Tiểu luận Hương ước và luật tục

MỤC LỤC

 

Phần 1: Hương ước

I.Khái niệm

II.Nội dung

1.Lịch sử hình thành của hương ước

2.Sự khác nhau giữa hương ước và pháp luật ngày xưa

3.Những chính sách của nhà nước

4.Hiện trạng

5.Những giá trị của hương ước

Bản hương ước xã Duyên Trường, huyện Thanh Trì, Hà Nội

Phần 2: Luật tục

I. Khái niệm

II. Đặc điểm

III. Nội dung

IV.Giá trị xã hội

V.Luật tục trong xây dựng hương ước

 

doc24 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4118 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Hương ước và luật tục, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n) được giảm mức hình phạt khi phạm tội. Điều đó cho thấy tính bình đẳng của hương ước rõ nét hơn so với pháp luật. Hương ước được xây dựng từ những phong tục truyền thống rất thiết thực và gần gũi với mỗi cộng đồng làng. Chính bởi vậy, hương ước có tính bảo lưu lâu dài, ít thay đổi, mặt khác, nó được con người biết đến từ tấm bé, do cách lưu truyền tự nhiên từ gia đình, từ dòng họ và trở thành một thói quen, một nếp sống. Trong khi đó, pháp luật được hình thành do ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, mang tính cưỡng chế và dễ thay đổi khi thể chế thay đổi. Đây chính là sự khác biệt cơ bản của hương ước và pháp luật. 3. Những chính sách của Nhà nuớc về Huơng uớc -Tại hội nghị lần V, Ban chấp hành Trung ương Đảng ( khóa VII) họp tháng 6 năm 1993, Đảng chủ trương khuyến khích xây dựng và thực hiện hương ước, các quy chế về nếp sống văn minh ở các thôn xã. -Năm 1996, trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu rõ cần phải phát huy và kế thừa hương ước cổ truyền trong việc quản lí nông thôn hiện nay. -Chủ trương này sau đó đã được pháp luật hóa bằng Nghị định 24CT/TTg ngày 19/6/1998 của Chính phủ chỉ thị cho các địa phương việc kế thừa hương ước cổ truyền trong việc soạn thảo hương ước nông thôn mới. Để phát huy yếu tố tích cực, khắc phục những hạn chế, tiêu cực của hương ước, quy ước, baảo đảm triển khai thực hiện các Nghị quyết của Đảng, Chỉ thị của Bộ Chính trị số 30/CT-TW ngày 18 tháng 2 năm 1998 về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước trong giai đoạn hiện nay, Thủ tướng Chính phủ chỉ thị: 1. Nội dung của hương ước, quy ước cần tập trung vào một số vấn đề cơ bản sau đây: Bảo đảm giữ gìn và phát huy thuần phong, mỹ tục, thực hiện các hành vi ứng xử văn minh trong giao tiếp, ăn, ở, đi lại..., xóa bỏ hủ tục, phát triển các hình thức hoạt động văn hóa lành mạnh, phát huy tình làng nghĩa xóm, đoàn kết, tương thân, tương ái, hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng dân cư; Đề ra các biện pháp góp phần bảo vệ tài sản công cộng và tài sản của công dân, bảo vệ môi trường sống, bảo vệ, rừng, biển, sông, hồ, danh lam thắng cảnh, đền chùa, miếu mạo, các nguồn nước, đê điều, đập nước, kênh mương, kè cống. Xây dựng và phát triển đường làng, ngõ xóm, trồng cây xanh, chống ô nhiễm các nguồn nước... ở địa phương; Đề ra các biện pháp bảo vệ thuần phong mỹ tục, bài trừ các hủ tục trong ma chay, cưới hỏi, thờ phụng, lễ hội v.v... ở địa phương; Góp phần xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa, đề ra những tiêu chuẩn gia đình văn hóa, các quy tắc đạo đức mới, giúp đỡ nhau tìm ra các biện pháp xử lý tốt các mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình; Xây dựng tình đoàn kết, tương thân, tương ái trong cộng đồng, vận động các thành viên trong gia đình, họ tộc, xóm làng đoàn kết nhau để xóa đói giảm nghèo, phát triển sản xuất, nâng cao mức sống, khuyến học, khuyến nghề v.v... ở địa phương; Đề ra các biện pháp thích hợp góp phần bảo vệ trật tự, trị an trên địa bàn. 2. Dự thảo hương ước, quy ước phải được nhân dân trên địa bàn thảo luận, được hội nghị cử tri hoặc hội nghị đại biểu hộ gia đình ở làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư thông qua và được ủy ban nhân dân cấp huyện phê duyệt trước khi thi hành nhằm bảo đảm nội dung của hương ước, quy ước không trái với các quy định của pháp luật hiện hành, không chứa đựng các quy định xử phạt nặng nề, các khoản phí và lệ phí có thể gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. 3. Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, chỉ đạo, hướng dẫn cơ quan Tư pháp, cơ quan Văn hóa - Thông tin ở các địa phương trong việc giúp ủy ban nhân dân cùng cấp thực hiện quản lý nhà nước đối với việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước, nhằm bảo đảm cho việc soạn thảo hương ước, quy ước ở làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư được tiến hành một cách thực sự dân chủ, coông khai, dưới sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương cấp xã, với sự tham gia tích cực của ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng ở cơ sở (Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh, Hội Nông dân Việt Nam...). Bộ Tư pháp chủ trì, cùng với Bộ Văn hóa - Thông tin phối hợp với ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, các cơ quan hữu quan khác chỉ đạo triển khai thí điểm Chỉ thị này tại một số địa phương để rút kinh nghiệm. Trên cơ sở tổng kết tình hình xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước trên phạm vi toàn quốc, Bộ kiến nghị với Thủ tướng Chính phủ các biện pháp, các mô hình mẫu về các hoạt động văn hóa nhằm tiếp tục tăng cường công tác quản lý nhà nước và phát huy vai trò của các văn bản hương ước, quy ước trong giai đoạn hiện nay. 4. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi trách nhiệm, quyền hạn của mình, trình Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành nghị quyết quy định cụ thể việc quản lý nhà nước và định hướng nội dung hương ước, quy ước căn cứ vào quy định của pháp luật hiện hành và phù hợp với đặc điểm tình hình kinh tế, văn hóa - xã hội, phong tục tập quán của địa phương. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo triển khai và kiểm tra việc thực hiện Nghị quyết của Hội đồng nhân dân về các vấn đề nói trên. 5. Uỷ ban nhân dân cấp huyện có nhiệm vụ phê duyệt các văn bản hương ước, quy ước do ủy ban nhân dân cấp xã trình và chỉ đạo, hướng dẫn việc thực hiện hương ước, quy ước trong phạm vi địa bàn huyện, bảo đảm nội dung hương ước, quy ước phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành, các quy tắc xây dựng nếp sống văn hóa mới, duy trì và phát triển phong tục tập quán tốt đẹp ở cơ sở. 6. Uỷ ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm chỉ đạo, hỗ trợ các làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư xây dựng hương ước, quy ước có nội dung phong phú, thiết thực, phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành và chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, và trình ủy ban nhân dân cấp huyện phê duyệt. ủy ban nhân dân cấp xã thường xuyên kiểm tra việc tổ chức thực hiện hương ước, quy ước trên địa bàn. 7. cơ quan thông tin đại chúng đẩy mạnh việc tuyên truyền về vai trò và tác dụng của việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước, các mô hình mẫu về nếp sống văn hóa, gắn với việc tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật, phát huy dân chủ ở cơ sở; nêu gương những điển hình tiên tiến, phát hiện và đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực, sai trái hoặc lợi dụng hương ước, quy ước để duy trì các hủ tục, tập quán lạc hậu. 8. Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan có liên quan, Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp chịu trách nhiệm thi hành Chỉ thị này./. Năm 1999, Bộ Tư pháp cũng có những công văn, chỉ thị hướng dẫn các địa phương thực hiện nghị định này của Chính phủ. 5. Những giá trị của Hương ước Hương ước được xem như hệ thống luật tuc tồn tại song song với pháp luật của Nhà nước nhưng không đối lập với luật pháp của Nhà nước. Hương ước đề cập tới những nội dung cụ thể gắn với hoàn cảnh phong tục, tập quán lâu đời của từng làng,là những nội dung mà các bộ luật của Nhà nước khó đề cập đến Là địa vực về địa lí, văn hóa, tôn giáo …mỗi làng xã Việt tuej đảm bảo ccacs việc liên quan tới đời sống về mọi mặt: thủy lợi, giao thong, bảo vệ an ninh, hội hè, tế lễ,…để làm được cần có sự đóng góp của tất cả cá thành viên tronng làng xã không phân biệt. với việc quy định trách nhiệm của từng người hương ước giúp cho làng xã làm tròn các công việc đó. Ý thức trách nhiệm giúp hình thành ý thức dân chủ làng xã, nếu làm trái sẽ bị lên án hoặc xử phạt. Ý thức dân chủ phần nào có tác dụng ngăn chặn sự lũng đoạn của các chức dịch làng xã Hương ước còn giúp chho làng xã rang buộc mọi thành viên trong làng bằng những nhiệm vụ và quyền lợi chung. Trong hương ước luôn quy định trách nhiệm giúp đỡ lẫn nhau khi khó khăn, khuyên mọi người ăn ở hòa thuận, bảo vệ lẫn nhau và bảo vệ danh dự của làng. Đó chính là chỗ dựa của nhân dân không chỉ về mặt vật chất mà còn về mặt tinh thần. Điều này làm tăng tinh thần đoaàn kết làng xã, cố kết cộng đồng Và từ ý thức cộng đồng phát triển thành ý thức quốc gia , dân tộc .Không chỉ quy định nghĩa vụ mà hương ước còn quy định cả trách nhiệm của người dân với các khoản đóng góp thuế khóa, phu phen, binh dịch… Và như vậy hương ước không chỉ có ý nghĩa như một thứ pháp luật mà còn có ý nghĩa như một hệ thống tiêu chuẩn đạo đức. Vì vậy, nó chứa đựng những giá trị văn hóa dân gian, hàm chứa nhiều yếu tố tích cực. Song, hương ước cũng tồn tại không ít những yếu tố tiêu cực * Hạn chế của Hương ước Như đã trình bày ở trên, vấn đề quản lý Nhà nước đối với việc ban hành và thực hiện hương ước mới hiện nay đã được tăng cường thông qua những chỉ đạo hướng dẫn sát sao, cụ thể của các cấp, các ngành. Tuy nhiên, trên thực tế, việc ban hành và thực hiện hương ước không phải không còn có những hạn chế, khiếm khuyết, gd thể kể ra đây những hạn chế sau: 1). Tên gọi và đối tượng điều chỉnh còn lẫn lộn, chủ thể ban hành hương ước, quy ước chưa đúng quy định.Vẫn chưa thống nhất được tên gọi là quy ước hay là hương ước. Các hương ước phần nhiều lẫn lộn với quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở. Thực ra thì quy chế thực hiện dân chủ ở xã do Chính phủ ban hành cho chính quyền cấp xã thực hiện bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. 2). Nội dung hương ước mới còn sơ sài, lặp lại pháp luật và chủ trương chính sách của Nhà nước một cách khô khan, thiếu cụ thể, chưa sát thực với điều kiện và đặc điểm của từng làng, câu chữ trong văn bản còn nặng tính hô hào, khẩu hiệu. Có không ít bản hương ước có những điều khoản không đúng với tinh thần của pháp luật, can thiệp quá sâu vào đời sống cá nhân, đi ngược lại cả những phong tục truyền thống từ lâu đời, thậm chí quy định cả những “hình phạt” vốn không thuộc thẩm quyền của cấp cơ sở. Nơi này, nơi kia chúng biến tướng thành một thứ “lệ làng” – với nghĩa tiêu cực của từ này – do các ông trưởng thôn, chủ tịch xã quan liêu, hách dịch, thiếu hiểu biết, tùy tiện đặt ra bắt dân phải tuân theo. Ví dụ: Hương ước của làng Bình Lộc, xã Bình Điền, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên – Huế quy định phụ nữ 20 tuổi, nam giới 22 tuổi mới được kết hôn. Điều này là trái với Luật Hôn nhân và Gia đình. Quy ước của 7 làng thuộc huyện Hương Trà quy định phụ nữ nào không lấy được chồng thì trên 30 tuổi mới có quyền làm mẹ và chỉ được sinh 1 con. 3). Nhiều bản hương ước quy định các hình thức phí, lệ phí, xử phạt một cách tùy tiện, bừa bãi. Đó là chưa kể các khoản lệ phí kết hôn, mai táng người chết. Có tới 180 hương ước (chiếm 78,3%) quy định hành vi vi phạm hành chính và các hình thức xử phạt mà lẽ ra thẩm quyền này theo pháp luật chỉ thuộc Chính phủ 4). Nhiều hương ước xây dựng đều chưa thể hiện được sự kết hợp giữa yếu tố truyền thống và hiện đại trong nhiều bản hương ước, nhiều địa phương chưa lồng ghép nội dung hương ước với xây dựng làng văn hóa 5). Trong quá trình xây dựng và thực thi hương ước chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành mang nặng tính một chiều từ trên xuống dưới, chưa phát huy đày đủ tính dân chủ, năng động của lãng xã nên đẽ rơi vào khuynh hướng rập khuôn. Tiếp thu những yếu tố tích cực của hương ước cũ để xây dựng hương ước mới của các làng hiện nay là việc làm cần thiết để góp phần xây dựng và nâng cao đời sống văn hóa ở các làng xóm Sau đây là toàn bộ bản hương ước xã Duyên Trường, huyện Thanh Trì, Hà Nội Khoán ước xã Duyên Trường Huyện Thanh Trì Điều 1. Việc tổ chức hội đồng Giáp biểu Việc bầu hội đồng giáp biểu thì theo như nghị định nhà nước. Hội đồng chon một ngưởi làm thủ lọ để trông nom, trông nom, sai bảo dân đinh, tuần tráng sửa sang đường xa,cầu cống trong làng cho cao ráo sạch sẽ. Các phiên hội đồng phải cùng lý dịch để xem xét các việc trong làng và việc quan. Mỗi tháng cứ ngày sóc vọng sớm từ tám giờ đến mười một giờ, cùng họp tại công sở để bàn việc công trong làng. Nhưng nếu có việc bất thường thì hội đồng cũng phải tề tựu về công sở để bàn. Người nào vắng mặt thì phải có lời cáo thiếu. Nếu vắng mặt tới 3 tháng không ra họp bàn thì hội đồng phạt 30 khẩu trầu và 3 hào sung công. Bằng không, hội đồng trình quan bảo người khác. Những người có chân hội đồng hạn 6 năm làm một khóa. Người nào Chánh,Phó Hương hội, Thủ quĩ được mãn khóa mà các việc ổn thỏa, khao vọng như lệ. thì được dự ngôi kỳ mục Điều 2: việc bầu phó lý trưởng, Chưởng bạ, Hộ lại Việc bầu các chức dịch này thì theo như Nghị định nhà nước. Ai đã được làm rồi thì phải sửa một cái thủ lợn, một mâm sôi, một bình rượu, một trăm trầu để yết thần, rồi kính dân, ai hiện tại thụ phúc. Người lý trưởng việc binh lương, Phó lý việc đê điều, Tuần phòng, Tuần bạ việc điền thổ, hộ lại việc sinh tử giá thú. Ai làm việc được, khi từ việc thì được dự chiếu kỳ mục và trừ đê điều tạp dịch, nhưng phải khao vọng như lệ. Người nào bị cách bãi, thì không được dự chiếu này. Điều 3: việc chi trả lương cả năm cho các chức dịch Dân cấp lương hàng năm cho các lý dịch là hai mẫu ruộng, Phó lý một mẫu, Hương trưởng năm sào. Điều 4: Việc quân cấp công điền, tự điền Làng có ngoài 60 mẫu ruộng hậu chùa thông đạt chi các tiết lễ, còn đâu quân cấp dân đinh, mỗi người hai miếng rưỡi, để hàng năm đỡ sưu dịch. Lại có ngoài 23 mẫu công điền, hậu điền và người cày các tiết lễ còn đau chia làm 9 lô, để đầu năm Tây bổ túc đáu giá, hoặc chia cho trai lấy tiền xung công. Lại có 5 sào tư điền làng Phúc am, chia về hai hội lão để xuân thu nhị lễ. Các ruộng nói trên thì xử, sở đã có sổ riêng trong làng. Điều 5: Việc bổ sưu thuế Đến kỳ sưu thuế Lý trưởng lĩnh bài giấy về định ngày cho bổ thuế, thì gióng trống làng, cả dân vào hội đồng căn cứ theo giấy tờ các hạng mục sưu thuế bao nhiêu bạc xem cho minh bạch, chiếu bổ tinh dinh điền quân cấp chịu nhận. Hoặc có tiêu dùng việc công, việc gì cũng phải biên cho rõ ràng, lập thành bài bổ đẹ trình, không được phù lạm. Nếu ai bỏ sưu thuế chung Lý trưởng phải tường đến hội đồng, thì hội đồng trích tiên công giao lý trưởng đề nạp, rồi trình quan trừng trị, về sau không dự ngôi hương ẩm. Điều 6: Việc cắt tuần trông nom mùa màng Mỗi năm cứ đầu tháng 2 cắt tuần sương, thì hội đông lý dịch chiếu nhân đinh số, từ trưởng trở xuống chọn lấy 15 hoặc 20 người trai trai khỏe maunhj làm tuần xã, có sáo gậy tử tế để đêm ngày tuần phòng trông nom trong làng, ngoài đồng và đắp các đường khuyến nông thủy thế giúp may tùy liệu. Nếu trong làng người nào thiện tiện tháo nước chỗ đã giữ, tuần tráng bắt được tường đến hội đồng thì phạt 5 hào sung công. Nếu tuần không chịu trông nom đẻ tháo mất nước, hội động phạt cả tuần một đồng bạc sung công như hai mùa công tư lúa ruộng cho tuần, nội canh mỗ sào 1 lượm hoa màu, khoai sọ, khoai vụ mỗi sào 5 xu. Đến cuối năm mỗi con trâu một hào, con bò 6 xu. Phần canh cho lấy một tăng gấp đôi. Ngoài đồng hễ ai mất của gì, hội đồng lý dịch xét làm mất trộm thực, cả tuần phải chiếu giá mà đền. Nếu không đền, để người mất của nói rõ đến, Hội đồng trừ tiền đền ngoại, lại phạt tuần 3 hào sung công. Ai có trâu bò vịt gà hủy đồng điền, tuần tráng bắt được hì phải nộp lệ 20 khâu trầu, hai hào sung công và chịu chiếu giá mà đền cho người điền chủ. Trong làng ai mất của gì tự một đồng trở lên hoặc trâu bò mà hội đồng vẫn xét thực chiếu giá chia 3, chủ chị một phần, tuần xóm 1 phần, tuần sường 1 phần. Ai không chịu hội đồng trình quan xử chịu. Mỗi xóm lại bảo một người trương tuần có tài sản và lương thiện để thu tiền ruộng và thuế công điên, cùng cử suất trai ra tuần xóm ấy cũng phải có sáo gậy cho tử tế. Nếu bất thường hội đồng Lý dịch đến khám mà xóm nào không canh phòng, thì phạt trương tuần ba hào sung công. Còn người nào không soạn được nhiều thì đêm ngày tuần phong canh ở điểm trợ để ứng việc, trực việc quan, việc dân và canh đê, trừ khi nào bắt tráng về bắt tráng nhiều thì bớt về các điểm. Như tên nào có duyên cớ gì không ra được thì phai cáo thiếu. Bằng không phạt một hào sung công. Lúc ra tuần thì tuần sương phải sửa 2 gà, 2 bình rượu, 2 cơi trầu, hội đồng cùng họp với lý dịch thụ phúc. Như lúc suất tuần đến cuối năm lại phải có lời nói mời tiên thứ chỉ và hội động lý dịch xin sửa đồ thờ cúng tiến đáng giá tử 20 đồng bạc trở lên. Năm nào mất mùa sẽ được giảm đơn bảo trương tuần phải có hội đồng lý dịch xét thực mới được. Ai làm được sáu năm thanh thỏa thì được vọng vào chiếu kỳ mục. Điều 7: Việc bắt trai tráng đi lao dịch. Hễ quan sai phái đến bắt tráng canh nước hoặc ứng dịch ở huyện thì bồn phiên tuần thì phải cắt lượt nhau mà đi. Nhưng nếu quá số tứ phiên thì hội đồng lý dịch chiếu số trai các xóm mà cắt những người nào được trừ, ngoài ra hết lượt lại bắt đầu. Ai không đi để lý dịch phải thuê cứ mỗi người 2 hào. Người không đi phải chịu cấm việc đi làng sáu tháng. Điều 8: Việc bắt lính. Hễ có phái bắt lính mới thì lý trưởng chiếu nhà nào hai con trai trở lên, cường tráng, tuổi tác hợp lệ thì đưa đi tuyển. Ai được mãn khóa, khao vọng như phó lý trưởng thì được chiếu kỳ mục. Nhưng người nào bị thải mà thu mất nhiếp đê thì không dược hưởng lệ ấy. Điều 9: Việc đê đường. Phàm quan đê công lộ thừa sức phá rỡ thì dịch chiếu đinh từ 6 bàn trở xuống chia đều mà đắp. Những người nào được trừ còn các dường đi đi trong làng thì thủ lộ chia phần để xóm nào xóm ấy phải đắp. Nếu người thủ lộ đã báo đến 2, 3 lần mà vẫn không chịu đắp thì phạt 3 hào. Điều 10: Việc cứu chữa. Khi nước lên to có lệnh có lệnh quan sắm đóm đuốc thuổng cuốc hoặc quang thúng, thì làng cấp cho phó lý 2 đồng bạc để sắm các đồ ấy giao cho phó lý, đệ niên thương hộ. Nếu mất phải đền. Như có bắt tre gỗ bao nhiêu chiết can ra tiền, chiếu điền số quân bỏ. Ai không nộp trình quan xử trị. Điều 11: Việc kiện cáo: Trong làng ai có việc gì bất bình đưa ra hội đồng. Nếu viecj về dịch hộ thì hội đồng lý dịch họp tại công sở hòa giải 2 bên. Hòa giải không xong phải làm biên bản trình lên quan. Nếu có việc hình thì phải tìm cho ra sự thực mà trình quan xét. Ai có việc gì khai dẫn đến hội đồng lý dịch,phí tổn bao nhiêu người ấy phải chịu. Còn như công dân quan có bắt đòi lên tỉnh thì dân cấp cho 4 hào mỗi người mỗi ngày đêm, lên huyện thì 2 hào. Nhưng nếu đòi về công vụ về phận mình hoặc việc riêng của mình thì được tiền ấy. Điều 12: Việc sinh tử giá thú: Trong làng ai có việc sinh tử giá thú phải đến nhà hộ lại mà vào sổ. Nếu ai để quá hạn như trong luật đã định mà không khai báo thì hội đồng lý dịch sẽ trình quan xét. Điều 13: Việc trình báo. Trong làng ai có mua bán ruộng nhà đất cát phải theo như nghị định nhà nước mà trình lý trưởng, chưởng bạ nhạn thực. Như ai có khách lạ thì phải trình lý dịch biết. Bằng không thì việc hôi đồng bắt được thì phạt 1 hào sung công. Ai có thịt trâu bò thì phải xin lý trưởng nhận thực, rồi xin phép quan. Điều 14: Việc ngự cư. Làng chỉ cho những người coa căn cước minh bạch và nghề nghiệp chính đáng ngụ cư mà thôi. Trừ những người tha hương đến quê vợ, quê mẹ không kể, hễ người nào ngụ cư mà không quá 3 đời, khi đi việc làng không được ngồi bàn nhất, những người ngụ cư mà có sản nghiệp ở làng thì cũng phải chịu trách nhiệm như thế. Điều 15: Việc cứu hỏa. Trong làng mỗi xóm phải sắm một cái thúng nan, hai cái ống, hai cái câu liêm, hai cái gầu, hai cái phủ dèm. Khi trong làng chẳng may nhà nào bị phát hỏa thì trương tuần phải dốc suất đàn ông đàn bà đem nhựng đồ ấy đến cứu. Còn tuần sương phải chia làm 2, một nửa đi tuần, một nửa đi chữa cháy, và canh các đường xung quanh chỗ phát hỏa. Người nào thừa cơ cứu hỏa lấy đồ vật của khổ chủ, tuần tráng các người làng bắt được thì phạt 5 hào bạc, sung công 4 hào, còn 1 hào cho người bắt được. Bằng không chịu, cấm đi việc làng một năm. Điều 16: Việc chôn cất nhờ. Hễ người làng khác có tổ mộ đem đến chôn cất nhờ không cứ ở đường đồng hoặc ruộng tư, phải sửa 1 cái thủ lợn, một mâm xôi, 5 bình rượu, đẻ lễ thần rồi kính dân và nộp vào công quỹ mỗi ngôi 10 đồng bạc. Để ruộng tư thì phải thỏa thuận với điền chủ mới được. Khi người đã ký táng rồi thì cấm không ai được xâm phạm vào ngôi mộ ấy. Trong làng ai có việc cải cát thì phải trình lý dịch nhận thực, rồi trình quan xem xét. Điều 17: Việc mất trộm. Trong làng ai có ăn trộm gà vịt, chó lợn buồng cau, nải chuối, cây tre, cái củi, các hoa màu, các đồ vật trong vườn trầu hay mai, trộm trầu từ một nắm trở lên mà tuần tráng bắt được tường đến hội đồng lý dịch trình quan xử trị. Khi có trộm cướp to thì lý dịch trong làng phải lấy tuần tráng đến ứng cứu và các trương tuần phải đốc suất đàn em đến ứng cứu. Hễ ai bắt được một đứa cướp, dân làng thưởng 10 đồng bạc. Đánh chết một đứa cướp, dân thưởng 6 đồng bạc. Bắt được một đứa trộm quả tang , đứa ấy là người làng khác, dân thưởng 3 đồng bạc. Người nào bị trộm cướp đánh chết, dân làng cho tiền tử tuất 10 đồng bạc, cho con hay cháu một tiên nhiêu trừ đê tạp dịch suốt đời. Ai phải trộm cướp bị đánh thương nhẹ, dân cho 2 đồng bạc, bị thương nặng,dân cho 5 đồng bạc để uống thuốc. Nếu ai đánh, lấy lại được những đồ vật của quân trộm cướp đã lấy, thì những đồ vất ấy hội đồng chiết can ra tiền, chia làm 5 phần, người có của nhận xong phải nộp một phần tiền để thưởng cho người lấy lại được. Đương lúc có trộm cướp mà tuần hay dân trai vắng mặt thì hội đồng lý dịch vào ngay xem có nhà hay không. Nếu có nhà mà không ra ứng cứu thì phạt 2 hào xung công. Bằng không chịu thì cấm đi việc làng một năm Điều 18. Việc cờ bạc, rượu lậu, thuốc phiện lậu Trong làng cấm không ai được chứa cờ bạc. Ai không tuân hội đồng lý dịch trình quan thì phải trừng trị. Còn như nhà ai có việ vui mừng mà bày ra tổ tôm, tài bàn để cùng vui thì không thuộc về cấp ấy. Trong làng cấm không ai được chứa rượu lậu. Ai không tuân hội đồng lý dịch bắt được 1 bình trở xuống thì cho đi và phạt 3 hào xung công,2 bình trở lên thì trình lên quan phân trị. Ai trữ thuốc phiện lậu mà bị hội đồng lý dịch bắt được, thì trình quan xử trị. Điều 19: Viếc gian dâm. Trong làng ai trêu ghẹo đàn bà con gái, bắt được đích thực cùng những người trêu ghẹo là can đến cương thuần luân lý, tức là người mà luật cấm không cho giá thú mới nhau thì phạt 5 hào xung công. Nếu ai không chồng mà chửa thì phải nộp khoán cho làng. Điều 20: Việc lễ phép. Khi đi ăn họp việc ở làng hay các nơi đám xát thì quần áo phải sạch sẽ, nói năng phải khiêm tốn. Nếu ai say, nói to tiếng hoặc xâm mà người trên, thì hội đồng phạt 2 hào xung công. Bằng tái phạm, nếu không chịu, cấm đi việc làng một năm. Những người có chân trong hội đồng mà phạm cấm ấy, thì phạt gấp hai. Bằng không chịu trình quan phân xử. Điều 22: Việc liêm sỉ. Trong làng khi có chèo hát, con trai con gái ra đinh điếm xem phải đừng 2 bên, nam tả nữ hữu. Mỗi bên cắt một ngườ tuần chỉ bảo, không được hỗn độn, ai vi phạm phạt 1 hào xung công. Từ mười giờ tối trở đi, ai đứng đâu phải có đèn đóm. Bằng không, tuần tráng bắt được tường đến hội đồngthì phạt một hào xung công. Điều 23: Việc vệ sinh. Trong làng thủ lộ phải trông nom sai bảo tuần tráng đắp các giếng cho cao ráo, sạch sẽ, cấm không ai được tắm giặt. Các đường xá trong làng cấm không ai được đổ phân gio, buộc trâu bò hay bỏ các vật ô uế. Ai không tuân tường đến hội đồng phạt một hào sung công. Điều 24: Việc phòng bị chứng truyền nhiễm. Trong làng chẳng may phát ra chứng truyền nhiễm thì những người bị bệnh phải ở riêng một chỗ, để cho khỏi truyền nhiễm người khác. Lý dịch phải làm giấy trình ngay quan. Như súc vật bị bệnh ấy thì phải tường ngay lý dịch trình quan. Con nào chết phải xin phép quan chôn. Khi chôn phải xa chỗ ao hồ, cuốc sâu đổ than lên trên. Con nào ốm thì xin thuốc chữa. Ai không tuân, hội đồng trình quan. Điều 25: Việc chiếm trộm ruộng đất và của công. Trong làng ai chiếm trộm công điêng, công thổ mà hội đồng lý dịch trích ra được thì phải trả lại ruộng đất và bồi thường hoa lợi tử khi chiếm trộm. Bằng không hội đồng trình quan xử trị. Ai chiếm trộm các động vật hoặc tiền công thì phải được bồi thường tả. Bằng không, chịu cấm không được đi việc làng ba năm, và trình quan phán trị. Phần II NÓI VỀ PHONG TỤC Điều 26: việc thờ thần. Làng ta với làng Hạ Thái cùng thờ đức thượng thần ở miếu, trong một hạn ba năm cứ Tý, Ngọ, Mão, Dậu, ngày 11 và 12 tháng 3 thì hai dân hội họp lễ tại đình hoặc tại miếu. Như việc hai làng đi lại với nhau có điều ước riêng của hai làng. Có năm nào cũng cứ mồng 10 tháng 1 làng ta lễ ở miếu, thì Hạ Thái phải biện trầu ăn. Khi Hạ Thái lễ thì ta phải biện trầu ăn. Lại có giao hiếu với làng Phúc Am, năm nào cũng đi lại với nhau đã có điều ước của hai dân. Còn lễ vật, dân trích công quĩ chi, giao giáp trưởng sửa 20 phẩm oản và hương đến đệ sang Phúc am. Còn một chục lễ ở đình đê hội đồng lý dịch các cụ hữu cớ thụ phúc Điều 27: Việc tế tự. Các tiết lễ trong tháng giêng Các tiết lễ trong tháng hai Các tiết lễ trong tháng ba Các tiết lễ trong tháng tư Tháng năm ngày mồng mười tiệc Đức Thánh Tháng sáu ngày mồng chín giỗ hậu tuần Tháng 7 ngày mồng 2 lễ đổi mả Tháng 8 ngày mồng mười Đức Thánh hóa Tháng chín lễ thường tân Tháng 11 ngày mồng 6 giỗ hậu Tuần Tháng 12 ngày mồng 3 tiết chạp Điều 28: Việc bầu chủ tế giữ tế tự Ông chủ tế thì bầu từ khoa mục phẩm hàm, các chức tư văn từ văn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docX h7897i h7885c nng thng.doc
Tài liệu liên quan