hợp với yêu cầu mới về môi trường do luật pháp, hay các quy định đặt ra. Nếu một thành viên cho rằng trợ cấp không thể đối kháng khác sẽ dẫn đến những tác động tiêu cực nghiêm trọng đến ngành công nghiệp nội địa, thành viên đó có thể yêu cầu đưa ra phán quyết và khuyến cáo về vấn đề này.
Một phần của hiệp định này liên quan đến việc áp dụng những biện pháp đối kháng đối với hàng nhập khẩu được trợ cấp. Hiệp định đưa ra những quy chế về việc khởi tố các vụ đối kháng, về việc điều tra bởi các cơ quan có thẩm quyền cấp quốc gia và những quy định về chứng cứ để đảm bảo rằng tất cả những bên có quyền lợi có thể đưa ra thông tin và quan điểm của mình. Những quy định cụ thể về việc tính toán tổng số trợ cấp là cơ sở để xác định thiệt hại đối với ngành công nghiệp nội địa. Hiệp định quy định rằng tất cả các yếu tố kinh tế có liên quan sẽ phải được xem xét trong quá trình đánh giá tình trạng của ngành công nghiệp và mối quan hệ nhân quả giữa hàng nhập khẩu được trợ cấp và những thiệt hại suy đoán. Việc điều tra đối kháng phải dừng ngay khi mức trợ cấp nằm dưới mức tối thiểu (nhỏ hơn 1% theo trị giá) hoặc khi khối lượng hàng nhập khẩu được trợ cấp trên thực tế hoặc ước tính hoặc thiệt hại là không đáng kể. Trừ trường hợp đặc biệt, thủ tục điều tra phải được kết thúc trong thời hạn một năm, và trong mọi trường hợp không quá 18 tháng, kể từ ngày khởi xướng. Thuế đối kháng phải chấm dứt trong vòng 5 năm áp dụng trừ khi các cơ quan có thẩm quyền thông qua rà soát xét thấy việc ngừng áp thuế sẽ dẫn đến sự tiếp tục hay tái diễn trợ cấp và thiệt hại.
Hiệp định này cũng công nhận rằng trợ cấp có thể đóng vai trò quan trọng trong các chương trình phát triển kinh tế của các nước đang phát triển, và trong sự chuyển dịch từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường. Những nước kém phát triển và những nước đang phát triển có Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) bình quân đầu người ít hơn 1000 USD sẽ được miễn khỏi những quy tắc về trợ cấp xuất khẩu bị cấm và hưởng miễn trừ đối với trợ cấp bị cấp trong một khoảng thời gian nhất định. Đối vớ các nước đang phát triển khác, việc cấm trợ cấp xuất khẩu sẽ có hiều lực trong 8 năm kể từ ngày hiệp định WTO có hiệu lực và những nước này được hưởng sự miễn trừ đối với trợ cấp bị cấm trong một khoảng thời gian nhất định ( khoảng thời gian này sẽ ngắn hơn thời gian của các nước kém phát triển hơn). Việc điều tra đối kháng đối với một sản phẩm xuất xứ từ một nước thành viên đang phát triển sẽ chấm dứt nếu tổng lượng trợ cấp không vượt quá 2% (và xuất xứ từ một số nước đang phát triển là 3%) tính trên trị giá sản phẩm, hoặc nếu khối lượng hàng nhập khẩu được trợ cấp chiếm ít hơn 4% tổng lượng sản phẩm tương tự nhập khẩu của quốc gia nhập khẩu. Đối với những nước đang trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường, trợ cấp bị cấm sẽ không bị tính trong vòng 7 năm kể từ ngày hiệp định này có hiệu lực.
Theo hiệp định SCM, trong quá trình đàm phán các quy tắc đặc biệt đối với ngành hàng không dân dụng, các sản phẩm hàng không dân dụng không tuân theo giả định rằng việc trợ cấp theo giá trị vượt quá 5% gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của các nước thành viên. Ngoài ra, hiệp định cũng quy định rằng việc hoàn trả tài chính trong lĩnh vực hàng không dân sự phụ thuộc vào mức độ doanh số sản phẩm bán ra và doanh thu dưới mức mong đợi, bản thân điều này không suy đoán gây thiệt hại nghiêm trọng.
1.3. Vai trò của hiệp định SCM đối với các thành viên của WTO
1.3.1. Vai trò của trợ cấp
Chính phủ các nước thường chủ động tiến hành trợ cấp cho các doanh nghiệp và sản phẩm của nước mình nhằm đạt được một số mục tiêu kinh tế-xã hội nhất định như bảo hộ sản xuất trong nước, hỗ trợ phát triển ngành non trẻ hay ngành trọng điểm của nền kinh tế, khuyến khích đầu tư, cải thiện thu nhập của nhà sản xuất, bù đắp chi phí đầu tư ban đầu quá lớn, v.v... Chẳng những có thể ngăn cản, hạn chế hàng nhập khẩu, trợ cấp sản xuất nội địa đồng thời còn có thể khiến cho cam kết ràng buộc thuế quan trong khuôn khổ WTO mất tác dụng, duy trì bảo hộ sản xuất nội địa. Đối với những ngành công nghiệp non trẻ, bước đầu còn nhỏ bé về quy mô, yếu kém về năng lực cạnh tranh thì trợ cấp từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh, mở rộng quy mô, góp phần khởi động và đẩy nhanh sự phát triển của ngành.
Ngoài ra, trợ cấp góp phần duy trì ổn định công ăn việc làm, hạn chế thất nghiệp, bảo đảm trật tự và ổn định xã hội, đặc biệt là những khoản trợ cấp dành cho các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, đứng trước nguy cơ bị đóng cửa, phá sản. Sự hỗ trợ của chính phủ có thể giúp các doanh nghiệp này khỏi bị sụp đổ nhanh chóng, thúc đẩy các doanh nghiệp cơ cấu lại sản xuất, tự điều chỉnh khả năng thích nghi và cạnh tranh trong thời kỳ quá độ do những khó khăn mà môi trường thương mại quốc tế tạo ra.
Trợ cấp cũng có thể được sử dụng nhằm khuyến khích những ngành sản xuất kém sức cạnh tranh giảm công suất dư thừa hoặc rút khỏi những lĩnh vực hoạt động không hiệu quả hoặc không sinh lợi. Nhờ đó, quá trình điều chỉnh cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu lao động được diễn ra suôn sẻ hơn, góp phần thúc đẩy phân bổ nguồn lực thích hợp, hiệu quả và khuyến khích nhập khẩu sản phẩm cạnh tranh từ bên ngoài thay vì tự cố gắng sản xuất và cung cấp những sản phẩm kém cạnh tranh với chi phí đầu tư tốn kém.
Bên cạnh đó, trợ cấp làm cho hàng xuất khẩu của nước đó sang nước khác (nước nhập khẩu) có lợi thế cạnh tranh hơn.Và đồng thời trợ cấp cũng làm tăng lợi thế cạnh tranh của hàng xuất khẩu được trợ cấp so với hàng xuất khẩu không được trợ cấp của các nước khác vào thị trường thứ ba và ngăn cản hàng xuất khẩu của các nước khác vào thị trường này.
1.3.2. Vai trò của các biện pháp đối kháng
Các biện pháp đối kháng hay cũng chính là các biện pháp chống trợ cấp, theo GATT, là biện pháp cứu trợ được một nước thực hiện do họ phải chịu thiệt hại vì nước khác thực hiện trợ cấp gây ra.
Cụ thể hơn, GATT quy định rằng, khi hàng nhập khẩu được sản xuất với sự trợ cấp thì bên nhập khẩu có quyền thu thuế chống trợ cấp hoặc những biện pháp cứu trợ khác. Thuế chống trợ cấp là loại thuế đặc biệt được thu nhằm mục đích hạn chế việc trợ cấp cho hàng hoá trong khâu chế tạo, sản xuất và xuất khẩu. Thuế chống trợ cấp còn được gọi là thuế bồi hoàn hay thuế trả đũa. Khi hàng hoá nhập khẩu được trợ cấp trực tiếp hay gián tiếp trong quá trình sản xuất, gia công chế tạo, vận chuyển, mua bán, đều khiến cho chính phủ nước nhập khẩu có lý do để thu thuếù chống trợ cấp đối với những hàng hoá này. Việc thu thuế chống trợ cấp cần phaỉ tuân thủ nguyên tắc, kim ngạch thu thuế không được vượt quá mức trợ cấp.
Mục đích của trợ cấp xuất khẩu của các nước xuất khẩu là để tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá ở nước ngoài. Mục đích của việc thu thuế chống trợ cấp của nước nhập khẩu lại là để những hàng hoá được trợ cấp mất khả năng cạnh tranh. Giá thành của hàng hoá nhập khẩu sau khi bị đánh thuế chống trợ cấp sẽ tăng lên, và như vậy sẽ làm giảm hiệu quả của khoản trợ cấp mà hàng hoá này nhận được, từ đó làm giảm khả năng cạnh tranh, khiến cho chúng không thể được bán với giá thành thấp hoặc bán phá giá trên thị trường của nườc nhập khẩu.
II. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG HIỆP ĐỊNH SCM TẠI VIỆT NAM
2.1. Thực tiễn áp dụng hiệp định SCM tại Việt Nam
Nhằm thực hiện Hiệp định SCM, Việt Nam đã đưa ra 17 chương trình trợ cấp, cụ thể:
1- Ưu đãi thuế nhập khẩu theo tỷ lệ nội địa hoá đối với sản phẩm cơ khí, điện và điện tử (QĐ 1944/1998/QĐ-BTC ngày 25/12/1998, Thông tư 176/1998)
2- Hỗ trợ triển khai thực hiện các dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp trọng điểm (QĐ 37/2000/QĐ-TTg ngày 24/3/2000, QĐ 19/2001/QĐ-TTg ngày 20/2/2001 và một số thông tư hướng dẫn)
3- Ưu đãi đầu tư đối với doanh nghiệp trong nước sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu (Luật khuyến khích đầu tư trong nước năm 1998, Nghị định 51/1999/NĐ-CP, Nghị định 35/2002/NĐ-CP, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, Nghị định 164/2003/NĐ-CP)
4- Ưu đãi đầu tư đối với các doanh nghiệp trong nước hoạt động trong các lĩnh vực ngành nghề và địa bàn khuyến khích đầu tư (không dựa trên tiêu chí xuất khẩu hoặc tiêu chí sử dụng nguyên liệu trong nước) (Luật khuyến khích đầu tư trong nước, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, nhiều Nghị định)
5- Ưu đãi đầu tư dựa trên tiêu chí xuất khẩu áp dụng cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (Luật Đầu tư nước ngoài năm 2000, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2003)
6- Ưu đãi đầu tư đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động trong các lĩnh vực, ngành nghề và địa bàn khuyến khích đầu tư (không dựa trên tiêu chí xuất khẩu hoặc tiêu chí sử dụng nguyên liệu trong nước) (Luật Đầu tư nước ngoài năm 2000, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp và một số Nghị định)
7- Ưu đãi về tín dụng đầu tư phát triển dựa trên tiêu chí xuất khẩu (Nghị định 43/1999/NĐ-CP, Nghị định 106/2004/NĐ-CP, Qđ 133/2001/QĐ-TTg, QĐ 80/2002/QĐ-TTg)
8- Ưu đãi tín dụng đầu tư phát triển dựa trên tiêu chí sử dụng hàng hoá trong nước sản xuất (NĐ 43/1999/NĐ-CP, Nghị định 106/2003/NĐ-CP)
9- Các ưu đãi tín dụng đầu tư phát triển khác của nhà nước (không thuộc nhóm ưu đãi tín dụng để phục vụ xuất khẩu hoặc nội địa hoá sản xuất trong nước)
10- Hỗ trợ phát triển ngành dệt may thực hiện Chíên lược phát triển ngành dệt may Việt Nam thời kỳ đến năm 2000 (QĐ 55/2001/QĐ-TTg, QĐ 17/2002/QĐ-TTg)
11- Hỗ trợ xuất khẩu thông qua thưởng xuất khẩu (QĐ 1116/2003/QĐ-BTM và QĐ 1462/2003/QĐ-BTM)
12- Hỗ trợ xúc tiến thương mại thông qua hỗ trợ tìm kiếm thị trường và hỗ trợ kinh phí thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại khác
13- Hỗ trợ đối với mặt hàng cơ khí
14- Hỗ trợ đối với ngành công nghiệp đóng tàu
15- Hỗ trợ phát triển thương mại miền núi, hải đảo và vùng đồng bào dân tộc
16- Hỗ trợ cho các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh gặp khó khăn do các nguyên nhân khách quan
17- Khuyến khích đầu tư vào hoạt động khoa học công nghệ
Với sản phẩm phi nông nghiệp, trong suốt 12 năm đàm phán, Việt Nam đã kiên trì thuyết phục các thành viên WTO cho Việt Nam hưởng ngoại lệ của Hiệp định về Trợ cấp và Biện pháp đối kháng (SCM) nhưng do đàm phán gia nhập là đàm phán một chiều, các nước mới gia nhập trước đó đều không đòi được ngoại lệ nên cuối cùng Việt Nam đã cam kết như sau:
a. Bãi bỏ trợ cấp thay thế nhập khẩu (như thuế ưu đãi theo tỷ lệ nội địa hóa) và các loại trợ cấp xuất khẩu dưới hình thức cấp phát trực tiếp từ ngân sách nhà nước
Bộ Tài chính đã có Quyết định số 43/2006/QĐ-BTC ngày 29/8/2006 về việc bãi bỏ chính sách thuế theo tỉ lệ nội địa hóa đối với các sản phẩm, phụ tùng thuộc ngành cơ khí-điện-điện tử quy định tại các Thông tư liên tịch số176/1998/TTLT-BTC-BCN-TCHQ ngày 25/12/1998, thông tư liên tịch số 120/2000/TTLT-BTC-BCN-TCHQ ngày 25/12/2000 và Quyết định số 1944/1998/QĐ-BTC ngày 25/12/1998 của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/10/2006.
Ngoài ra Bộ Tài chính nhận được một số kiến nghị giảm thuế đối với nguyên vật liệu phục vụ cho việc sản xuất phụ tùng cơ khí, điện, điện tử (nguyên liệu nhựa, thép… ) và kiến nghị giảm thuế đối vói một số linh kiện, phụ tùng xe máy.
b. Bãi bỏ trợ cấp thưởng theo mức vượt kim ngạch xuất khẩu. Mức thưởng cho các mặt hàng không nhiều, chỉ từ 300 đồng tới 1.000 đồng/1 USD tiền vượt kim ngạch xuất khẩu; song tổng số tiền thưởng vượt kim ngạch xuất khẩu từ 1998 tới 2004 cũng lên đến con số 29,4 tỷ đồng, tương đương gần 2 triệu USD (theo báo Tuổi trẻ ngày 25/7/2006) với tổng số doanh nghiệp được thưởng là 349 doanh nghiệp. Hiện nay khi nước ta đã gia nhập WTO và tham gia Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng SCM thì việc trợ cấp này là trái quy định của WTO, và chúng ta đang tiến hành loại bỏ.
c. Với trợ cấp xuất khẩu "gián tiếp" (chủ yếu dưới dạng ưu đãi đầu tư dành cho sản xuất hàng xuất khẩu), sẽ không cấp thêm kể từ khi gia nhập WTO. Tuy nhiên, với các dự án đầu tư trong và ngoài nước đã được hưởng ưu đãi loại này từ trước ngày gia nhập WTO, ta được một thời gian quá độ là năm năm để bãi bỏ hoàn toàn.
d. Riêng với ngành dệt - may, tất cả các loại trợ cấp bị cấm theo Hiệp định SCM, dù là trực tiếp hay gián tiếp, đều được bãi bỏ ngay từ khi Việt Nam gia nhập WTO.
e. Theo Hiệp định SCM, tín dụng XK của Qũy Hỗ trợ phát triển là một hình thức trợ cấp XK bị cấm. Để giải quyết việc này, ngày 19/5/2006, Quỹ Hỗ trợ phát triển đã được tổ chức lại và chính thức trở thành Ngân hàng Phát triển Việt Nam với 1 hội sở chính và 61 chi nhánh tại các địa phương. Cũng theo tinh thần đó, Chính phủ đã loại bỏ Quyết định số 55/2001/QĐ-TTg về việc hỗ trợ tăng tốc cho ngành dệt may.
2.2. Thuận lợi và khó khăn khi áp dụng SCM tại Việt Nam
2.2.1. Khó khăn
Thứ nhất, sẽ có nhiều doanh nghiệp bỡ ngỡ, do đó, gặp khó khăn trong chính sách sản xuất, chính sách giá cả…
Thứ hai, hàng nước ngoài có thể chiếm tỉ lệ lớn trong thị phần nội địa, nếu không chịu được cạnh tranh, nền kinh tế nội địa sẽ bị biến thành sân sau cho nước ngoài.
Với Việt Nam chúng ta, kể từ khi trở thành thành viên chính thức của WTO, theo lộ trình cắt giảm hàng rào thuế quan của tổ chức này, mức thuế nhập khẩu của rất nhiều loại hàng hóa đã bị cắt giảm lớn, thậm chí ở mức thuế suất bằng 0.
Thứ ba, khi các doanh nghiệp làm ăn ở nước ngoài, sẽ dễ bị kiện hơn rất nhiều , gây tổn thất cho doanh nghiệp nói riêng, và cho nền kinh tế nói chung.
Trong các vụ kiện bán phá giá cá tra, cá ba sa ầm ĩ một thời gian dài, một trong những luận điểm Mỹ đã “bám” chắc vào đó là “nền kinh tế Việt Nam không phải là nền kinh tế thị trường do còn trợ cấp…” . Yếu tố này cùng với nhiều nguyên nhân khác đã khiến cho lợi thế nghiêng hẳn về phía Mỹ. Còn chúng ta đành phải chịu thua kiện và học được bài học đắt giá về “nền kinh tế thị trường” và “trợ cấp”.
Thứ tư, không chỉ nền kinh tế phải tìm cách thích ứng đối với tình hình mới, các bộ luật trong nước cũng phải thay đổi cho phù hợp với quy định chung. Đây là một vần đề đòi hỏi nhiều thời gian, tiền bạc, và đôi khi là những cái giá cực kì đắt phải trả cho những chính sách, điều luật mới không hợp lý…
Hơn nữa, trên lý thuyết có nói là bỏ trợ cấp bị cấm, nhưng trên thực tế Chính phủ không thể hoàn toàn “đem con bỏ chợ” mà phải nghĩ cách “lách”, giúp đỡ ít nhiều. Đó cũng là một vấn đề cần xem xét trong tình hình mới.
2.2.2. Thuận lợi
Một là, việc bãi bỏ một số trợ cấp sẽ làm cho doanh nghiệp phải tự bơi bằng thực lực, phải tự cải thiện mình nếu không sẽ bị loại khỏi cuộc cạnh tranh.
Nhất là trong hoàn cảnh thuế nhập khẩu giảm, một số mặt hàng còn có thể được trợ cấp và bán phá giá vào thị trường Việt Nam. Điều này có tác dụng đưa nền kinh tế nước ta phát triển nhanh và rộng khắp, theo đó, tạo thêm nhiều công ăn việc làm, góp phần xóa đói giảm nghèo.
Hai là, việc áp dụng Hiệp định SCM khiến hàng hóa nước ngoài “tự do” hơn khi tham gia thị trường Việt Nam. Trước hết, là do thuế nhập khẩu giảm, giá bán của các sản phẩm này cũng trở nên “mềm” hơn và nằm trong khả năng mua sắm của người dân. Thêm vào đó, khi bãi bỏ trợ cấp cho các mặt hàng nội địa, các mặt hàng này sẽ tăng giá, làm cho sức ép cạnh tranh xét về mặt giá cả sẽ giảm rõ rệt đối với các mặt hàng ngoại cùng loại. Điều này khiến cho người dân được lợi, vì có thể tiếp cận với các mặt hàng tốt hơn mà giá cả chênh lệch nằm trong khoảng có thể chấp nhận được.
Ba là, việc cắt giảm chi ngân sách cho trợ cấp sẽ tiệt kiệm một khoản đáng kể cho Chính phủ. Tuy đã nói ở trên, trợ cấp cho một ngành, một doanh nghiệp nào đó có thể không lớn, nhưng cộng tất cả lại, là một con số không hề nhỏ. Do đó, tiết kiệm được khoản này khiến cho Chính phủ có thể đầu tư nhiều hơn vào các chương trình khác nhằm phát triển sản xuất, phát triển xã hội.
Bốn là, chúng ta phải nhắc đến tác động hai mặt của Hiệp định SCM. Nó quy định nhiệm vụ cho các nước thành viên, đồng thời cũng có kèm theo những điều khoản bảo vệ quyền lợi của các nước này. Việt Nam không chỉ phải tuân theo quy định, mà bên cạnh đó, cón có thể dùng chính các quy định này để bảo vệ chính mình trong khi vươn ra thế giới.
III/ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THỰC THI HIỆU QUẢ HIỆP ĐỊNH SCM TẠI VIỆT NAM
3.1. Xu hướng giải pháp chung
Trong tình hình mới hiện nay, Việt Nam cần phải tuân theo các quy định chung của WTO, vì vậy trong các vấn đề liên quan tới trợ cấp và các biện pháp đối kháng chúng ta đang có những xu hướng giải pháp chung sau đây:
a. Giảm dần tín dụng hỗ trợ xuất khẩu:
Theo Nghị định về tín dụng hỗ trợ xuất khẩu được Chính phủ ban hành, trong giai đoạn vừa qua (giai đoạn 2006-2010) đã có 10 nhóm hàng hoá, dịch vụ được khuyến khích xuất khẩu, nhưng lượng mặt hàng được hỗ trợ tín dụng xuất khẩu đã và sẽ giảm dần qua nhiều giai đoạn. Cụ thể:
- Các nhóm hàng hoá nông nghiệp và thực phẩm chế biến (trong đó có cả rau, quả và hàng thuỷ sản), nhóm hàng công nghiệp tiêu dùng, bao gồm hàng dệt (sợi, vải các loại) và sản phẩm may mặc, giày dép, xe đạp 2 bánh và phụ tùng xe đạp không còn nằm trong Danh mục hàng hoá, dịch vụ khuyến khích xuất khẩu.
- Bên cạnh đó, nhóm hàng thủ công mỹ nghệ; hàng điện tử và máy vi tính; dây và cáp điện các loại cũng sẽ không được hỗ trợ tín dụng xuất khẩu.
- Chấm dứt hỗ trợ xuất khẩu tất cả những mặt hàng như tàu biển xuất khẩu; dịch vụ phần mềm, công nghệ thông tin; dịch vụ nhà thầu xây dựng; dịch vụ tư vấn thiết kế, giám sát và nhóm các mặt hàng cơ khí…
Giải pháp đưa ra là phải thay đổi cơ bản cơ cấu của nhiều ngành và các tổ chức liên quan nhằm thích ứng với việc cắt giảm hỗ trợ tín dụng xuất khẩu nhiều nhóm hàng, đặc biệt thay đổi mạnh mẽ trong hoạt động tín dụng ưu đãi của các quỹ hỗ trợ xuất khẩu. Tước đây, hoạt động tín dụng hỗ trợ xuất khẩu của Quỹ Hỗ trợ phát triển là một hình thức trợ cấp, ưu đãi về lãi suất đối với một số mặt hàng xuất khẩu. Là một trong những thành viên của WTO, Việt Nam cần phải tuân thủ Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng (SCM), vì vậy các nghiệp vụ tín dụng hỗ trợ xuất khẩu của Quỹ Hỗ trợ phát triển không được tiếp tục duy trì như trước và đổi mới khá nhiều. Do vậy, trong thời gian tới, tín dụng hỗ trợ xuất khẩu phải thực sự tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy sản xuất, hỗ trợ các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam đối với những ngành hàng ưu thế (như nông sản, thuỷ sản, hạt tiêu, hạt điều, gạo, hàng thủ công mỹ nghệ, hàng mây tre lá...) hay những thị trường thế mạnh (thị trường Đông Âu truyền thống, thị trường Trung Quốc, Nhật Bản, EU, Mỹ...) đủ sức trụ vững và cạnh tranh được trên trường quốc tế.
Song song với việc hỗ trợ xuất khẩu, Chính phủ cần quan tâm tới việc hỗ trợ hình thành và phát triển các Hiệp hội làng nghề, ngành nghề hoặc Hiệp hội doanh nghiệp rất cần đối với doanh nghiệp Việt Nam trong tương lai.
Thủ tướng Chính phủ cần chỉ đạo nhiệm vụ trước mắt và lâu dài của các Quỹ và các tổ chức tín dụng ưu đãi thuộc Chính phủ là nghiên cứu tiến trình chuyển đổi cho phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Tập trung đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ đảm bảo đủ khả năng và trình độ đáp ứng được yêu cầu công việc trong hội nhập.
b. Sử dụng một cách khéo léo các công cụ thuế nhằm bảo hộ sản xuất trong nước:
Với Việt Nam chúng ta, kể từ khi trở thành thành viên chính thức của WTO, theo lộ trình cắt giảm hàng rào thuế quan của tổ chức này, mức thuế nhập khẩu của rất nhiều loại hàng hóa đã bị cắt giảm lớn, thậm chí ở mức thuế suất bằng 0. Hàng hóa nước ngoài nhập khẩu vào Việt Nam dễ dàng hơn khiến nguy cơ bán phá giá là rất hiện hữu, gây khó khăn cho sản xuất trong nước. Chính vì vậy, song song với việc phải đối phó với luật chống phá bán giá ở khi xuất khẩu hàng hóa, chúng ta phải biết bảo vệ sản xuất trong nước trong nhập khẩu để tránh bị nước ngoài bán phá giá, tạo nên "sân chơi" bình đẳng cho các doanh nghiệp.
c. Chủ động trong việc áp dụng thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp ở Việt Nam:
- Xây dựng và hoàn thiện hơn nữa hệ thống luật pháp về kinh tế- thương mại của Việt Nam.
- Ban hành các bộ luật hoàn chỉnh về thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp.
- Trau dồi thêm kinh nghiệm trong việc điều tra chống phá giá, chống trợ cấp và kinh nghiệm đối phó với việc hàng xuất khẩu của ta bị điều tra bán phá giá và trợ cấp.
- Đào tạo đội ngũ luật sư, tư vấn viên có kiến thức đầy đủ và có kinh nghiệm phong phú về bán phá giá, trợ cấp.
- Tăng cường hiểu biết và liên kết giữa các nhà sản xuất, tiêu dùng, các nhà xuất và nhập khẩu... về lĩnh vực chống bán phá giá và chống trợ cấp, đồng thời tăng cường phối hợp các cơ quan nhà nước hữu quan trong việc giải quyết tranh chấp thương mại; phối hợp đồng bộ của các pháp luật khác có liên quan đến việc điều tra chống bán phá giá và chống trợ cấp nhằm khắc phục hạn chế về kinh nghiệm, kinh phí cho việc tiến hành điều tra, giải trình, đàm phán để áp dụng các công cụ chống bán phá giá và chống trợ cấp ở nước ta.
3.2. Một số biện pháp cụ thể
Thứ nhất, đối chiếu qui định của WTO và cam kết của Việt Nam thì ưu tiên hàng hóa trong nước hơn hàng nhập khẩu sẽ bị dỡ bỏ. Vì vậy, chúng ta cần phải có những giải pháp cụ thể về trợ cấp xuất khẩu để vừa tuân thủ WTO, vừa đạt hiệu quả mục tiêu đề ra, dựa theo “nguyên tắc cơ bản” như sau:
- Loại bỏ tất cả các biện pháp trợ cấp từ ngân sách, trực tiếp hay gián tiếp.
- Tập trung xây dựng và áp dụng các loại hình gián tiếp hoặc các loại trợ cấp WTO được miễn trừ dựa trên việc xem xét đặc điểm cụ thể của Việt Nam.
Như vậy, chúng ta cần phải tập trung vào các hình thức hỗ trợ chủ yếu sau:
- Hỗ trợ cho hoạt động nghiên cứu và phát triển sản phẩm xuất khẩu.
- Hỗ trợ cho hoạt động tư vấn, đào tạo, kể cả đào tạo chuyên ngành cho các ngành sản xuất hàng xuất khẩu.
- Hỗ trợ cho hoạt động để nâng cấp cơ sở hạ tầng phục vụ xuất khẩu.
- Hỗ trợ cho hoạt động xúc tiến thương mại không gắn với ngân sách để giảm chi phí xúc tiến cho các doanh nghiệp.
- Hỗ trợ chung để phát triển một số lĩnh vực, ngành nghề địa bàn có điều kiện đặc biệt đề gián tiếp thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu.
Tóm lại, khi thực hiện xúc tiến xuất khẩu thông qua các hình thức trợ cấp, chúng ta cần chú ý không sử dụng những hình thức trợ cấp đã bị cấm, để tránh nguy cơ bị “trả đũa” trong thương mại quốc tế; đồng thời, cần lựa chọn các hình thức trợ cấp “đèn xanh”, phù hợp với quy định của WTO và tập t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Hiệp định SCM và thực trạng áp dụng vào Việt Nam.doc