Tiểu luận Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật hiện hành – Một số vấn đề lý luận và thực tiền

MỤC LỤC

MỤC LỤC 1

LỜI MỞ ĐẦU 1

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 2

I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM 2

II. HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ 3

1. Lý luận chung về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự. 3

1.1. Khái niệm 3

1.2 Đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự 3

2. Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật. 6

2.1. Chủ thể của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự. 6

2.2. Hình thức của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự 7

2.3. Đối tượng của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự. 8

2.4. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự. 9

III. MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ 14

1. Nhận xét về thực trạng 14

2 Kiến nghị hướng hoàn thiện pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự 16

KẾT LUẬN 18

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 18

 

 

doc19 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5137 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật hiện hành – Một số vấn đề lý luận và thực tiền, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
với bảo hiểm tài sản) hoặc đã phát sinh trách nhiệm dân sự - trách nhiệm bồi thường của họ đối với người thứ ba (trường hợp bảo hiểm trách nhiệm dân sự) Vì vậy, trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối tượng được hướng đến là trách nhiệm về bồi thường thiệt hại, “ Đối tượng của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự là trách nhiệm dân sự của người tham gia bảo hiểm đối với bên thứ ba theo quy định của pháp luật ”. (Điều 52 Luật kinh doanh bảo hiểm) Đây chính là điểm khác biệt giữa loại hình bảo hiểm thiệt hại với các loại hình bảo hiểm khác như bảo hiểm con người mà ở trong đó, yếu tố thiệt hại không nhất thiết là cần có. Thứ hai, trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự, lỗi của người tham gia bảo hiểm trong khi thực hiện hành vi gây thiệt hại cho người thứ ba chính là cơ sở để phát sinh trách nhiệm dân sự của người tham gia bảo hiểm. Trong khi thực hiện hành vi gây thiệt hại cho người thứ ba chính là cơ sở để phát sinh trách nhiệm dân sự của người tham gia bảo hiểm đối với người thứ ba và do đó, cũng làm cơ sở để làm phát sinh trách nhiệm bồi thường của bên bảo hiểm đối với người thứ ba, thay cho bên tham gia bảo hiểm. Yếu tố lỗi trong trường hợp này được hiểu là lỗi vô ý hoặc cố ý vi phạm quy định của pháp luật mà gây ra thiệt hại cho người thứ ba, chứ không phải cố ý trực tiếp gây thiệt hại nhằm mục đích trục lợi. Trên thực tế lỗi trong trách nhiệm dân sự là lỗi suy đoán, nên người gây thiệt hại bị suy đoán là có lỗi khi thực hiện hành vi gây thiệt hại, trừ trường hợp họ chứng minh được thiệt hại xảy ra trong trường hợp phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết, sự kiện bất ngờ hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại. Căn cứ vào mức độ lỗi để xác định người gây thiệt hại phải bồi thường toàn bộ, một phần hoặc liên đới bồi thường, từ đó doanh nghiệp bảo hiểm xác định trách nhiệm bồi thường của mình. Thứ ba, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự có đối tượng bảo hiểm là trách nhiệm bồi thường của người tham gia bảo hiểm đối với người thứ ba (người bị thiệt hại) Khác với hợp đồng bảo hiểm tài sản, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự luôn có đối tượng bảo hiểm là trách nhiệm bồi thường về kinh tế mà người được bảo hiểm , người tham gia bảo hiểm có thể phải đảm nhận vì đã gây thiệt hại về vật chất cho người khác trong tương lai. Do vậy, đối tượng của loại hợp đồng này thường khó xác định và có thể dẫn đến tranh chấp giữa người bảo hiểm với người được bảo hiểm/người tham gia bảo hiểm và người được trả tiền bồi thường/ người bị thiệt hại. Về lý thuyết, trách nhiệm pháp lý dân sự - trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người được bảo hiểm/người tham gia bảo hiểm đối với người thứ ba sẽ phát sinh khi có đủ ba điều kiện sau đây: Phải có hành vi gây thiệt hại của người tham gia bảo hiểm/ người được bảo hiểm đối với người thứ ba. Hành vi gây thiệt hại ở đây được hiểu là hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự, hoặc hành vi gây thiệt hại trái pháp luật. Trong thực tế, có những hành vi gây thiệt hại cho người khác nhưng không bị coi là trái pháp luật và do đó người gây thiệt hại không có trách nhiệm bồi thường (ví dụ, cảnh sát dùng xe máy, ô tô để đuổi bắt tội phạm, gây thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe cho người thứ ba trong khi đang thi hành công vụ…) Có thiệt hại thực tế của bên thứ ba: Đây là yếu tố quan trọng hàng đầu khi xem xét đến nghĩa vụ bồi thường có phát sinh hay không. Thiệt hại bao gồm những thiệt hại về tài sản và thiệt hại về con người. Đối với những thiệt hại về tài sản, về nguyên tắc phải là những thiệt hại thực tế, thực sự xảy ra và có thể tính toán được bằng tiền. Đối với thiệt hại về con người, những thiệt hại này khó có thể đo được bằng tiền và ở những người khác nhau thì mức độ thiệt hại có thể khác nhau nhưng với mục đích an ủi, động viên đối với những người bị thiệt hại và thân nhân của họ, toàn án có thể phán quyết bằng những khoản tiền nhất định. Có mối quan hệ nhân – quả giữa hành vi gây thiệt hại của người tham gia bảo hiểm và hậu quả thiệt hại của bên thứ ba. Được coi là có mối quan hệ nhân quả khi thiệt hại xảy ra đúng là kết quả tất yếu của hành vi gây thiệt hại do người tham gia bảo hiểm thực hiện và ngược lại, những hành vi đó thực sự là nguyên nhân trực tiếp của thiệt hại xảy ra. Thứ tư, trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự, doanh nghiệp bảo hiểm chỉ phải chịu trách nhiệm bồi thường khi người được bảo hiểm nhận được yêu cầu phải bồi thường của người bị thiệt hại. Nếu đã phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại nhưng người thứ ba không đòi người tham gia bảo hiểm phải bồi thường, thì doanh nghiệp bảo hiểm cũng không phải chịu trách nhiệm đối với người tham gia bảo hiểm. Việc bồi thường thiệt hại có thể là bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, cũng có thể là bồi thường thiệt hại theo hợp đồng. Đối với việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì người thứ ba có thể là bất kì tổ chức hoặc cá nhân nào bị thiệt hại. Còn bồi thường thiệt hại theo hợp đồng thì người thứ ba được xác định cụ thể là người có một quan hệ hợp đồng đối với người tham gia bảo hiểm và bị thiệt hại từ hợp đồng đó do hành vi của người tham gia bảo hiểm gây ra. Hợp đồng bảo hiểm chỉ tồn tại giữa người tham gia bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, người thứ ba không có quyền trực tiếp yêu cầu doanh nghiệp trả tiền bồi thường, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Nếu pháp luật không có quy định khác thì người thứ ba chỉ có quyền đòi bồi thường đối với người tham gia bảo hiểm, trên cơ sở đó doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bồi thường cho người tham gia bảo hiểm và trách nhiệm bồi thường cho người thứ ba thuộc về người tham gia bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm có thể thoả thuận về việc doanh nghiệp bảo hiểm sẽ bồi thường trực tiếp cho người thứ ba bị thiệt hại. Trong một số trường hợp, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại; khắc phục kịp thời thiệt hại vật chất góp phần bình ổn tài chính đối với người bị thiệt hại, pháp luật quy định người thứ ba có thể trực tiếp khiếu nại đến doanh nghiệp bảo hiểm để yêu cầu bồi thường. 2. Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật. 2.1. Chủ thể của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Chủ thể tham gia hợp đồng bảo hiểm gồm: Bên nhận bảo hiểm (bên bán bảo hiểm) và bên tham gia bảo hiểm (bên mua bảo hiểm). Bên nhận bảo hiểm: Bên nhận bảo hiểm là bên đã nhận phí bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm và cam kết nhận rủi ro bảo hiểm về phía mình. Theo quy định của pháp luật về kinh doanh bảo hiểm thì bên nhận bảo hiểm chỉ có thể là một tổ chức có tư cách pháp nhân và được phép hoạt động kinh doanh bảo hiểm, được gọi là doanh nghiệp bảo hiểm. Bên tham gia bảo hiểm: Bên tham gia bảo hiểm là bên đã nộp cho bên nhận bảo hiểm một khoản tiền là phí bảo hiểm. Khác với bên nhận bảo hiểm, bên tham gia bảo hiểm là bất kỳ tổ chức, cá nhân nào khi có nhu cầu bảo hiểm về một đối tượng bảo hiểm nhất định hoặc trong trường hợp pháp luật buộc phải tham gia bảo hiểm về một trách nhiệm dân sự nhất định. Nếu bên tham gia bảo hiểm là cá nhân thì phải có đủ năng lực hành vi dân sự. Năng lực hành vi dân sự là khả năng tự có của chủ thể trong việc thực hiện kiểm soát và làm chủ hành vi của mình. Chủ thể tham gia hợp đồng bảo hiểm bao gồm: cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình… 2.2. Hình thức của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự Theo quy định của pháp luật thì hợp đồng bảo hiểm phải được lập thành văn bản, văn bản hợp đồng bảo hiểm được thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau. Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự là một trong ba loại hợp đồng bảo hiểm, do đó cũng tuân theo các quy định pháp luật về hình thức hợp đồng. Hiện nay, đa phần các hợp đồng bảo hiểm được thể hiện dưới hai dạng là giấy chứng nhận bảo hiểm và đơn bảo hiểm. Giấy chứng nhận bảo hiểm. Trong trường hợp mà việc tham gia bảo hiểm là bắt buộc theo quy định của pháp luật thì người tham gia bảo hiểm thường phải chứng minh với người thứ ba rằng họ đã tham gia bảo hiểm và hợp đồng đó đang có hiệu lực pháp luật . Nghĩa là họ luôn phải mang theo bên mình một bằng chứng chứng minh hợp đồng bảo hiểm đang có hiệu lực. Vì vậy hình thức của hợp đồng bảo hiểm này thường được thiết kế dưới dạng giấy chứng nhận bảo hiểm. Đơn bảo hiểm. Đơn bảo hiểm thường là hình thức của hợp đồng bảo hiểm tự nguyện, có thể có các dạng khác nhau và thường bao gồm nhiều trang. Các thông tin ghi trên đơn chi tiết, cụ thể tất cả các vấn đề liên quan đến hợp đồng bảo hiểm: tên, địa chỉ của chủ doanh nghiệp bảo hiểm; bên mua bảo hiểm; đối tượng bảo hiểm; số tiền bảo hiểm; phạm vi bảo hiểm; điều kiện bảo hiểm; điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm; thời hạn bảo hiểm; mức phí và phương thức trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường; giải quyết tranh chấp. Đơn bảo hiểm thường kèm theo các phụ lục để chi tiết hoá các thông tin đặc điểm của từng khách hàng cụ thể, đồng thời giải thích thuật ngữ trong đơn bảo hiểm. Nội dung đơn bảo hiểm gồm phần mở đầu; phần quy định về các điều khoản chính; phần quy định về các điều khoản loại trừ; phần quy định về các điều kiện; chữ ký, ghi rõ họ tên của người đại diện cho doanh nghiệp bảo hiểm. 2.3. Đối tượng của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Đối tượng của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự hiểu theo nghĩa chung nhất là trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người tham gia bảo hiểm. Điều bắt buộc đối với một người trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại là việc người đó phải bằng tài sản của mình gánh chịu việc bù đắp những thiệt hại về vật chất và tổn thất tinh thần do hành vi của mình gây ra cho người khác. Một người chỉ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi có đủ bốn yếu tố: Có hành vi gây thiệt hại trái pháp luật. Hành vi gây thiệt hại trái pháp luật là những hành vi xâm phạm tới tài sản, sức khoẻ, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác được thực hiện không phù hợp với quy định của pháp luật. Những hành vi có gây ra thiệt hại cho người khác nhưng được thực hiện phù hợp với quy định của pháp luật thì người thực hiện những hành vi đó không phải bồi thường. Ví dụ: hành vi gây thiệt hại trong các trường hợp trong giới hạn phòng vệ chính đáng, trong giới hạn của tình thế cấp thiết, do sự kiện bất ngờ. Có thiệt hại xảy ra. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại được áp dụng nhằm mục đích khắc phục một phần hoặc toàn bộ tổn thất tài chính cho người bị thiệt hại. Do đó, chỉ khi có thiệt hại xảy ra thì mới phải bồi thường; vì vậy cần phải xác định xem có thiệt hại xảy ra hay không và thiệt hại là bao nhiêu. Thiệt hại là những tổn thất xảy ra được tính thành tiền, bao gồm: những mất mát, hư hỏng, huỷ hoại về tài sản, nguồn thu nhập bị mất, chi phí nhằm ngăn chặn, khắc phục những hậu quả xấu về tài sản, sức khoẻ, tính mạng, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tinh thần. Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra. Một người chỉ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi thiệt hại xảy ra là hậu quả trực tiếp do hành vi trái pháp luật của họ gây ra, hay hành vi trái pháp luật là nguyên nhân gây ra hậu quả đó. Có lỗi của người gây thiệt hại. Thiệt hại xảy ra có thể do hành vi cố ý hoặc vô ý gây ra, cũng có thể do nguồn nguy hiểm cao độ hoặc do cây cối, súc vật gây ra. Song với bản chất của bảo hiểm là chỉ bảo hiểm rủi ro nên phạm vi bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm chỉ bao gồm các thiệt hại do hành vi vô ý; do súc vật, cây cối, nhà cửa, công trình xây dựng gây ra; không bảo hiểm với những thiệt hại do hành vi cố ý gây ra. Vậy đối tượng của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự chỉ là trách nhiệm về bồi thường thiệt hại do hành vi vô ý gây ra. 2.4. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Quyền của bên bảo hiểm là sự đối lập tương ứng với nghĩa vụ của bên tham gia bảo hiểm và bên được bảo hiểm và ngược lại. * Việc lựa chọn giao kết hợp đồng bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm có quyền lựa chọn mua bảo hiểm ở bất kỳ doanh nghiệp bảo hiểm nào miễn là doanh nghiệp đó đang tiến hành hoạt động kinh doanh bảo hiểm trên lãnh thổ Việt Nam. Bên mua bảo hiểm có thể lựa chọn mua bảo hiểm ở doanh nghiệp bảo hiểm nào có mức phí bảo hiểm đối với loại bảo hiểm đó thấp nhất và chất lượng cao nhất. Về phía mình, doanh nghiệp bảo hiểm có quyền yêu cầu bên mua bảo hiểm cung cấp đầy đủ, trung thực thông tin liên quan đến việc giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm; và có nghĩa vụ cấp giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc đơn bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm sau khi giao kết hợp đồng và thu phí bảo hiểm * Phí bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền thu phí bảo hiểm; còn bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm đầy đủ theo đúng thời hạn và phương thức đã thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm đầy đủ, theo đúng thời hạn và phương thức đã thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm, bởi hợp đồng bảo hiểm chỉ có hiệu lực kể từ thời điểm người tham gia bảo hiểm đóng phí bảo hiểm. Tuỳ từng loại sản phẩm bảo hiểm cụ thể mà thời hạn và phương thức nộp phí bảo hiểm được quy định cụ thể hoặc theo thoả thuận của các bên. Bên mua bảo hiểm phải đóng toàn bộ phí bảo hiểm trong một lần trước khi bên bảo hiểm cấp giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc hợp đồng bảo hiểm; hoặc phí bảo hiểm được đóng nhiều lần theo định kỳ thì bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm vào định kỳ đầu tiên trước khi được cấp giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc hợp đồng bảo hiểm và phải tiếp tục đóng phí của các kỳ sau theo đúng định kỳ. Phí bảo hiểm trách nhiệm công cộng khó xác định cụ thể và mức phí thay đổi một cách đáng kể tuỳ thuộc vào từng rủi ro. Phí bảo hiểm được xác định căn cứ vào số tiền bảo hiểm, nghề nghiệp của người tham gia bảo hiểm, quy trình kinh doanh, vị trí, phạm vi hoạt động, loại hình sản xuất kinh doanh của người tham gia bảo hiểm, doanh thu của người tham gia bảo hiểm, khả năng xuất hiện bên thứ ba tại địa điểm sản xuất kinh doanh… Phí bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm thường được tính trên cơ sở doanh thu, khối lượng sản phẩm sản xuất ra. Phí bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp được xác định dựa trên quy mô hoạt động nghề nghiệp của chủ thể tham gia; số lượng và trình độ nghề nghiệp, kinh nghiệm công tác của các thành viên; cơ sở vật chất để tổ chức tiến hành nghề nghiệp; giới hạn bồi thường… Phí bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới trên nguyên tắc là do pháp luật quy định. Ngoài ra, mức phí còn tính theo tỷ lệ phần trăm mức phí theo năm đối với thời hạn bảo hiểm ngắn hạn và dài hạn. Phí bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ sử dụng lao động đối với người lao động về cơ bản được tính căn cứ vào số tiền bảo hiểm đã thoả thuận, đồng thời căn cứ vào thời hạn bảo hiểm và loại nghề nghiệp của người lao động. Phí bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự hàng không là số tiền mà hãng hàng không phải đóng cho doanh nghiệp bảo hiểm theo thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Phí bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự hàng không được xác định trên các yếu tố: mức giới hạn trách nhiệm; số vụ tai nạn và mức độ tổn thất của các vụ tai nạn trong khu vực và trên thế giới; việc đào tạo và kinh nghiệm của phi công; loại máy bay được sử dụng trong việc chuyên chở; số lượng hàng hoá, hành lý chuyên chở trong năm; số lượng và loại hành khách; tuyến bay, tần suất bay; vị trí pháp lý của hãng hàng không. Phí bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu là khoản tiền do bên bảo hiểm thu trên cơ sở biểu phí do Bộ tài chính quy định áp dụng cho từng loại tàu, nhóm tàu theo các điều kiện bảo hiểm cụ thể. Phí bảo hiểm có thể tăng hoặc giảm tuỳ vào tình hình tổn thất hàng năm của các đội tàu tham gia bảo hiểm. * Trả tiền bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm kịp thời cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm; có quyền từ chối trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc từ chối bồi thường cho người được bảo hiểm trong trường hợp không thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm hoặc trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm theo thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm; có nghĩa vụ giải thích bằng văn bản lý do từ chối trả tiền bảo hiểm  hoặc từ chối bồi thường; phối hợp với bên mua bảo hiểm để giải quyết yêu cầu của người thứ ba đòi bồi thường về những thiệt hại thuộc trách nhiệm bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm; có quyền yêu cầu bên mua bảo hiểm áp dụng các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất theo quy định của pháp luật. (Điều 17 Luật Kinh doanh bảo hiểm). Còn bên mua bảo hiểm có quyền yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm theo thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Đồng thời có nghĩa vụ áp dụng các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất theo quy định của pháp luật; thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm về việc xảy ra sự kiện bảo hiểm, khai báo trung thực về tình hình diễn biến của rủi ro, thiệt hại thực tế giúp bên bảo hiểm xác định chính xác về thiệt hại để làm cơ sở cho việc xét bồi thường. Nếu doanh nghiệp bảo hiểm chậm trả tiền bảo hiểm so với thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng hoặc pháp luật đã quy định thì bên mua bảo hiểm có quyền yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất do Ngân hàng Nhà nước quy định tại thời điểm trả tiền tương ứng với thời gian chậm trả. Đối với hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự, nhằm nâng cao ý thức của người mua bảo hiểm, tránh tình trạng người tham gia bảo hiểm chuyển hết mọi trách nhiệm sang cho doanh nghiệp bảo hiểm, pháp luật quy định bên mua bảo hiểm phải thực hiện tất cả các biện pháp phòng ngừa thiệt hại và các biện pháp cần thiết khác để hạn chế việc phải bồi thường thiệt hại. Bên mua bảo hiểm phải thực hiện các biện pháp đó trong thời gian đã được doanh nghiệp bảo hiểm khuyến nghị. Nếu bên mua bảo hiểm không thực hiện và sự kiện bảo hiểm chưa xảy ra thì phải thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm để xem xét tính tăng phí bảo hiểm hoặc chấm dứt hợp đồng bảo hiểm. * Chuyển yêu cầu bồi hoàn. Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền yêu cầu người thứ ba bồi hoàn số tiền bảo hiểm mà doanh nghiệp bảo hiểm đã bồi thường cho người được bảo hiểm do người thứ ba gây ra đối với tài sản và trách nhiệm dân sự. Trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự, bên bảo hiểm phải bồi thường cho bên mua bảo hiểm hoặc trực tiếp trả lời cho người thứ ba theo yêu cầu của bên mua bảo hiểm thiệt hại mà bên mua bảo hiểm gây ra cho người thứ ba theo quy định của pháp luật. Người thứ ba trong trường hợp này không phải là chủ thể của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự nhưng là chủ thể của quan hệ nghĩa vụ bảo hiểm. Khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm, người thứ ba là bên có quyền được hưởng việc bồi thường theo mức đã thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm. Trong trường hợp thiệt hại xảy ra không hoàn toàn do lỗi của bên mua bảo hiểm hoặc thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của chủ thể khác thì người mua bảo hiểm phải chuyển quyền yêu cầu bồi hoàn cho doanh nghiệp bảo hiểm. Trong trường hợp người khác cùng có lỗi gây thiệt hại cho người thứ ba và doanh nghiệp bảo hiểm đã trả tiền bồi thường cho người tham gia bảo hiểm thì người tham gia bảo hiểm phải chuyển quyền yêu cầu người đó bồi hoàn khoản tiền mà mình đã nhận bồi thường cho doanh nghiệp bảo hiểm. * Đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm. Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng là ý chí của một trong hai bên về việc không tiếp tục duy trì hợp đồng theo các điều khoản đã cam kết vì bên kia có hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng. Bên bảo hiểm có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng bảo hiểm khi bên mua bảo hiểm có một trong các hành vi sau: cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm để được trả tiền bảo hiểm hoặc để được bồi thường; không thông báo cho bên bảo hiểm những trường hợp có thể làm tăng rủi ro hoặc làm phát sinh thêm trách nhiệm của bên bảo hiểm trong quá trình thực hiện hợp đồng bảo hiểm dù bên bảo hiểm đã yêu cầu; khi có sự thay đổi những yếu tố làm cơ sở để tính phí bảo hiểm, đẫn đến tăng các rủi ro được bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền tính lại phí bảo hiểm cho thời gian còn lại của hợp đồng bảo hiểm, trong trường hợp bên mua bảo hiểm không chấp nhận tăng phí bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm nhưng phải thông báo ngay bằng văn bản cho bên mua bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm trong các trường hợp sau: trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm, trường hợp này doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường thiệt hại phát sinh cho bên mua bảo hiểm do việc cung cấp thông tin sai sự thật; khi có sự thay đổi những yếu tố làm cơ sở để tính phí bảo hiểm, dẫn đến giảm các rủi ro được bảo hiểm thì bên mua bảo hiểm có quyền yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm giảm phí bảo hiểm cho thời gian còn lại của hợp đồng bảo hiểm, trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm không chấp nhận giảm phí bảo hiểm thì bên mua bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm, nhưng phải thông báo ngay bằng văn bản cho doanh nghiệp bảo hiểm. MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ 1. Nhận xét về thực trạng Từ thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng thi hành pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự ở Việt Nam, ta có thể thấy rằng với sự ra đời của Luật Kinh Doanh Bảo Hiểm có hiệu lực từ ngày 1/4/2001, chúng ta đã có khung pháp lý cơ bản về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự, Luật đã tạo ra một cơ chế đảm bảo cho quyền và lợi ích chính đáng của các bên khi tham gia ký kết hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Hoạt động kinh doanh loại hình bảo hiểm này đã thể hiện được vai trò là một công cụ đảm bảo an toàn tài chính một cách hữu hiệu cho người tham gia bảo hiểm cũng như của người bị thiệt hại. Tuy nhiên , do tính chất phức tạp của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự , yêu cầu hoàn thiện chế định về hợp đồng bảo hiểm vẫn cần phải đặt ra bởi những nguyên nhân chủ yếu sau: Về mặt thực tiễn, qua hoạt động áp dụng và thi hành pháp luật về hoạt động kinh doanh bảo hiểm trách nhiệm dân sự ở Việt Nam, ta có thể thấy về phía các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm, do chưa có những chế định cụ thể về một số hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm nên mỗi doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm lại đưa ra các quy tắc, chế định áp dụng riêng cho mình về số tiền bảo hiểm, phí bảo hiểm, phạm vi bảo hiểm, loại trừ bảo hiểm do đó tạo nên sự không đồng bộ trong cách áp dụng và ký kết hợp đồng gây ra sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm cũng như không đảm bảo được các quyền lợi của người tham gia bảo hiêm và của người bị thiệt hại. Ví dụ như hiện nay các văn bản pháp luật về bảo hiểm trách nhiêm dân sự mới chỉ có Nghị định số 115/1997/NĐ – CP về chế độ bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới; Quyết định số 23/2003/ QĐ – BTC ra đời thay thế Quyết định số 299/1998/QĐ – BTC về việc cho phép Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam. Tuy nhiên những văn bản pháp luật này chỉ có giá trị áp dụng cho Tổng công ty bảo hiểm VN (Bảo Việt), vì trước đây Bảo Việt là doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm duy nhất ở Việt Nam nhưng nay đã có rất nhiều doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm khác ra đời mà vẫn chưa có văn bản pháp luật khác thay thế những văn bản trên. Vì vậy, hiện nay có sự áp dụng không đồng bộ giữa các doanh nghiệp kinh doanh các loại hình bảo hiểm trách nhiệm này do những bất cập nêu trên. Một điểm đáng chú ý hơn nữa là thị trường kinh doanh bảo hiểm hiện nay ở Việt Nam đang diễn ra rất sôi động, hàng loạt các loại hình kinh doanh bảo hiểm trách nhiệm dân sự ra đời như bảo hiểm trách nhiệm công cộng, bảo hiểm trách nhiệm của chủ sử dụng lao động, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp – nhưng chưa có văn bản pháp luật chuyên ngành nào quy định chi tiết để điều chỉnh các hoạt động kinh doanh bảo hiểm này. Về mặt lý luận, một số điều khoản quy định về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự trong Luật kinh doanh bảo hiểm hiện nay còn rất sơ sài và chưa cụ thể dẫn đến khó áp dụng hoặc áp dụng không thống nhất như Điều 53 – Luật kinh doanh bảo hiểm: “Trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm chỉ phát sinh nếu người thứ ba yêu cầu người được bảo hiểm bồi thường thiệt hại do lỗi của người đã gây ra cho người thứ ba trong thời hạn bảo hiểm”. Như vậy, vấn đề đặt ra ở đây là trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm phát sinh ngay sau khi người thứ ba yêu cầu người được bảo hiểm bồi thường thiệt hại hay phải đợi có quyết định của tòa án về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người được bảo hiểm gây ra cho người thứ ba? Do đó, trong trường hợp người được bảo hiểm và người bị thiệt hại thỏa thuận giải quyết vụ việc bằng thương lượng mà không khởi kiện ra tòa án thì liệu doanh nghiệp bảo hiểm có bồi thường không? Điều này dễ dẫn đến tình trạng kéo dài thời gian của doanh nghiệp bảo hiểm khi họ nói rằng họ chỉ bồi thường khi tòa án phán quyết là người tham gia

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docHợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật hiện hành – Một số vấn đề lý luận và thực tiền.doc
Tài liệu liên quan