Mục lục
Lời mở đầu 3
I. Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư 4
1. Sự hình thành và phát triển của trợ giúp pháp lý ở Việt Nam 4
2. Vai trò của luật sư trong hoạt động trợ giúp pháp lý 9
3. Thực trạng hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư 11
II. Phương hướng - giải pháp cho hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư 14
Lời kết 16
Tài liệu tham khảo 17
16 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7588 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư Thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
åu thực trạng của hoạt động này.
I. HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ
1. Sự hình thành và pháp triển của trợ giúp pháp lý ở Việt Nam
Theo nghĩa rộng, nói đến nghề luật là nói đến công việc chuyên môn của những người hoạt động liên quan đến pháp luật như: Thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên, luật sư, chấp hành viên, giám định viên, công an….hay những nghề liên quan đến luật như công chứng viên, chuyên viên pháp lý, giảng viên dạy luật……Hiểu theo nghĩa này, chúng ta dễ thấy rằng nghề luật thật đa dạng, phong phú. Cụ thể hơn ở nghĩa hẹp, khi đề cập đến nghề luật là chúng ta liên tưởng đến nghề luật sư. Nghề luật sư là nghề luật tiêu biểu, thể hiện đầy đủ những đặc trưng của nghề luật. Nghề luật sư có những khác biệt với những nghề liên quan đến pháp luật nêu trên không chỉ ởù chức năng, theo sự phân công của xã hội, mà còn ở chổ nó được thể hiện qua các phương thức hành nghề một cách tự do, độc lập trên cơ sở pháp luật và tuân theo pháp luật. Nghề luật sư không giống như những nghề bình thường khác vì ngoài những yêu cầu về kiến thức và trình độ chuyên môn thì yêu cầu về nghề luật sư còn phải tuân thủ theo quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp, đây là một nét đặc thù riêng của nghề luật sư. Một trong những đức tính thể hiện đạo đức trong hoạt đồng nghề nghiệp của luật sư là tính trợ giúp. Do sự phát triển không đồng đều cả về đời sống vật chất lẫn tinh thần trong cộng đồng xã hội, bất kỳ xã hội nào trong cộng đồng dân cư cũng tồn tại những người rơi vào vị thế thấp kém so với mặt bằng chung của xã hội như: người nghèo, người già đơn côi, người tàn tật, người chưa thành niên… thiếu sự quan tâm chăm sóc, thương yêu của gia đình và xã hội, họ dường như bị lãng quên trong cộng đồng xã hội, kém hiểu biết về pháp luật, do vậy họ thường bị ức hiếp, bị đối xử bất công trái pháp luật, nhóm người này rất cần sự giúp đở, bênh vực của những khác, đặc biệt là cần sự trợ giúp vô tư không vụ lợi của những người có kiến thức, hiểu biết sâu rộng về pháp luật, có trình độ chuyên môn về luật như luật sư để bênh vực và bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho họ. Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư đối với những đối tượng này không chỉ là bổn phận, trách nhiệm mà còn là thước đo lòng nhân ái, đạo đức thể hiện tính nhân văn của luật sư.
So với nền tư pháp nhân dân của chế độ mới với một bề dày lịch sử, gắn liền với sự ra đời, hình thành và phát triển của nhà nước kiểu mới – nhà nước dân chủ nhân dân thì hoạt động trợ giúp pháp lý ra đời muộn hơn và cũng còn mới mẻ ở Việt Nam so với các hoạt động tư pháp khác. Hoạt động này chỉ mới ra đời vào 1997 dựa trên nền tảng những thành tựu phát triển vượt bậc trong công cuộc đổi mới, sự kiểm nghiệm thành công cùng những định hướng đúng đắn được vạch ra trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa và sự pháp triển của dịch vụ pháp lý nói chung và đặc biệt là nghề luật sư ở Việt Nam nói riêng. Cùng với việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Xã hội phát triển, phồn vinh cần phải được quản lý và đảm bảo bằng pháp luật. Nhà nước thực hiện công cuộc cải cách tư pháp vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh thì vấn đề hiểu biết và nhận thức pháp luật của mỗi người dân cũng như toàn xã hội là một yêu cầu tất yếu. Trong công cuộc này thì công tác trợ giúp pháp lý đóng vai trò rất quan trọng do nhu cầu giúp đỡ pháp luật của nhân dân ngày một càng cao.
Năm 1982, Việt Nam tham gia hai Công ước lớn: Công ước về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa; và Công ước về các quyền dân sự và chính trị. Theo phần d, điểm 3, Điều 14 Công ước về quyền dân sự và chính trị, quá trình xét xử một tội hình sự, mỗi người đều có quyền đòi hỏi một cách hoàn toàn bình đẳng những bảo đảm tối thiểu là “ được có mặt trong khi xét xử và được tự bào chữa hoặc nhờ sự giúp đỡ về pháp lý do mình chọn, nếu chưa có sự giúp đỡ về pháp lý thì phải được thông báo về quyền này, trong trường hợp do lợi ích của công lý đòi hỏi, phải bố trí cho người đó một sự giúp đỡ pháp lý mà người đó không phải trả tiền nếu không có đủ điều kiện trả”. Việc tham gia các Công ước này đòi hỏi Nhà nước ta phải đổi mới tư duy về quyền được tiếp cận luật sư, người có kiến thức pháp luật của mọi công dân không phân biệt giàu nghèo, tạo tiền đề cho việc nghiên cứu và hoàn thiện chế định tư pháp bảo trợ với nội dung và phương thức mới, không chỉ dừng lại ở bảo đảm quyền bào chữa mà còn gắn với quyền được tiếp cận và sử dụng pháp luật của công dân, nhất là những người có hoàn cảnh đặc biệt nhằm đảm bảo công bằng xã hội.
Ngày 18 tháng 12 năm 1987, Pháp lệnh tổ chức luật sư ra đời, tạo cơ sở cho việc hình thành và phát triển đội ngũ luật sư Việt Nam. Theo Pháp lệnh, luật sư thực hiện tư vấn pháp luật và các dịch vụ pháp lý khác có giảm chi phí hoặc miễn thù lao cho một số đối tượng trong những trường hợp cụ thể. Thể chế Pháp lệnh năm 1987, Quy chế Đoàn luật sư ban hành kèm theo Nghị định số 15-HĐBT ngày 21 tháng 02 năm 1989 của Hội đồng Bộ trưởng đã xác định rõ các trường hợp được miễn, giảm thù lao như: nguyên đơn ở Tòa án các cấp trong các vụ việc về đòi tiền cấp dưỡng nuôi con; khiếu nại về việc bầu cử Hội đồng nhân dân; thương binh nặng; đòi bội thường thiệt hại do tai nạn lao động……..Ngòai ra, những người có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, hoặc trường hợp đặc biệt khác và đương sự có đơn yêu cầu thì Ban chủ nhiệm Đoàn luật sư sẽ xem xét việc miễn hoặc giảm chi phí.
Trước bối cảnh Việt Nam tham gia ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, việc mở rộng quan hệ đầu tư, hợp tác với các nước ngày càng đòi hỏi phải phát triển thị trường dịch vụ pháp lý của luật sư. Yêu cầu đó đặt ra vấn đề cần tạo môi trường, hành lang pháp lý thuận lợi cho hoạt động của các tổ chức luật sư nước ngoài vào hành nghề tại Việt Nam nhằm góp phần thúc đẩy đầu tư và phát triển kinh tế đối ngoại trong thời kỳ đổi mới đất nước. Trước yêu cầu đó, ngày 18 tháng 05 năm 1995, tại phiên họp Ban bí thư Trung ương Đảng, nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười khẳng định “ Chúng ta cần chú ý đến các biện pháp để tăng cường hoạt động pháp lý mang tính kinh doanh, dịch vụ phục vụ đầu tư nhưng cũng cần chú trọng công tác tư vấn, hướng dẫn pháp luật cho nhân dân, mà đặc biệt là người nghèo, đồng bào dân tộc ít người. Công tác này chưa được quan tâm đúng mức. Đây là một vấn đề cần được nghiên cứu và làm ngay trong thời gian tới”.
Ngày 06 tháng 09 năm 1997, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 734/TTg thành lập hệ thống tổ chức trợ giúp pháp lý của Nhà nước. Theo đó, Trương ương, Cục Trợ giúp pháp lý thuộc Bộ Tư pháp được thành lập – căn cứ vào Điều 1, ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Trung tâm trợ giúp pháp lý của Nhà nước trực thuộc Sở Tư pháp được thành lập – căn cứ vào Điều 4. Cục Trợ giúp pháp lý vừa có chức năng giúp Bộ trưởng Bộ tư pháp quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý, vừa trực tiếp thực hiện trợ giúp pháp lý trong trường hợp cần thiết; thực hiện việc hợp tác quốc tế về trợ pháp lý và quản lý Quỹ trợ giúp pháp lý; tổ chức bồi dưỡng, đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng trợ giúp pháp lý cho đội ngữ cán bộ trợ giúp pháp lý và cộng tác viên; tham gia phổ biến và giáo dục pháp luật cho người nghèo và đối tượng chính sách - căn cứ vào Điều 2. Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước có chức năng thực hiện trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo và các đối tượng chính sách.
Năm 2001, Pháp lệnh Luật sư được thông quan, Pháp lệnh đã thiết lập cơ chế pháp lý khuyến khích, huy động đội ngũ luật sư tham gia trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo và đối tượng chính sách – căn cứ Điều 6. Ngày 05 tháng 08 năm 2002, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Quy tắc mẫu về đạo đức hành nghề luật sư kèm theo Quyết định số 356/2002/QĐ-BTP. Theo quy chế việc thực hiện trợ giúp pháp lý là nghĩa vụ cao cả của các luật sư. Khi thực hiện trợ giúp pháp lý, luật sư phải tận tâm, tích cực thực hiện như đối với các vụ việc có thù lao và nghĩa vụ thực hiện trợ giúp pháp lý là một trong những quy tắc đạo đức nghề nghiệp mà luật sư phải tuân thủ trong quá trình hành nghề của mình – căn cứ Quy tắc 4.
Như phần đầu bài viết đã đề cập, để mọi người sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, xây dựng một xã hội văn minh thì việc hiểu và nhận thức pháp luật cho mọi người và toàn xã hội là một yêu cầu tất yếu. Việc trợ giúp pháp lý mới chỉ dừng lại ở một nhóm đối tượng đặc biệt nhất định đó là chủ yếu những người nghèo, đối tượng chính sách, ít được tiếp xúc công tác pháp lý lại chịu ảnh hưởng trực tiếp từ sự thiếu hiểu biết pháp luật, dễ bị thiệt thòi, bởi vậy càng phải nâng cao vai trò của các tổ chức, đoàn thể xã hội trong việc huy động, tạo điều kiện khuyến khích các nguồn lực xã hội tham gia trợ giúp pháp lý giúp họ tiếp cận và nhận thức về pháp luật.
Để đáp ứng yêu cầu tư vấn pháp luật và giúp đỡ về mặt pháp lý cho mọi đối tượng, Luật Luật sư ra đời đã được Quốc hội khóa XI kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29 tháng 06 năm 2006. Nhận thức được đối tượng chủ yếu là người nghèo, đối tượng chính sách, cần được trợ giúp về nhiều mặt trong đó có vấn đề cần trợ giúp về mặt nhận thức pháp lý, cũng tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XI, thông qua Luật Trợ giúp pháp lý ngày 29 tháng 06 năm 2006. Đây là văn bản pháp lý cao nhất, được thể chế hóa thành luật và quy định đối tượng đặc thù cần trợ giúp về mặt pháp lý. Thể hiện sự nhận thức đúng đắn, sự quan tâm hợp lý của Đảng và Nhà nước về công tác trợ giúp pháp lý cho một nhóm đối tượng cụ thể, đánh dấu bước chuyển về chất và đưa công tác trợ giúp pháp lý lên một tầm cao mới phù hợp với yêu cầu phát triển của thực tiễn đất nước.
2. Vai trị của luật sư trong hoạt động trợ giúp pháp lý
Tham gia trợ giúp pháp lý là bổ phận, trách nhiệm với xã hội, là đóng góp rất có ý nghĩa, rất nhân văn của Luật sư
Theo Điều 6 Pháp lệnh Luật sư năm 2001 về khuyến khích hoạt động trợ giúp pháp lý quy định “ Nhà nước và xã hội khuyến khích các luật sư và các tổ chức hành nghề luật sư tham gia hoạt động trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo và người được hưởng chính sách ưu đãi theo quy định của pháp luật”.
Tại Điều 6 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 quy định “ Nhà nước giữ vai trò nòng cốt trong việc thực hiện, tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý; khuyến khích, tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, tổ chức hành nghề luật sư và Luật sư, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác tham gia thực hiện, đóng góp, hỗ trợ hoạt động trợ giúp pháp lý”.
Tại Điều 8 Luật Luật sư năm 2006 quy định “ Nhà nước khuyến khích luật sư và tổ chức hành nghề luật sư tham gia hoạt động trợ giúp pháp lý miễn phí”; quy tắc mẫu đạo đức hành nghề Luật sư do Bộ Tư pháp ban hành cũng quy định “ Thực hiện trợ giúp miễn phí cho người nghèo và các đối tượng chính sách là nghĩa vụ cao cả của luật sư. Khi làm trợ giúp phải tận tâm đối với công việc và không đuợc đòi hỏi bất kỳ lợi ích nào từ người mình có trách nhiệm trợ giúp”.
Các quy định trên là hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc hiến định của nước ta, đó là: Nhà nước và xã hội bảo đảm cho các đối tượng có khó khăn về kinh tế, đối tượng được hưởng chính sách ưu đãi, đối tượng được Nhà nước quan tâm bảo vệ, nhằm giúp cho họ được bảo đảm các quyền tối thiểu về xã hội, được giảm bớt phần nào khó khăn, thua thiệt cho họ.
Quy định luật sư có nghĩa vụ tham gia hoạt động trợ giúp pháp lý miễn phí là hoàn toàn đúng đắn vì luật sư là người có chức năng và nghiệp vụ tham gia các hoạt động tố tụng, tư vấn pháp luật và dịch vụ pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, và luật sư – bằng hoạt động nghề nghiệp của mình, góp phần bảo vệ công lý, công bằng xã hội và pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Qua thực tiễn cho thấy luật sư có vai trò quan trọng trong hoạt động trợ giúp pháp lý, những đối tượng chính sách có thể nhờ luật sư thực hiện các hình thức trợ giúp từ đơn giản đến phức tạp và rất phong phú như:
Tư vấn, giải đáp pháp luật
Đại diện để giải quyết các vụ kiện tụng tại tòa án
Thực hiện bào chữa trong các vụ án hình sự
Tham gia phiên tòa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong các vụ án hôn nhân và gia đình, dân sự, lao động.
Tuy tác nghiệp về chuyên môn nghiệp vụ trong các vụ việc giúp đỡ cho các đối tượng chính sách, người nghèo cũng giống như đối với các khách hàng có thù lao, nhưng trong các hoạt động trợ giúp pháp lý cũng có những điểm khác, đòi hỏi luật sư phải có kỹ năng và chuyên môn đặc biệt cụ thể. Đặc biệt, trong hoạt động trợ giúp trong tố tụng với các chủ thể là đối tượng đặc biệt như:
Phụ nữ: thường là nạn nhân của bạo lực gia đình, cô đơn, góa bụa, bị ruồng bỏ, không có điều kiện kinh tế, yếu thế. Do vậy việc tìm hiểu hoàn cảnh và các tình tiết éo le trước khi nghiên cứu hồ sơ và tham gia phiên tòa là rất cần.
Trẻ em: thường là nạn nhân của sự bóc lộc sức lao động, việc sử dụng lao động trái quy định pháp luật về lao động, là nạn nhân của sự ngược đãi, đánh đập, bị bỏ mặc, không quan tâm, giáo dục của gia đình, do đó bị đẩy vào con đường phạm tội.
Người già và người tàn tật: Cần phải tìm hiểu hoàn cảnh gia đình, con cái của họ, và cuộc sống hiện tại của họ để có thể tìm ra biện pháp bảo đảm quyền lợi cho họ.
Thanh thiếu niên: đây là loại người dễ bị kích động do bị lôi kéo bởi những phần tử xấu trong xã hội dẫn đến phạm tội. Để công tác bào chữa có hiệu quả, cần phải nghiên cứu hoàn cảnh phạm tội, chỉ ra cho họ thấy con đường sai lầm mà họ đã phạm vào và hướng sửa chữa thành người công dân có ích cho xã hội.
3. Thực trạng hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư
Luật trợ giúp pháp lý và Luật Luật sư cùng chính thức có hiệu lực thi hành bắt đầu từ ngày 01 tháng 01 năm 2007. Với hai đạo luật cơ bản này, một hành lang pháp lý đã được hình thành tương đối đầy đủ, tạo cơ sở cho hoạt động trợ giúp pháp lý phát triển cũng như góp phần giải quyết những trở ngại trong công tác tìm kiếm các cộng tác viên trợ giúp pháp lý miễn phí tại các trung tâm và các chi nhánh hoạt động trợ giúp. Bước đầu đã có một số luật sư tích cực tự nguyện tham gia công tác này, tuy nhiên chỉ chiếm con số rất ít, khoảng 6% trong tổng số luật sư hành nghề trong cả nước.
Trong Luật trợ giúp pháp lý, các đối tượng như người nghèo, người có công Cách mạng, người già cô đơn, người tàn tật và trẻ em không nơi nương tựa, người dân tộc thiểu số thường trú ở vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn….sẽ được cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý miễn phí. Thông qua trợ giúp pháp lý, người dân sẽ có điều kiện nâng cao sự hiểu biết về pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật. Đồng thời góp phần vào việc phổ biến giáo dục pháp luật, bảo vệ công lý, đảm bảo công bằng xã hội, ngăn ngừa, hạn chế các tranh chấp và vi phạm pháp luật. Trong Luật Luật sư quy định: “Nhà nước khuyến khích luật sư và tổ chức hành nghề luật sư tham gia hoạt động trợ giúp pháp lý miễn phí”. Đồng thời yêu cầu: Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý miễn phí theo Điều lệ của tổ chức luật sư toàn quốc và khi thực hiện trợ giúp pháp lý miễn phí, luật sư phải tận tâm với người được trợ giúp pháp lý như đối với khách hàng trong những vụ, việc có thù lao (Điều 31 – Luật Luật sư nằm 2006). Nhưng trên thực tế còn nhiều hạn chế và việc thực thi không hoàn tòan được như vậy.
Nhiều luật sư không mặn mà đối với hoạt động trợ giúp pháp lý mặc dù luật sư đã được tạo điều kiện như: Sở Tư pháp – Công an – Viện kiểm sát nhân dân – Tòa án nhân dân thành phố đã ban hành Quy chế liên ngành số 58/QCLN/TP-CA-VKS-TA ngày 10 tháng 06 năm 2006 về hoạt động trợ giúp pháp lý trong tố tụng hình sự. Trong đó tháo gỡ khá nhiều vướng mắc đối với hoạt động của luật sư khi tham gia bào chữa tại các vụ án hình sự. Cụ thể, cơ quan tiến hành tố tụng sẽ giảm bớt các thủ tục hành chính không cần thiết, tạo điều kiện cho luật sư do trung tâm giới thiệu trong việc cấp giấy chứng nhận người bào chữa, nghiên cứu hồ sơ, tiếp xúc với các đối tượng và thực hiện các quyền, nghĩa vụ khác theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bên cạnh đó, còn thực hiện xác nhận cho luật sư về thời gian nghiên cứu hồ sơ, thời gian tiếp xúc đối tượng tại nơi tạm giam, tạm giữ. Mặt khác, đối với những người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà trong hồ sơ vụ án thể hiện là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần thì các cơ quan tiến hành tố tụng thông báo bằng văn bản cho trung tâm mà không cần đơn của đối tượng….Mặt khác, mỗi năm các luật sư phải thực hiện một số vụ trợ giúp pháp lý miễn phí nhất định. Đây được coi là việc các luật sư thực hiện trách nhiệm đối với xã hội. Tuy nhiên vì kinh phí còn hạn chế nên các luật sư cũng không hào hứng với hoạt động này. Vậy nguyên nhân thực trạng trên là do đâu?
Về khách quan, mặc dù hoạt động trợ giúp pháp lý đã bắt đầu tiến hành nhưng theo điều tra chỉ có 6% số dân biết về hoạt động này mặc dù nhu cầu trợ giúp pháp lý của nhân dân rất lớn và trên thực tế công tác này cũng chưa đáp ứng được yêu cầu của đông đảo quần chúng. Số lượng cán bộ pháp lý, Cộng tác viên thời gian tại các Trung tâm Trợ giúp pháp lý của Nhà nước chưa nhiều. Công tác trợ giúp pháp lý lưu động đến vùng sâu vùng xa, đồng bào dân tộc, hàng năm đã triển khai nhưng cũng có những hạn chế nhất định, đội ngũ luật sư hiện nay đã phát triển nhanh chóng về số lượng và chất lượng, tuy nhiên so với nhu cầu về dịch vụ pháp lý và xu thế gia tăng của nhu cầu này trong những năm tới thì số lượng luật sư ở nước ta còn chưa tương xứng. Nếu so sánh số lượng luật sư trên số dân với một số nước trong khu vực và trên thế giới thì thấy rõ tỉ lệ này ở nước ta còn quá thấp (tỉ lệ số luật sư trên dân số ở Việt Nam là 1/14.500, ở Singapore là 1/1.000, ở Thái Lan là 1/1.200, ở Nhật Bản là 1/4.500, ở Mỹ là 1/250…). Thậm chí, một số tỉnh chưa có đủ luật sư để thành lập Đoàn luật sư.
Số lượng luật sư ở nước ta phát triển quá chênh lệch giữa khu vực thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, trung du, hạn chế khả năng cung ứng dịch vụ pháp lý, đáp ứng nhu cầu của nhân dân, các đối tượng muốn được trợ giúp pháp lý. Ở các tỉnh nhỏ, đặc biệt là miền núi, rất thiếu luật sư. Một trong các lý do thiếu luật sư nữa là quyền và nghĩa vụ của luật sư chưa được pháp luật bảo đảm và quy định rõ, cũng như vị thế còn quá yếu trong tố tụng. Điều này ít nhiều cũng không khuyến khích các cử nhân luật trẻ trở thành luật sư.
Trong Luật Luật sư quy định, mỗi luật sự phải thực hiện 80 giờ làm công tác trợ giúp pháp lý miễn phí trong một năm. Ngoài ra cũng khuyến khích luật sư có thể làm thêm. Trợ giúp pháp lý chủ yếu là trên cơ sở tự nguyện. Nếu so sánh thù lao với việc bảo vệ quyền lợi, bào chữa theo tố tụng trả phí của Luật Luật sư thì luật sư giỏi tham gia trợ giúp pháp lý miễn phí là rất khó vì luật sư tham gia trợ giúp pháp lý miễn phí là thể hiện sự tự nguyện của họ. Trong khi đó, thu nhập thự tế của các luật sư khi thực hiện các dịch vụ pháp lý có thù lao cao hơn rất nhiều.
Chính những vấn đề về pháp lý, đạo lý và thực tiễn đó đã tạo nên rào cản vô hình ngăn luật sư, các tổ chức hành nghề luật sư không tham gia trợ giúp pháp lý. Nhưng thực chất, cốt lõi của vấn đề chính là sự nhiệt tình, tự nguyện, tích cực của bản thân mỗi luật sư trong công việc này.
II. PHƯƠNG HƯỚNG – GIẢI PHÁP CHO HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ
Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và hòa mình vào dòng chảy toàn cầu hóa, pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật về luật sư nói riêng đã không ngừng hoàn thiện, sửa đổi bổ sung để tạo cơ sở pháp lý cho việc phát triển đội ngũ luật sư và nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ luật sư. Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đặt ra yêu cầu cấp bách là đất nước cần có một đội ngũ luật sư có tài năng và có đạo đức nghề nghiệp. Người luật sư tham gia trợ giúp pháp lý phải có tâm, có tầm, có nghị lực, có sức khỏe cộng với sự cảm thông, chia sẻ với những đối tượng kém may mắn, người nghèo, người khuyết tật, trẻ em…. Bên cạnh đó còn đòi hỏi người luật sư phải có tính kiên trì, nhẫn nại, chịu khó, biết lắng nghe, hiểu tâm lý từng nhóm người vì việc tiếp cận với người yếu thế đôi khi khó khăn, trở ngại trong việc đi lại do họ ở vùng sâu, vùng xa, với rào cản về tiếng nói, nhận thức, tâm lý và sự kỳ thị. Lĩnh vực trợ giúp pháp lý mang tính đặc thù bởi đối tượng trợ giúp pháp lý được quy định tại Điều 10 Luật trợ giúp pháp lý năm 2006. Dưới góc độ nào đó, người luật sư tham gia trợ giúp pháp lý là người đi làm phúc, là những người có nghĩa hiệp. Hoạt động trợ giúp pháp lý miễn phí của luật sư thể hiện được vai trị xã hội của mỗi luật sư và giới luật sư với cộng đồng xã hội, thể hiện trách nhiệm xã hội của giới luật sư trong việc quan tâm tới những vấn đề xã hội. Biết chia sẻ, biết đùm bọc, thương yêu, đồn kết, kế thừa phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc bằng tấm lịng và khả năng vốn cĩ của mình.
Luật trợ giúp pháp lý năm 2006 quy định “ Nhà nước giữ vai trò nòng cốt trong việc thực hiện, tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, khuyến khích, tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, tổ chức hành nghề luật sư và luật sư, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác tham gia thực hiện, đóng góp, hỗ trợ hoạt động trợ giúp pháp lý”. Tuy nhiên, hiện tại pháp luật lại không quy định bắt buộc luật sư phải tham gia trợ giúp pháp lý, hình thức th
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai tieu luan ve Nghe LS 2012.doc