MỤC LỤC
Lời nói đầu
A THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG .1
1 Khái niệm .1
2. Các nhân tố tác động tới cung lao động .2
2.1 Sự phát triển dân số và cung lao động .2
2.2 Cung thời gian lao động .2
3. Cầu lao động và các nhân tố ảnh hưởng đến cầu lao động 3
3.1 Cầu lao động ngắn hạn .4
3.2 Cầu lao động dài hạn 4
B. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY .5
1. Thực trạng về cung lao động .5
1.1 Cung lao động xét từ giác độ số lượng .5
1.2 Cung lao động xét từ giác độ chất lượng .7
2. Thực trạng về cầu lao động .9
2.1 Thực trạng về cầu lao động 9
2.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến cầu lao động 10
3. Các giải pháp, giải quyết cung cầu trên thị trường lao động Việt Nam 12
C. LUẬT VỀ TIỀN LƯƠNG TỐI THIỂU LÀM GIA TĂNG TỶ LỆ THẤT NGHIỆP VÀ SỰ KHÔNG HIỆU QUẢ .12
1. Luật tiền lương tối thiểu 12
2. Chính sách tiền lương tối thiểu tại Việt Nam .14
2.1 Chính sách tiền lương tối thiểu tại Việt Nam .14
2.2 Ưu nhược điểm của chính sách tiền lương tại Việt Nam .15
2.3 Giải pháp cho chính sách tiền lương tối thiểu ở nước ta .16
Lời kết.
18 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2636 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Hoạt động của thị trường lao động tại Việt Nam nhìn từ góc độ cung cầu, quy luật về tiền lương tối thiểu làm gia tăng tỷ lệ thất nghiệp và sự không hiệu quả, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ước ta ( khoảng từ 1.4% đến 2% năm), thì có thể thấy rõ hiện có một bộ phận người lao động trong độ tuổi lao động không thể tìm kiếm được việc làm.
b) Tỷ lệ tham gia vào lực lượng lao động :
Do mức tăng dân số trong thập kỷ qua cao trong những năm gần đây, tỷ trọng dân số trẻ tuổi đã tăng đáng kể, và trở thành nguồn cung lao động tiềm năng của nhóm những người trong độ tuổi lao động. Theo số liệu của điều tra thực trạng lao động – việc làm năm 2002 của Bộ Lao Động – Thương Binh Xã Hội cho thấy tại thời điểm 1-7-2002, cả nước có 40.694.360 người trong độ tuổi lao động có hoạt động kinh tế thường xuyên, so với năm 2001 tăng 467.100 người (bằng 2.49%); trong đó nữ có 20.061.462 ( chiếm 49.30%), nam có 20.632.908 ( chiếm 50.7%).
Bảng 2 : Cơ cấu lực lượng lao động của Việt Nam
Đến ngày 01/07/2001
Đến ngày 01/07/2002
Tỷ lệ tăng (%)
Tổng số (người)
39,488,900
40,694,360
2.96
Trong đó :
I. Theo giới
Nam (người)
19,894,538
20,632,898
3.58
Tỷ lệ (%)
50.38
50.70
Nữ (người)
19,594,362
20,061,462
2.33
Tỷ lệ (%)
4.62
49.30
II. Theo khu vực
Thành thị (người)
9,183,667
9,709,967
5.42
Tỷ lệ (%)
23.26
23.86
Nông thôn (người)
30,329,793
30,984,393
2.11
Tỷ lệ (%)
76.81
76.14
Nguồn : Điều tra thực trạng lao động - việc làm, Bộ LĐTB-XH,01/07/2002
Dựa vào các số liệu hiện có, có thể thấy rằng, trong khi tỷ trọng nhóm người trong độ tuổi lao động ở nước ta tăng với tốc độ nhanh, thì tỷ lệ tham gia vào lực lượng lao động của dân số nhìn chung lại giảm. So sánh các số liệu cho thấy, nếu tỷ lệ tham gia lực lượng lao động năm 1989 là 90.8% thì đến năm 2002, con số này chỉ còn 83.9% .
c) Tỷ lệ nữ trong lực lượng lao động :
Trong khi tỷ lệ nam giới trong lực lượng lao động ở nước hầu như tương đương với các nước trong khu vực, thì tỷ lệ nữ tham gia vào lực lượng lao động lại lớn hơn hẳn. Thí dụ : nếu ở Việt Nam năm 1997-1998 tỷ lệ lao động nữ tham gia vào lực lượng lao động xã hội chiếm 79.5% thì theo số liệu của tổ chức lao động quốc tế (ILO) ở Philippin, Inđônêxia, Hàn Quốc, tỷ lệ này chỉ trên dưới 50%. Đặc biệt ở các vùng nông thôn, tỷ lệ tham gia của lao động nữ vào lực lượng lao động ở mọi độ tuổi đều hầu như ngang bằng với nam giới. Tại các vùng đô thị, tỷ lệ nữ tham gia vào lực lượng lao động có ít hơn so với ở các vùng ở nông thôn, nhưng vẫn cao hơn rất nhiều so với một số nước trong khu vực.
Cung lao động xét từ giác độ chất lượng :
Trình độ học vấn của người lao động :
Tỷ lệ người biết chữ trong tổng số lực lượng lao động của Việt Nam nói chung tương đối cao so với nhiều nước có mức thu nhập tương đương trên thế giới và có xu hướng tăng lên. Bảng 3 cho thấy, trình độ phổ cập giáo dục phổ thông cơ sở trong lực lượng lao động của ta tương đối cao (80.31%). Tỷ lệ người mù chữ rất thấp ( 3.75% trong năm 2002) so với tỷ lệ này của Thái Lan (4%) là nước có trình độ phát triển cao hơn. Trong đó, lao động ở thành thị và lao động trẻ tuổi có tỷ lệ phổ cập giáo dục phổ thông cao hơn lao động nông thôn và lao động ở lứa tuổi lớn hơn.
Bảng 3 : Cơ cấu lực lượng lao động hoạt động kinh tế thường xuyên chia theo trình độ học vấn , 1-7-2002.
Chưa biết chữ
Chưa TN tiểu học
Tốt nghiệp tiểu học
Tốt nghiệp THCS
Tốt nghiệp THPT
Số lao động
1,521,969
6,494,820
12,953,015
12,232,725
7,495,901
Tỷ lệ (%)
3.74
15.96
31.83
30.06
18.42
I. Theo giới tính
Nữ (người)
924,833
3,480,664
6,347,447
5,837,885
3,470,633
Tỷ lệ (%)
4.61
17.35
31.64
29.10
17.30
Nam (người)
597,136
3,014,156
6,605,568
6,394,839
4,025,268
Tỷ lệ (%)
2.89
14.61
32.01
30.99
19.51
II. Theo vùng (%)
ĐB Sông Hồng
0.59
5.68
19.95
49.11
24.67
Đông Bắc
7.75
12.89
28.14
32.98
18.23
Tây Bắc
18.34
20.97
29.28
16.63
14.78
Bắc Trung Bộ
2.78
10.83
27.13
40.59
18.67
Duyên hải Nam Trung bộ
2.79
17.48
38.85
24.84
15.99
Tây nguyên
9.72
17.36
32.91
23.81
16.2
Đông Nam bộ
2.06
16.19
36.39
22.37
22.98
ĐBSCL
3.34
29.54
43.12
13.42
10.58
Nguồn : Điều tra thực trạng lao động - việc làm, Bộ LĐTB-XH,01/07/2002
Tỷ lệ lao động được đào tạo nghề nghiệp và kỹ năng :
Theo kết quả điều tra lao động – việc làm của Bộ Lao Động – Thương Binh Và Xã Hội đến 1-7-2002, tính chung cả nước số người được đào tạo nghề nghiệp và kỹ năng (có trình độ sơ cấp hoặc có chứng chỉ nghề trở lên ) chỉ chiếm có 19.62% tổng lực lượng lao động. Riêng đối với nữ, tỷ lệ này còn thấp hơn chỉ có 15.67% .
Trầm trọng hơn, trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động giữa khu vực thành thị và nông thôn có sự chênh lệch rất lớn. Ở khu vực thành thị, tỷ lệ có trình độ chuyên môn kỹ thuật là 44.6%, nông thôn là 11.89%. Đặc biệt là ở các tỉnh miền núi, các nông-lâm trường, trình độ văn hóa và tay nghề của công nhân thấp hơn nhiều so với các nơi khác. Hơn thế nữa, cơ cấu lực lượng lao động được đào tạo cũng còn nhiều bất hợp lý. Điều này có thể thấy rõ nếu đem so sánh cơ cấu đào tạo của ta với cơ cấu đào tạo ( được coi là hợp lý) của một số nước khác. Bảng 5 cho thấy, số lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật còn quá thiếu so với yêu cầu. Hơn nữa, số này chủ yếu chỉ tập trung tại các thành phố và khu đô thị lớn (Hà Nội, Thành Phố Hồ Chí Minh và một số thành phố, trung tâm công nghiệp lớn khác ). Trong khi đó, ngành nông nghiệp chiếm 60.5% tổng số lực lượng lao động của cả nước, nhưng chỉ chiếm 3.85% số người được đào tạo.
Bảng 5 : So sánh cơ cấu đào tạo nghề nghiệp
Đại học
Trung học chuyên nghiệp
Công nhân kỹ thuật
Cơ cấu đào tạo hợp lý
1
4
10-15
Cơ cấu của Việt Nam hiện nay
1
0.98
2.66
Nguồn : Báo cáo của Bộ LĐTBXH, 31-07-2002
c) Tình trạng thể lực của lao động Việt Nam :
Theo số liệu điều tra về tình trạng thể lực của lao động Việt nam năm 1996, người lao động Việt Nam có thể lực kém, thể hiện qua các chỉ số về cân nặng, chiều cao trung bình, sức bền. Cụ thể là, trong khi chiều cao trung bình của người lao động Việt Nam là 1.47m; cân nặng 34.4 kg thì các con số tương ứng của người Philippin là 1.53m, 45.5kg; người Nhật là 1.64m; 53.3kg. Số người không đủ tiêu chuẩn về cân nặng ở Việt Nam chiếm tới 48.7%. Số lượng người lớn suy dinh dưỡng là 28%, phụ nữ thiếu máu là 40% ( số liệu điều tra năm 2000 ). Các số liệu điều tra năm 2001 đối với người lao động trong một số doanh nghiệp vừa và nhỏ cho thấy số người mắc bệnh nghề nghiệp chiếm 54%.
d) Kỷ luật lao động của người lao động :
Đại bộ phận người lao động hiện nay của ta còn chưa được đào tạo về kỷ luật lao động công nghiệp. Phần lớn trong số họ là lao động có xuất thân từ nông nghiệp hoặc nông thôn, còn mang nặng tác phong sản xuất của một nền nông nhiệp tiển nông, tuỳ tiện về giờ giấc và hành vi. Người lao động chưa được trang bị các kiến thức và kỹ năng làm việc theo nhóm, không có khả năng hợp tác và gánh chịu rủi ro, ngại phát huy sáng kiến và chia sẻ kinh nghiệm làm việc. Điều này có thể thấy rất rõ qua hiện tượng các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ( trong các khu công nghiệp, khu chế xuất ), phải mất hàng tháng chỉ để đào tạo tác phong cho công nhân mới được tuyển đến làm việc tại xí nghiệp.
Nhiều vụ việc đình công hoặc mâu thuẫn chủ – thợ tại các xí nghiệp liên doanh, xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có nguồn gốc ban đầu từ những vụ vi phạm kỷ luật lao động công nghiệp, từ ý thức kỷ luật lao động kém của bản thân người lao động.
2. Thực trạng về cầu lao động :
2.1 Thực trạng về cầu lao động :
Nước ta là một nước nông nghiệp, nghèo, có dân số đông với tốc độ tăng còn cao, nguồn lao động dồi dào, năng suất lao động thấp, cung lao động luôn lớn hơn cầu lao động, bởi vậy trong nền kinh tế luôn tồn tại lực lượng lao động dư thừa dưới nhiều hình thức, tình trạng thiếu việc làm là phổ biến. Năm 2000 tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị là 6.42%, còn ở nông thôn tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng của lực lượng lao động trong độ tuổi lao động chỉ là 76.58%. Đây là vấn đề cấp bách không chỉ trước mắt mà còn có nguy cơ kìm hãm sự phát triển kinh tế – xã hội về lâu dài. Vậy cần phải có các giải pháp như thế nào để tăng cầu lao động ở nước ta. Trước hết chúng ta xem xét hiện trạng và xu hướng thay đổi việc làm trong những năm gần đây.
Bảng 10 :số người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm thường xuyên thời kỳ 1996-2002
Các tiêu chí
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Tổng số
33,978
34,352
34,801
35,679
36,205
37,677
39,286
Trong đó:
1. Theo nhóm ngành :
Nông lâm ngư nghiệp
23,431
22,589
23,018
22,861
22,670
22,813
23,835
Xây dựng, công nghiệp
3,698
4,170
4,049
4,425
4,744
5,428
5,942
Dịch vụ
6,849
7,593
7,734
8,382
8,791
8,426
9,509
2. Theo thành phần Kinh tế
Nhà nước
2,973
3,094
3,533
3,606
3,644
3,769
4,011
Ngoài Nhà nước
31,005
31,128
31,083
31,884
32,343
33,554
34,836
Có vốn đầu tư NN
-
130
184
190
218
354
439
Nguồn : Số liệu thống kê Lao động - Thương binh và Xã hội
Nếu xét về tổng thể cơ cấu việc làm trong thời kỳ này thì thấy rằng: năm 1996 nếu tổng số việc làm là 100% thì các nhóm ngành sẽ là : nông, lâm, ngư nghiệp là 69%, xây dựng công nghiệp là 10.9% và dịch vụ 20.1% . Năm 2002 tỷ lệ tương ứng cho 3 nhóm ngành trên sẽ là 60.67%, 15.12% và 24.21%. Như vậy tỷ trọng việc làm trong nông, lâm, ngư đã giảm đi gần khoảng 9%, tương ứng là số việc làm tăng lên trong xây dựng, công nghiệp và dịch vụ trong thời kỳ năm 1996-2002.
Đối với cơ cấu việc làm theo thành phần kinh tế, chúng ta thấy xu hướng trăng trong cả 3 nhóm : nhà nước, ngoài quốc doanh và có vốn đầu tư nước ngoài. Nếu so sánh về tốc độ tăng việc làm trung bình năm thì thứ tự là thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài nhanh nhất (43%), sau đó đến nhà nước (5.35%) và ngoài nhà nước (1.64%). Điều này cũng có thể được giải thích vì kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài mới được hình thành và phát triển trong vài năm nay, kinh tế ngoài quốc doanh với số lượng lao động đông đảo đang dần được chú ý khuyến khích, đặc biệt sau Đại Hội Đảng VIII, còn đối với việc làm trong thành phần kinh tế nhà nước còn nhiều bất cập về tinh giảm biên chế và đang trong quá trình cải cách hành chính và bộ máy quản lý.
Khu vực ngoài quốc doanh, đặc biệt là kinh tế hộ gia đình và các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong khu vực phi kết cấu ở thành thị, là nơi có nhiều khả năng tạo việc làm vì những ưu thế về quy mô và chi phí thấp để tạo ra một chỗ làm việc, tính chất năng động và lợi ích trực tiếp của người lao động và trình độ quản lý. Tuy nhiên, tiềm năng thu hút thêm lao động của khu vực này cũng đang đối đầu với những khó khăn trong điều kiện mở cửa và hội nhập, sản phẩm kém tính cạnh tranh do chất lượng không cao, ngoài ra môi trường kinh doanh chưa ổn định, còn nhiều rủi ro, thiếu thông tin, thiếu sự hỗ trợ, hạn chế về vốn. Đối với khu vực nhà nước tạo việc làm cũng gặp thách thức không nhỏ. Nhiệm vụ và yêu cầu cải cách bộ máy quản lý và thủ tục hành chính đòi hỏi phải tinh giản biên chế, sắp xếp lại số biên chế hiện có, hạn chế nhận thêm lao động mới. Các doanh nghiệp Nhà Nước, măïc dù có nhiều khoản đầu tư và chính sách hỗ trợ, cũng gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh, trước yêu cầu nâng cao hiệu quả, năng lực cạnh tranh, chống độc quyền, do đó cơ hội tạo thêm việc làm là rất hạn hẹp. Hơn thế nữa tình trạng dư thừa lao động tại các doanh nghiệp nhà nước cũng đang là vấn đề đáng quan tâm với tỷ lệ lao động dôi dư năm 1999 lên tới hơn 9%. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tuy có tốc độ tăng trưởng trung bình hằng năm khá cao, khoảng 17% song tỷ trọng trong GDP còn thấp, hơn nữa phần lớn tập trung vào những ngành công nghiệp nặng, dầu khí, bất động sản, đó là nhữnh ngành cần nhiều vốn, có hệ số bảo hộ cao, bởi vậy khả năng thu hút lao động không nhiều. Sau nữa phải kể đến chất lượng lao động của nước ta còn yếu kém, trình độ tay nghề thấp, cơ cấu ngành nghề không phù hợp với yêu cầu, tỷ lệ lao động không có trình độ chuyên môn kỹ thuật còn rất cao, chiếm khoảng 90% lực lượng lao động, đặc biệt là nông thôn, vùng sâu vùng xa.
2.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến cầu lao động :
Lý thuyết kinh tế thị trường đã chỉ ra rằng, muốn tăng cầu lao động thì có hai cách, một là giảm tương đối tiền công và hai là khai thác các yếu tố tác động đến cầu lao động. Trước hết sự thay đổi cơ cấu kinh tế sẽ tác động mạnh đến số lượng và chất lượng cầu lao động. Nước ta với hơn 70% lực lượng lao động làm việc trong khu vực nông – lâm – ngư nghiệp, nhưng đang có xu hướng giảm mặc dù còn chậm do sức ép của quy mô lớn và tốc độ gia tăng dân số còn cao.Sự chuyển dịch cơ cấu sẽ diễn ra theo hai hướng; một là, chuyển một bộ phận lao động hiện có của khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ; hai là, có thể chuyển trong nội bộ khu vực từ nông nghiệp sang ngư nghiệp, vì ngư nghiệp ở nước ta có nhiều thuận lợi về điều kiện tự nhiên và đang được khuyến khích phát triển theo hướng hàng hóa thương phẩm và khai thác thị trường xuất khẩu. Điều kiện cần để thu hút lực lượng lao động vào công nghiệp và dịch vụ là yêu cầu về trình độ văn hóa, chuyên môn kỹ thuật và tay nghề, do đó vấn đề đào tạo và phát triển nguồn nhân lực có tầm quan trọng đặc biệt trong giai đoạn hiện nay. Ngoài ra, sự thay đổi cơ cấu tổng sản phẩm ( GDP) cũng tác động đến cầu lao động, một khi thu nhập đầu người tăng lên làm nhu cầu thay đổi theo hướng chuyển từ các hàng hóa nông nghiệp sang các hàng hóa công nghiệp và dịch vụ, kết quả làm tăng việc làm trong các khu vực kinh tế này.
Yếu tố thứ hai tác động đến việc làm là tăng trưởng kinh tế. Như đã biết hàm sản xuất được viết : Q = f(K,L), trong đó Q là sản lượng, K là vốn, L là lao động, f biểu thị công nghệ. Nếu công nghệ và giá cả là cố định thì tăng trưởng kinh tế sẽ làm tăng cầu lao động. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế thường kéo theo sự thay đổi công nghệ và sự thay đổi này thường tăng nhu cầu giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực, tăng nhu cầu lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật.
Yếu tố thứ ba là lựa chọn kiểu và mức độ công nghiệp hóa. Đảng và nhà nước ta xác định đường lối phát triển đất nước là công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Một trong những khó khăn gặp phải là làm thế nào để công nghiệp hóa có khả năng tạo đủ việc làm cho lực lượng lao động lớn và đang tăng lên ở nước ta. Rõ ràng là phải đứng trước sự lựa chọn “ công nghệ với chi phí tối thiểu” để sử dụng lao động nhiều hơn thay vì nhập khẩu và áp dụng các công nghệ với dung lượng lớn. Bởi vậy chiến lược đặt ra là làm sao thúc đẩy các ngành công nghiệp nhỏ, cả truyền thống và hiện đại, thường có khả năng tạo việc làm nhiều hơn, khả thi hơn về vốn đối với lựa chọn công nghệ.
Thứ tư là yếu tố giá cả. Đây là yếu tố ảnh hưởng gián tiếp đến việc làm. Như đã biết, mối liên hệ giữa giá cả và cầu lao động có thể được biểu diễn như sau: p*Q=W*L + r*K, trong đó p là mức giá, Q là sản lượng đầu ra, W là mức tiền công, r là lãi suất vốn. Giá cả là yếu tố quan trọng trong việc lựa chọn các phương án sản xuất, tác động đến tỷ trọng lao động và vốn. Ở nước ta cũng như trong nhiều nước đang phát triển, giá cả dao động với biên độ lớn, làm sai lệch lớn so với giá trị hàng hóa, do chính sách tài chính tín dụng, ngân hàng đang chuyển đổi và hiện đại hóa. Mặt khác, nếu điều tiết tiền lương, tiền công không tốt sẽ làm biến dạng giá cả, chẳng hạn nếu tăng tiền lương ở khu vực quản lý nhà nước và hành chính sự nghiệp và vẫn giữ nguyên biên chế thì sẽ làm tăng tiền lương đối với khu vực khác.
Thứ năm là yếu tố phân phối thu nhập và các hình thức tiêu dùng. Nếu các hình thức tiêu dùng như thế nào đó để có nhu cầu lớn đối với hàng hóa trong nước và các dịch vụ được tạo ra bởi các phương pháp sản xuất cần nhiều lao động, thì sẽ tăng được nhu cầu tiêu dùng, kết quả sẽ làm tăng nhu cầu lao động. Trái lại, nếu nhu cầu tiên dùng chỉ hướng tới các sản phẩm và hàng hóa nhập ngoại, được sản xuất bởi các phương pháp công nghệ cần nhiều vốn, thì dẫn đến giảm nhu cầu lao động. Các hình thức tiêu dùng tác động quan trọng đến nhu cầu lao động. Mặt khác, các nhu cầu tiêu dùng chịu tác động bởi các yếu tố khác, trong đó có các loại hình phân phối thu nhập trong xã hội. Các hộ gia đình có mức thu nhập trung bình và cao thường có xu hướng tiêu dùng thiên về các hàng hóa nhập ngoại. Đối với các gia đình nghèo có thu nhập thấp không thể tăng mức tiêu dùng, nên thường tiêu dùng các hàng hóa địa phương, do đó khuyến khích sản xuất phát triển, tăng cầu lao động, mở rộng thêm việc làm.
Thứ sáu là chính sách khuyến khích tự tạo việc làm. Đây là yếu tố quan trọng đối với đặc điểm ở nước ta. Đảng và Nhà Nước khuyến khích phát triển mọi thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân. Điều này đòi hỏi một thể chế ổn định. Tất cả các nhà đầu tư, dù lớn hay nhỏ đều đòi hỏi sự ổn định để có thể hoạch định và xúc tiến các dự án đầu tư . Sự ổn định này đòi hỏi trên hai phương diện. Một là, hệ thống luật lệ điều tiết hoạt động kinh tế tư nhân không được thay đổi thường xuyên, trừ các hành vi tháo gỡ vướng mắc và nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường. Hai là, về tổng thể nền kinh tế phải ổn định. Mất ổn định kinh tế sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng, do đó cản trở tự tạo việc làm, cũng như cải thiện tiền công. Trên giác độ này, tỷ trọng nhân công phải tự tạo việc làm sẽ tăng trong thời kỳ suy thoái, vì do mất việc làm, tiền công trong khu vực hiện đại cũng bị cắt giảm. Tự tạo việc làm sẽ không có ý nghĩa nếu như không là tăng sản lượng và nâng cao mức sống.
Ngoài ra Nhà nước cần có chính sách đối xử bình đẳng giữa các thành phần kinh tế về vay vốn, tỷ giá hối đoái, xuất nhập khẩu, đăng ký hàng hóa, thuế….Mặt khác đồng thời với cải cách hành chính, bỏ các thủ tục phiền hà, chống hối lộ, tham nhũng, Nhà nước cần thiết phải chú ý đến các chính sách xã hội như phát triển giáo dục, đào tạo, xóa đói giảm nghèo, phát triển cơ sở hạ tầng.
3) Các giải pháp, giải quyết cung cầu trên thị trường lao động Việt Nam :
Nét đặc trưng của tình hình hiện nay ở Việt Nam là : trong khi kinh tế còn nghèo, lạc hậu thì dân số, các nguồn lực lại tăng nhanh, đã tạo ra một sức ép đối với kinh tế. Đồng thời, kinh tế còn chưa đủ điều kiện để sử dụng hết và hiệu quả mọi nguồn nhân lực. Vậy phải nghiên cứu một hệ thống các giải pháp, chọn lọc và đưa vào áp dụng. Các giải pháp không nhất thiết phải cố định mà có thể thay đổi cho phù hợp với các điều kiện kinh tế – xã hội của từng thời kỳ. Dưới đây là một số giải pháp đáng chú ý nghiên cứu áp dụng:
+ Tìm kiếm mô hình tăng trưởng, phát triển kinh tế có khả năng sử dụng nhiều nguồn nhân lực phù hợp với điều kiện Việt Nam. Khi nghiên cứu, lựa chọn mô hình tăng trưởng, phát triển có liên quan đến nguồn nhân lực cần xét kỹ các yếu tố sau :
ịVốn đầu tư và mối quan hệ của vốn đầu tư với việc thu hút nguồn nhân lực. Điều này rất rõ ràng, cần đặc biệt chú ý. Vì lẽ, không có vốn đầu tư đưa vào sản xuất, các nguồn nhân lực sẽ bị ứ đọng, không có các tiền đề vật chất để hoạt động. Vốn đầu tư nhiều, tăng nhanh chứng tỏ khả năng tái sản xuất mở rộng, khả năng tích lũy của một nền kinh tế. Nói cách khác, đó là điều kiện có tính chất quyết định để thu hút các nguồn nhân lực vào tăng trưởng.
ị Kỹ thuật và công nghệ của sản xuất có liên quan đến sử dụng nhiều hay ít nhân lực. Có loại kỹ thuật, công nghệ đòi hỏi vốn cao ( hàm lượng vốn lớn ), nhưng lại chỉ sử dụng ít nhân lực (hàm lượng lao động thấp). Ngược lại, có kỹ thuật, công nghệ vốn ít nhưng sử dụng được nhiều nhân lực. Không có phương án tuyệt đối, đáp ứng được nhiều yêu cầu một lúc : vốn ít, kỹ thuật cao, sử dụng nhiều nhân lực, năng suất lao động cao. Vì thế, các nhà kinh tế phải lựa chọn để dùng phương án tối ưu.
ị Giá cả nhân lực rẻ, tạo khả năng cho lợi thế cạnh tranh trên thị trường, ưu thế này rất rõ ràng đối với một số nước chậm phát triển, tạo ra thuận lợi nhất định cho việc lựa chọn mô hình, đặc biệt là mô hình tăng trưởng, phát triển theo hướng công nghiệp xuất khẩu. Tuy nhiên không nên tuyệt đối hóa ưu thế nhân lực rẻ trong mọi tình huống.
+ Tìm kiếm các chính sách tạo công ăn việc làm có hiệu quả ở trong nước và ngoài nước.
+ Có mục tiêu trong kế hoạch hóa sự tăng trưởng của dân số theo hướng giảm tốc độ tăng dân số hiện đang còn cao. Tuy nhiên, việc giảm dân số tác động đến các nguồn nhân lực không phải ngay trong cùng một năm. Phải sau 15 năm mới có ảnh hưởng đến các nguồn nhân lực; vì lẽ từ lúc sinh ra đến lúc bước vào độ tuổi lao động cần phải có một thời gian như vậy. Đây là một giải pháp mà hầu hết các nước chậm phát triển đều áp dụng, trong đó có cả mục đích làm giảm bớt số lượng cung về nhân lực.
C. LUẬT VỀ TIỀN LƯƠNG TỐI THIỂU LÀM GIA TĂNG TỶ LỆ THẤT NGHIỆP VÀ SỰ KHÔNG HIỆU QUẢ :
1. Luật tiền lương tối thiểu :
Năm 1989, luật tiền lương tối thiểu ở Mỹ không giống như luật ở các nước phát triển khác, ấn định mức tiền lương bằng đôla thống nhất trên toàn quốc. Không có sự khác nhau trên cơ sở tuổi tác hoặc kinh nghiệm làm việc, dẫu rằng ở một vài bang, mức lương tối thiểu được quy định cao hơn mức lương tối thiểu của toàn liên bang. Ngược lại, ở hầu hết các nước Châu Âu có sự phân biệt tiền lương đối với những người trẻ tuổi. Ở Anh, mức lương tối thiểu của thanh niên chỉ bằng 30% mức lương tối thiểu của những người trưởng thành. Ở Canada, các bảng lương tối thiểu được các tỉnh đưa ra chứ không phải là chính phủ Trung ương, họ tự tính toán trên cơ sở những khác biệt giữa các vùng địa lý. Không có sự khác nhau ở Mỹ khiến chúng ta đoán trước rằng gánh nặng của những ảnh hưởng thất nghiệp của luật tiền lương tối thiểu sẽ đè lên những vùng lương thấp như những nhóm công nhân trẻ.
Những ảnh hưởng tới nhóm công nhân trẻ đã được một số người nghiên cứu kiểm n