Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt vì hàng hoá sử dụng trong kinh doanh là tiền tệ. Ngân hàng thương mại là một tổ chức tài chính trung gian, hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ và dịch vụ. Hoạt động chủ yếu và thường xuyên của Ngân hàng thương mại là nhận tiền gửi của khách hàng (Huy động vốn) với trách nhiệm hoàn trả, sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nhiệm vụ chiết khấu và cung ứng các dịch vụ thanh toán (sử dụng vốn).
+ Huy động vốn là quá trình NHTM nhận tiền gửi của tổ chức và cá nhân dưới các hình thức nhận tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm, phát hành giấy tờ có giá và tiền vay của NHNN, các tổ chức tín dụng khác.
10 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1626 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Lành mạnh hoá và nâng cao năng lực tài chính của các ngân hàng thương mại để phát triển trong cạnh tranh và hội nhập quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I – PHÁT BIỂU VẤN ĐỀ
“Lành mạnh hoá và nâng cao năng lực tài chính của các ngân hàng thương mại để phát triển trong cạnh tranh và hội nhập quốc tế”
II - LUẬN CHỨNG NÊU VẤN ĐỀ
Việt Nam gia nhập vào Tổ chức thương mại quốc tế (WTO) với tư cách là thành viên thứ 150 đến nay đã được một năm kể từ ngày 8/10/2006. Việc gia nhập sân chơi thương mại toàn cầu này một năm qua đã mang lại cho Việt Nam những thời cơ mới nhưng cũng đưa ra không ít những khó khăn và thách thức. Một trong những khó khăn đầu tiên là Việt Nam phải chủ động trong thực hiện các luật chơi chung của Tổ chức này.
Hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tài chính ngân hàng có thể coi là “trái tim” của nền kinh tế với vai trò to lớn trong việc duy trì, cung ứng, điều phối và lưu thông tiền tệ đảm bảo cho toàn bộ hoạt động của nền kinh tế. Vì vậy việc thực hiện các cam kết trong lĩnh vực tài chính Ngân hàng cũng là một trong những nội dung quan trọng khi Việt Nam gia nhập WTO. Để thực hiện được các cam kết này đòi hỏi các ngân hàng thương mại (NHTM) phải xây dựng và củng cố một nền tảng nội lực vững chắc, chuẩn bị tâm thế sẵn sàng đương đầu với những thách thức và khó khăn khi tham gia sân chơi toàn cầu.
Hiện nay Việt Nam có 4 Ngân hàng thương mại nhà nước lớn, bao gồm: Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và cuối cùng là Ngân hàng Công thương. Một trong những chính sách lớn thể hiện sự chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của Nhà nước ta là thực hiện cổ phần hoá hệ thống ngân hàng thương mại nhà nước trong thời gian tới nhằm “xây dựng các NHTM trở thành các tập đoàn tài chính - Ngân hàng đa sở hữu, kinh doanh đa năng đa lĩnh vực, ngang tầm với các tập đoàn tài chính – ngân hàng tiên tiến trong khu vực Đông Nam Á, hoạt động trên các lĩnh vực: ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán và đầu tư tài chính”. Để thực hiện được mục tiêu này, các NHTM cần có những biện pháp cụ thể nhằm lành mạnh hoá và nâng cao năng lực tài chính để cạnh tranh và phát triển trong điều kiện hội nhập quốc tế.
III - MỘT SỐ QUAN ĐIỂM SAI LẦM TRONG GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Hiện nay tài chính, ngân hàng không còn là một trong những lĩnh vực phát triển mạnh mẽ trên thị trường kinh tế thế giới nhưng tại Việt Nam thì vẫn đang là một trong những lĩnh vực phát triển nóng. Trong năm 2007 vừa qua với một số lượng đông đảo các ngân hàng thương mại cổ phần được thành lập, không những thế thì hàng loạt các tập đoàn cũng xin Chính phủ cấp phép thành lập ngân hàng riêng. Có thể lý giải là do hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng thời gian qua đã đem lại một khối lượng lợi nhuận cao vượt bậc so với các ngành kinh tế khác và đây là nguyên nhân chính cho tình trạng các tập đoàn, tỏ chức đua nhau xin quyết định thành lập ngân hàng. Tuy nhiên, việc kinh doanh trong lĩnh vực được mệnh danh là “trái tim” của nền kinh tế này không hề dễ dàng mà còn phải đối mặt với nhiều nguy cơ rủi ro lớn.
Việc kinh doanh ngân hàng theo phong trào như vậy có quyền lợi “va chạm” với hầu hết các tập đoàn xương sống của nền kinh tế đang làm dấy lên mối lo ngại không chỉ ở cơ quan quản lý nhà nước mà cả giới chuyên gia. Có thể thấy rằng hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng tài chính là hoạt động đặc thù, có tính chuyên sâu cao, vì vậy sự tham gia thành lập ngân hàng để hoạt động bền vững, kinh doanh có lãi mất rất nhiều công sức và thời gian để tạo được một tiềm lực tài chính đủ yêu cầu, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đã có nhiều ngân hàng trong và ngoài nước với mức độ cạnh tranh ngày một gay gắt.
Việc các tập đoàn đua nhau thành lập ngân hàng với hoạt động chủ yếu nhắm đến dịch vụ truyền thống là huy động và cho vay, tài trợ tín dụng cho các dự án nên tiềm ẩn những thách thức không nhỏ, bởi khi thị trường tài chính sôi động, doanh nghiệp dễ dàng huy động vốn từ thị trường chứng khoán, từ các quỹ đầu tư. “Thị trường tín dụng phát triển nhanh, nhưng về lâu dài, sẽ không thể là nguồn thu chủ yếu của các ngân hàng, thế giới đã trải qua những kinh nghiệm như vậy”, ông Lê Xuân Nghĩa, Vụ trưởng Vụ Chiến lược chính sách - NHNN nói.
Theo lộ trình cam kết gia nhập WTO thì các ngân hàng 100% vốn ngoại sắp được thành lập, bản thân các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam đang tăng tốc để đón đầu cơ hội trên các lĩnh vực tiềm năng, như dịch vụ thị trường tài chính, dịch vụ thẻ và tài trợ thương mại, đặc biệt là hoạt động ngân hàng bán lẻ, cho vay tiêu dùng, cho vay thế chấp hướng tới khách hàng cá nhân (người nước ngoài đang sống và làm việc tại Việt Nam, người Việt Nam có thu nhập cao), tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa... Đây cũng là một trong những thách thức lớn mà các ngân hàng thương mại nhà nước Việt Nam phải đối đầu.
Mặt khác, hơn 10 năm trước, khi thị trường tài chính ASEAN khủng hoảng bắt nguồn từ yếu kém trong hoạt động quản trị rủi ro của hệ thống ngân hàng, Việt Nam nằm ngoài cơn địa chấn này do thị trường tài chính còn quá nhỏ bé. Nay, kinh tế Việt Nam đã hội nhập sâu rộng với thế giới, việc lường trước những rủi ro có thể xảy ra để có biện pháp phòng tránh âu cũng chẳng thừa, nhất là trong bối cảnh nguồn lực nhà nước đang có xu hướng chảy vào chỗ trũng: kinh doanh ngân hàng.
Áp dụng quan điểm lịch sử cụ thể vào vấn đề cho thấy Chính phủ Việt Nam cần có những chính sách mạnh mẽ hơn để có thể đảm bảo cho sự phát triển ổn định của toàn nền kinh tế. Việc để các tập đoàn, tổ chức kinh tế đua nhau thành lập tập đoàn không phải là hướng giải quyết tốt cho vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế, mà để cho một ngân hàng thương mại Việt Nam đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế đòi hỏi phải có những chính sách thành công để xây dựng được một tiềm lực tài chính vững vàng.
IV - ĐỊNH HƯỚNG GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Để đón đầu thời cơ và sẵn sàng cho những thách thức mới thì Chính phủ phải đưa ra được các chính sách tài chính phù hợp, đảm bảo cho sự phát triển ổn định của toàn nền kinh tế, nhưng đòi hỏi lớn nhất là bản thân các ngân hàng thương mại cũng phải đưa ra cho mình những chiến lược phát triển, nâng cao năng lực tài chính, phấn đấu đạt yêu cầu và quy chuẩn quốc tế đưa ra.
Các chỉ tiêu đánh giá năng lực tài chính của các ngân hàng thương mại
Năng lực tài chính ở đây được hiểu không chỉ là nguồn lực tài chính đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng mà còn là khả năng khai thác, quản lý và sử dụng các nguồn lực đó phục vụ một cách có hiệu quả cho hoạt động kinh doanh. Việc đánh giá năng lực tài chính được được dựa trên các yếu tố định lượng và định tính như sau:
Các yếu tố định lượng thể hiện nguồn lực tài chính hiện có, bao gồm: quy mô vốn, chất lượng tài sản, khả năng thanh toán và khả năng sinh lời…
Các yếu tố định tính thể hiện khả năng khai thác, quản lý, sử dụng các nguồn lực tài chính được thể hiện qua: trình độ tổ chức, trình độ quản lý, trình độ công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực…
Năng lực tài chính được thể hiện rõ nhất ở các chỉ tiêu chính như quy mô vốn, chất lượng tài sản có, khả năng thanh toán và khả năng sinh lời cũng như khả năng tồn tại và phát triển một cách ổn định và bền vững.
Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt vì hàng hoá sử dụng trong kinh doanh là tiền tệ. Ngân hàng thương mại là một tổ chức tài chính trung gian, hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ và dịch vụ. Hoạt động chủ yếu và thường xuyên của Ngân hàng thương mại là nhận tiền gửi của khách hàng (Huy động vốn) với trách nhiệm hoàn trả, sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nhiệm vụ chiết khấu và cung ứng các dịch vụ thanh toán (sử dụng vốn).
+ Huy động vốn là quá trình NHTM nhận tiền gửi của tổ chức và cá nhân dưới các hình thức nhận tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm, phát hành giấy tờ có giá… và tiền vay của NHNN, các tổ chức tín dụng khác.
+ Sử dụng vốn của NHTM chủ yếu từ hoạt động tín dụng và đầu tư, tín dụng là quá trình NHTM cho các tổ chức và cá nhân vay vốn để phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; đầu tư là quá trình các NHTM dùng vốn tự có và các quỹ của mình mua đi bán lại các giấy tờ có giá (tín phiếu, trái phiếu của Chính phủ, NHNN), chứng khoán hoặc góp vốn, liên doanh liên kết, mua cổ phần…
Năng lực tài chính của 1 NHTM thể hiện ở quy mô vốn, chất lượng tài sản có, khả năng thanh toán và khả năng sinh lời, khả năng tồn tại và phát triển một cách an toàn không để xảy ra đổ vỡ hay phá sản.
+ Quy mô Vốn tự có: Vốn tự có cung cấp năng lực tài chính cho quá trình tăng trưởng, mở rộng quy mô, phạm vi hoạt động cũng như cho sự phát triển của các sản phẩm dịch vụ mới của NHTM. Vốn tự có được hình thành từ nguồn: Vốn điều lệ (Vốn tự có cấp 1 và vốn tự có cấp 2) – Các quỹ dự trữ bổ sung các tài sản nợ khác như lợi nhuận chưa chia, giá trị tăng thêm do đánh giá lại tài sản, trái phiếu chuyển đổi, cổ phiếu ưu đãi… Vốn tự có có chức năng bảo vệ NHTM, giúp NHTM chống lại rủi ro phá sản, bù đắp những thua lỗ về tài chính và nghiệp vụ; Bảo vệ người gửi tiền khi gặp rủi ro trong hoạt động kinh doanh: Nâng cao uy tín của NHTM với khách hàng, các nhà đầu tư. Vì vậy có thể khẳng định: Vốn là yếu tố quan trọng tạo đối với NHTM, vì vốn tự có của NHTM đã nói nên sức mạnh và khả năng cạnh tranh của NHTM trên thị trường trong nước. Đồng thời, vốn tự có đó cũng là cơ sở để NHTM mở rộng hoạt động tới các thị trường tài chính khu vực và quốc tế.
+ Chất lượng tài sản: Tài sản của 1 NHTM thể hiện ở bên tài sản có trên Bảng cân đối kế toán của NHTM đó. Quy mô, cơ cấu và chất lượng tài sản có sẽ quyết định đến sự tồn tại và phát triển của NHTM mà tài sản có bao gồm tài sản sinh lời (Chiếm từ 80-90% tổng tài sản có) và tài sản không sinh lời (chiếm từ 10-20% tổng tài sản có). Tài sản sinh lời gồm các khoản cho vay, cho thuê tài chính và các khoản đầu tư vào giấy tờ có giá chứng khoán, góp vốn liên doanh liên kết… Chất lượng tài sản của NHTM là 1 chỉ tiêu tổng hợp nói lên khả năng bền vững về tài chính, năng lực quản lý của một tổ chức tín dụng. Hầu hết rủi ro trong kinh doanh tiền tệ đều tập trung ở tài sản có.
+ Khả năng sinh lời của NHTM gắn liền với chất lượng tài sản và hiệu quả sử dụng tài sản của NHTM. Nâng cao chất lượng tài sản, chất lượng nguồn vốn cũng chính là nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM. Khả năng sinh lời là chỉ tiêu tổng hợp đánh giá hiệu quả kinh doanh và mức độ phát triển của 1 NHTM. Để đánh giá khả năng sinh lời của NHTM – người ta thường sử dụng các chỉ tiêu lợi nhuận ròng trên tài sản có (ROA); chỉ tiêu lợi nhuận ròng trên vốn tự có (ROE) hoặc chỉ tiêu lợi nhuận ròng trên doanh thu.
+ Bảo đảm an toán vốn trong hoạt động kinh doanh NHTM: Đảm bảo khả năng thanh toán là khả năng sẵn sàng chi trả, thanh toán cho khách hàng của NHTM và khả năng bù đắp những tổn thất khi xảy ra rủi ro trong hoạt động kinh doanh.
Tóm lại: Một NHTM có năng lực tài chính tốt phải là NHTM luôn duy trì được hoạt động bình thường và phát triển 1 cách ổn định, bền vững trong mọi điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội ở trong nước và trên thế giới. NHTM có khả năng cung cấp tín dụng có hiệu quả và các dịch vụ tài chính cho nền kinh tế. NHTM luôn đáp ứng đầy đủ yêu cầu khách hàng về vốn và các dịch vụ ngân hàng phù hợp với quá trình phát triển kinh tế, xã hội trong nước và thế giới. NHTM còn phải bảo đảm được sự tồn tại và phát triển của mình một cách an toàn, không xảy ra những đổ vỡ hay phá sản.
II. Giải pháp của các NHTM nhằm lành mạnh hóa và nâng cao năng lực tài chính trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập quốc tế.
Trong bối cảnh hậu WTO, để thực hiện được các mục tiêu nói trên, đòi hỏi các NHTM phải thực thi các biện pháp tổng thể mang tính đồng bộ và toàn diện nhằm chủ động nắm bắt các cơ hội thị trường và cơ hội hợp tác kinh doanh, xác định các lĩnh vực có tiềm năng và các NHTM có thế mạnh để đầu tư phát triển, khai thác tối đa lợi thế của ngân hàng đi trước; đồng thời, phát triển kinh doanh gắn liền với quản lý rủi ro và lành mạnh tài chính; tăng trưởng gắn liền với hiệu quả và phát triển bền vững.
Trước hết là thực hiện các biện pháp nhằm lành mạnh và nâng cao năng lực tài chính, đưa ngân hàng hoạt động theo chuẩn mực chung; kinh doanh hiệu quả và được phản ánh phù hợp với thông lệ. Theo đó các giải pháp tổng thể cho kế hoạch chiến lược mà các NHTM đang và sẽ thực hiện đó là:
1. Giải pháp về tăng vốn:
Để mở rộng về qui mô hoạt động của tập đoàn đòi hỏi phải tăng khả năng tập trung tích tụ tài chính đáp ứng cho hoạt động ngân hàng và cho các mảng hoạt động cần tập trung đẩy mạnh phát triển cả về qui mô và tốc độ như Bảo hiểm, chứng khoán, đầu tư tài chính – tài sản - bất động sản cả vốn điều lệ, vốn góp vào các quĩ, vốn kinh doanh…. Những nguồn vốn này đòi hỏi phải được tích tụ và tập trung phù hợp với qui mô và tốc độ phát triển. Ngoài nguồn vốn được Nhà nước cấp bổ sung cần tiếp tục phát hành cổ phiếu lần đầu khi cổ phần hoá, tăng từ các quỹ do lợi nhuận để lại, tăng từ quĩ dự phòng, định giá lại tài sản; và các nguồn huy động vốn vay dài hạn khác từ các tổ chức/định chế tài chính quốc tế…
2. Giải pháp về quản lý tài sản nợ- tài sản có:
- Chấn chỉnh hoạt động quản lý tài sản nợ-Tài sản có nhằm quản lý các giới hạn đầu tư, giới hạn an toàn, chênh lệch kỳ hạn thực tế, chênh lệch lãi suất, giới hạn chịu rủi ro,v.v… đưa ra các quyết định theo hướng chuyển dịch cơ cấu tài sản giảm tỷ lệ tài sản có rủi ro (giảm tỷ lệ dư nợ trong dài hạn/tổng dư nợ, giảm tỷ trọng cho vay trong tổng tài sản…) để nâng cao hiệu quả kinh doanh của hệ thống đồng thời kiểm soát được các rủi ro liên quan.
- Tạo lập cơ cấu nguồn vốn ổn định, bền vững với giá hợp lý thông qua việc tăng cường Marketing quảng cáo, tiếp thị mở rộng mạng lưới huy động vốn tại các chi nhánh, địa bàn có tiềm năng để tăng cường huy động vốn, đặc biệt tại các thành phố lớn, các khu trung tâm, tăng tiền gửi thanh toán, tăng huy động dài hạn (trái phiếu) để đảm bảo chênh lệch kỳ hạn (với tín dụng dài hạn) ở mức chấp nhận được.
3. Giải pháp về dịch vụ:
Chú trọng phát triển các sản phẩm dịch vụ trong hoạt động bán lẻ, mở rộng đối tượng khách hàng ngoài quốc doanh. Nghiên cứu phát triển các sản phẩm dịch vụ cung cấp các tiện ích phù hợp cho từng đối tượng khách hàng, phân tích đánh giá hiệu quả của từng sản phẩm dịch vụ ngân hàng tổng thể cũng như tại từng vùng miền, chi nhánh để có định hướng phát triển và điều chỉnh hợp lý.
Kết hợp với đầu tư công nghệ thông tin tiên tiến và hiện đại mang lại nhiều sản phẩm tiện ích, tăng thị phần sản phẩm dịch vụ của các NHTM, qua đó làm dịch chuyển cơ cấu thu nhập từ dịch vụ tăng cao và chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng thu nhập của Ngân hàng, tạo ra nguồn thu bền vững, ít rủi ro.
4. Giải pháp về tín dụng
Tăng cường thanh lọc những khoản nợ xấu bằng nguồn dự phòng rủi ro, nâng cao chất lượng tín dụng bằng các biện pháp thay đổi cơ cấu tín dụng, chuyển dịch và hướng tới cơ cấu cho vay ngắn hạn phù hợp, mở rộng cho vay các khách hàng ngoài quốc doanh. Xác định được ngành kinh tế mũi nhọn để đầu tư hiệu quả, bền vững sẽ hạn chế nợ xấu mới phát sinh
5. Giải pháp về nguồn nhân lực
Hạt nhân của việc có thực hiện thành công kế hoạch chiến lược của Ngân hàng không ai khác chính là nguồn nhân lực của các NHTM. Các NHTM phải xây dựng chiến lược và giải pháp cho nguồn nguyên liệu hiện tại và kế hoạch trong tương lai bằng việc:
Xây dựng hệ thống khuyến khích đối với người lao động (cơ chế tiền lương, khen thưởng, quyền mua cổ phiếu ưu đãi) và các cơ chế khuyến khích khác (đào tạo; thăng tiến …) để lưu giữ nhân tài.
Nâng cao năng lực quản trị điều hành cho các cấp lãnh đạo.
Thuê chuyên gia nước ngoài để xây dựng, quản lý, đào tạo và chuyển giao đối với các lĩnh vực kinh doanh mới và then chốt.
Xây dựng đội ngũ chuyên gia trên các lĩnh vực chuyên môn mũi nhọn, sản phẩm mới, lĩnh vực công nghệ nhằm đáp ứng đầy đủ nhu cầu ngày càng cao của khách hàng tăng khả năng cạnh tranh, hội nhập quốc tế.
Liên tục đào tạo và đào tạo lai cho cán bộ của toàn hệ thống; phổ cập và nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ ngoại ngữ, tin học… cho cán bộ nhân viên ngân hàng để nâng cao năng suất lao động, tăng sức cạnh tranh, đáp ứng yêu cầu hội nhập.
Xây dựng cơ chế ưu đãi về tiền lương, cơ hội thăng tién để thu hút nhân tài đối với các cán bộ làm các ngành khác có trình độ chuyên môn cao phù hợp với nhu cầu phát triển của ngành khác. Đào tạo hoặc thuê chuyên gia đầu ngành ở các lĩnh vực và có cơ chế thu nhập riêng để chiêu mộ và giữ cán bộ trình độ cao.
Với các biện pháp của một số khía cạnh mũi nhọn nêu trên cùng với hàng loạt các biện pháp hỗ trợ như mở rộng mạng lưới, kênh phân phối, quảng bá thương hiệu, quản trị điều hành…, các NHTM Việt nam sẽ từng bước nâng cao năng lực tài chính của mình để tiến dần tới thông lệ trong điều kiện cạnh tranh bình đẳng trên trường quốc tế.
Năng lực tài chính của một NHTM đóng vai trò vô cùng quan trọng. Năng lực tài chính của 1 NHTM càng được đảm bảo thì mức độ rủi ro trong hoạt động ngân hàng càng thấp và năng lực cạnh tranh của NHTM trên thị trường càng cao. Do vậy, Năng lực tài chính của NHTM phải không ngừng được nâng cao và hoàn thiện và là điều kiện không thể thiếu được bất cứ 1 NHTM nào.
CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Triết học, NXB. Lý luận chính trị, năm 2007;
Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin, NXB. Chính trị quốc gia, năm 2007;
Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, lần thứ IX và lần thứ X, NXB. Chính trị quốc gia;
Các tạp chí triết học, tạp chí cộng sản, tạp chí những vấn đề kinh tế thế giới, tạp chí văn hóa nghệ thuật, tạp chí tia sáng nhiều kỳ năm 2007;
Tạp chí Ngân hàng
Báo điện tử Tài chính Việt Nam
Kế hoạch hội nhập quốc tế của các NHTM sau khi Việt Nam gia nhập WTO
Kế hoạch chiến lược phát triển thể chế của các NHTM
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10627.doc