Từ bài học của những quốc gia phát triển trên thế giới và từ thực tiễn cách mạng Việt Nam khẳng định tích tụ và tập trung vốn có một vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp hiện đại hoá đất nước cũng như đối với sản xuất kinh doanh của nền kinh tế.
Việt Nam muốn đạt được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh" thì cần phải tích tụ và tập trung vốn với tỷ lệ cao để tiến hành quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Văn kiện Đại hội VIII đã chỉ ra rằng đến năm 2020 Việt Nam phải hoàn thành nhiệm vụ công nghiệp hoá, cải biến nước ta từ một nước công nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp.
Vấn đề huy động vốn cho quá trình CNH-HĐH có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế nước ta. Trước hết là huy động nguồn vốn từ nội bộ nền kinh tế trong nước. Đây là nguồn vốn có tính quyết định, là nhân tố nội lực. Nhờ tăng năng suất lao động xã hội một cách liên tục mà tạo ra nguồn vốn tự có. Nguồn vốn nội bộ còn được tạo ra từ sự liên doanh liên kết giữa các ngành, các lĩnh vực, các miền, các vùng của nền kinh tế đất nước. Nguồn vốn còn được tạo ra thông qua sự phát triển mạnh mẽ của các công ty cổ phần; thông qua việc huy động các khoản tiền nhàn rỗi của dân cư, của các cơ sở kinh tế, các tổ chức đoàn thể; thông qua các khoản thuế nộp ngân sách Nhà nước v.v.
23 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 14266 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Lý luận về tích luỹ tư bản và vận dụng vào tình hình thực tiễn ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ó. Trong chừng mực cạnh tranh làm cho sự mất giá đó chở nên gay gắt, thì gánh nặng chủ yếu của nó lại trút lên đầu công nhân, vì nhà tư bản tìm cách bù lại thiệt hại cho mình bằng cách tăng cường bóc lột họ.
Lao động đem giá trị của những tư liệu sản xuất mà nó đã tiêu dùng chuyển vào sản phẩm. Mặt khác, giá trị và khối lượng tư liệu sản xuất do một khối lượng lao động nhất định sử dụng, lại tăng lên tỷ lệ với năng suất lao động. Vì vậy, cùng với sự tăng thêm hiệu lực, quy mô và giá trị của tư liệu sản xuất, tức là cùng với sự tích luỹ, diễn ra cùng với sự phát triển sức sản xuất của lao động thì lao động cũng bảo tồn và duy trì vĩnh viễn một giá trị tư bản không ngừng tăng lên dưới hình thức luôn mới. Sự tự nhiên đó của lao động thể hiện ra như là một sức tự bảo tồn của số tư bản mà lao động nhập vào, cũng hoàn toàn giống như những sức sản xuất xã hội của lao động lại thể hiện ra những thuộc tính của tư bản, công việc nhà tư bản thường xuyên chiếm hữu lao động thặng dư thể hiện ra như những sức mạnh của tư bản
Ba là,sự chênh lệch tư bản tiêu dùng và tư bản dử dụng
Tư bản tăng lên thì sự chênh lệch giữa tư bản được sử dụng và tư bản đã tiêu dùng cũng tăng lên. Nói một cách khác : khối lượng giá trị và khối lượng vật thể của những tư liệu lao động như nhà xưởng, máy móc, các thứ khí tài cũng tăng lên; nhưng những thứ đó, trong một thời kì dài hay ngắn, trong những quá trình sản xuất thường xuyên lặp đi lặp lại, đều hoạt động với toàn bộ quy mô của chúng hay được dùng để đạt tới một hiệu quả có ích nhất định, nhưng lại chỉ hao mòn dần dần, và do đó chỉ mất giá trị từng phần một, nghĩa là chỉ chuyển gía trị ấy từng phần một vào sản phẩm mà thôi. Những dự phục vụ không công đó của lao động trong quá khứ, được lao động sống nắm lấy và làm sống lại, đang được tích luỹ lại cùng với quy mô ngày càng tăng của tích luỹ. Như vậy là ý nghĩa ngày càng không ngừng tăng lên của lao động quá khứ hiện đang tham gia vào quá trình lao động dưới hình thức tư liệu lao độngthì không được quy cho bản thân người công nhân(tư liệu lao động chính là lao đông quá khứ và không được trả công của người đó), mà lại quy cho một hình thái khác của lao động đó, hình thái đã tách ra khỏi người công nhân, tức là hình thái tư bản.
Bốn là, quy mô tư bản ứng trước.
Với một mức độ bóc lột sức lao động nhất định , thì khối lượng giá trị thặng dư do con số công nhân bị bóc lột cùng một lúc quyết định, mà số lượng công nhân này thì lại tương xứng với đại lượng của tư bản, tuy là với một tỷ lệ biến đổi. Nhà tư bản có thể nhờ đó mà sống xa hoa hơn và đồng thời lại hy sinh được nhiều hơn. Và cuối cùng quy mô sản xuất càng mở rộng hơn cùng với khối lượng tư bản ứng trước,thì tất cả động lực thúc đẩy sản xuất lại càng tác đông mạnh mẽ hơn.
Với trình độ bóc lột không đổi thì khối lượng giá trị thặng dư sẽ do khối lượng giá trị thặng dư sẽ do khối lượng công nhân bị bóc lột quyết định. Do đó, quy mô của tư bản ứng trước, nhất là bộ phận tư bản khả biến càng lớn, thì giá trị thặng dư bóc lột được và quy mô tích luỹ càng lớn.
II.Quy luật chung của tích luỹ tư bản và xu hướng lịch sử của tích Tích luỹ tư bản.
1.Cấu tạo hữu cơ của tư bản.
Quy mô của tư bản mà tăng lên thì cấu tạo hữu cơ của tư bản cũng có sự biến đổi. C.Mac phân biệt cấu tạo kĩ thuật, cấu tạo giá trị và cấu tạo hữu cơ của tư bản.
Về mặt hình thái vật chất, mỗi tư bản đều gồm có tư liệu sản xuất và sức lao động để sử dụng những tư liệu sản xuất đó. Tỷ lệ giữa số lượng tư liệu sản xuất và số lượng sức lao động sử dụng những tư liệu sản xuất đó trong quá trình sản xuất gọi là cấu tạo kỹ thuật của tư bản. Để tính cấu tạo kĩ thuật của tư bản, người ta thường dùng chỉ tiêu như số năng lượng, hoặc số lượng máy móc do một công nhân sử dụng trong sản xuất, ví dụ: 100 kw đIện / 1 công nhân, 20 máy dệt / 1 công nhân.
Về mặt giá trị, mỗi tư bản đều chia làm hai phần: tư bản bất biến ( c ) và tư bản khả biến ( v). Tỷ lệ giữa tư bản bất biến và tư bản khả biến cần thiết để tiến hành sản xuất gọi là cấu tạo giá trị tư bản. Cấu tạo kỹ thuật và cấu tạo giá trị của tư bản có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nói chung, nhữnh sự thay đổi trong cấu tạo kỹ thuật của tư bản sẽ dẫn đến sự thay đổi trong cấu tạo giá trị tư bản. Để biểu hiện mối quan hệ giữa cấu tạo kỹ thuật và cấu tạo giá trị tư bản. C.Mac dùng phạm trù cấu tạo hữu cơ tư bản.
Cấu tạo hữu cơ tư bản là cấu tạo giá trị của tư bản do cấu tạo kỹ thuật của tư bản quyết định, và phản ánh những biến đổi của cấu tạo hữu cơ đó.
C.Mac viết: “... Tôi gọi kết cấu giá trị của tư bản là kết cấu hữu cơ của tư bản trong trừng mực mà kết cấu giá trị ấy được quyết định bởi kết cấu kỹ thuật của tư bản và phản ánh những sự biến đổi của kết cấu kỹ thuật này ’’.
Cấu tạo hữu cơ của tư bản tăng lên là một quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản. Trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, cấu tạo kỹ thuật của tư bản ngày càng tăng, do đó cấu tạo giá trị của tư bản phản ánh cấu tạo kỹ thuật của tư bản cũng tăng nên cấu tạo hữu cơ của tư bản ngày càng tăng lên. Hơn nữa,việc nâng cao cấu tạo hữu cơ của tư bản còn do yêu cầu của quy luật giá trị thặng dư và quy luật cạnh tranh chi phối.
2.Tích tụ và tập trung tư bản .
Quy mô của tư bản cá biệt tăng lên thông qua hai con đường tập trung và tích tụ tư bản.
Tích tụ tư bản là sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt bằng cách tư bản hoá giá trị thặng dư . Tích tụ và tập trung tư bản có mối quan hệ với nhau, nhưng không đồng nhất với nhau. Sự khác biệt này không chỉ về chất, mà còn khác nhau về lượng.
Tập trung tư bản tuy không làm tăng quy mô tư bản xã hội, nhưng có vai trò rất lớn trong quá trình chuyển sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa và quá trình chuyển chủ nghĩatư bản từ giai đoạn thấp lên giai đoạn cao.
3.Nhân khẩu thừa tương đối trong chủ nghĩa tư bản .
Nguyên nhân của nạn nhân khẩu thừa tương đối :
Khi chủ nghĩa tư bản phát triển đến giai đoạn đại công nghiệp cơ khí, cấu tạo hữu cơ tư bản tăng lên nhanh chóng nhờ sự phát triển mạnh mẽ của kỹ thuật, thì nạn nhân khẩu thừa tương đối xuất hiện.
Nguyên nhân của nạn nhân khẩu thừa tương đối là tích luỹ tư bản trong đIều kiện cấu tạo hữu cơ tăng lên. Nếu tích luỹ trong đIều kiện cấu tạo hữu cơ không thay đổi thì không dẫn đến tình trạng nhân khâủ thừa. Song trong điều kiện cấu tạo hữu cơ của tư bản tăng lên làm cho tỷ trọng của tư bản khả biến trong toàn bộ tư bản giảm xuống. Vì vậy, trong những đIều kiện khác không thay đổi, cấu tạo hữu cơ tư bản tăng lên, thì số cầu về sức lao động của một tư bản có một lượng nhất định giảm xuống.
Tiến bộ kỹ thuật trước hết tác động vào bộ phận tư bản tích luỹ, làm cho cấu tạo hữu cơ của tư bản ngày càng cao hơn cấu tạo hữu cơ tư bản cũ, nên thu hút một lượng công nhân ít hơn so với tích luỹ trong đIều kiện trước đây. Tiến bộ kỹ thuật còn tác động đến tư bản cũ khi tư bản này hao mào hết phải đổi mới tư bản cố định , làm cho cấu tạo hữu cơ của tư bản ngày càng tăng lên, do đó thải ra một số công nhân.
Như vậy, trong quá trình tích luỹ của tư bản khi thì thu hút công nhân, khi thì giãn thải công nhân, nhưng sự thu hút và giãn thải đó không khớp nhau về thời gian, không gian, quy mô do đó tất nhiên một số người không có việc làm, bị thất nghiệp.
Một là, nhân khẩu thừa lưu động là hình thức thất nghiệp tạm thời, phổ biến ở các trung tâm công nghiệp. Tính chất lưu động của nó thể hiện ở chỗ công nhân bị thải nơi này, lúc này, thì lại được nhận vào làm việc nơi khác, lúc khác.
Hai là, nhân khẩu thừa tiềm tàng gồm những người ở nông thôn hàng năm chỉ làm nông nghiêp rất ít, nhưng không tìm được việc làm trong công nghiệp.
Ba là, nhân khẩu thừa ngưng trệ bao gồm những người thường xuyên mất việc làm, sống nay đây mai đó, thu nhập rất thấp, một số phải ăn xin, một số sinh ra chộm cắp, mại dâm.
4. Sự bần cùng hoá giai cấp vô sản
Quá trình tích luỹ tư bản dẫn đến tích luỹ của cải, sự giàu có về một cực về phía giai cấp tư sản và tích luỹ sự thất nghiệp, bần cùng về cực đối lập - về phía giai cấp vô sản. Tốc độ và quy mô tích luỹ càng tăng, thì giai cấp tư sản càng giàu lên nhanh chóng, còn giai cấp vô sản càng bị bần cùng và thất nghiệp. Đó là quy luật chung của tích luỹ tư bản.
Bần cùng hoá giai cấp vô sản biểu hiện dưới hai hình thức: bần cùng hoá tương đối và bần cùng hoá tuyệt đối.
Bần cùng hoá tương đối giai cấp vô sản biểu hiện ở tỷ trọng thu nhập của giai cấp công nhân trong thu nhập quốc dân ngày càng giảm xuống, còn tỷ trọng thu nhập của giai cấp của các nhà tư bản tăng lên không ngừng. Sự bần cùng hoá tương đối không phụ thuộc vào thu nhập và mức sống của giai cấp công nhân, mà phụ thuộc vào sự chênh lệch về mức tăng thu nhập giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản.
Bần cùng hoá tuyệt đối giai cấp vô sản biểu hiện ở mức sống của họ trực tiếp giảm xuống, do tiền công thực tế trực tiếp giảm xuống,do mức tăng lương chậm hơn mức tăng nhu cầu cần thiết, chậm hơn mức tăng giá trị sức lao động.
5.Xu hướng lịch sử của tích luỹ tư bản .
Trong chừng mực mà nó không phảI là sự trực tiếp biến nô lệ và nông nô thành công nhân làm thuê, do đó không phải là một sự thay đổi hình thức giản đơn, thì nó chỉ là sự tước đoạt những người sản xuất trực tiếp, tức là sự xoá bỏ chế độ tư hữu dựa trên lao động của bản thân.
Chế độ tư hữu, với tư cách là cái đối lập với chế độ sở hữu công cộng,tập thể, chỉ tồn tại ở nơi nào mà tư liệu lao động và những đIều kiện bên ngoài của lao động thuộc về tư nhânNhững sắc thái vô cùng tận mà nó thể hiện ra khi ta mới thoạt nhìn, chỉ phản ánh những trạng thái trung gian nằm giữa hai cực ấy mà thôi. Quá trình đó đã biến chế độ tư hữu nhỏ dựa trên lao động cá nhân thành chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa dựa trên sự bóc lột lao động làm thuê, biến sản xuất nhỏ lạc hậu, phân tán thành sản xuất lớn tập trung. sản xuất được xã hội hoá cao hơn, lực lượng sản xuất được phát triển mạnh hơn .
CHƯƠNG II
Sự cần thiết khách quan, các giảI pháp và
vận dụng thực tiễn tích luỹ tư bản ở Việt Nam
I.Vai trò của tích luỹ vốn ở Việt Nam.
Từ bài học của những quốc gia phát triển trên thế giới và từ thực tiễn cách mạng Việt Nam khẳng định tích tụ và tập trung vốn có một vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp hiện đại hoá đất nước cũng như đối với sản xuất kinh doanh của nền kinh tế.
Việt Nam muốn đạt được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh" thì cần phải tích tụ và tập trung vốn với tỷ lệ cao để tiến hành quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Văn kiện Đại hội VIII đã chỉ ra rằng đến năm 2020 Việt Nam phải hoàn thành nhiệm vụ công nghiệp hoá, cải biến nước ta từ một nước công nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp.
Vấn đề huy động vốn cho quá trình CNH-HĐH có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế nước ta. Trước hết là huy động nguồn vốn từ nội bộ nền kinh tế trong nước. Đây là nguồn vốn có tính quyết định, là nhân tố nội lực. Nhờ tăng năng suất lao động xã hội một cách liên tục mà tạo ra nguồn vốn tự có. Nguồn vốn nội bộ còn được tạo ra từ sự liên doanh liên kết giữa các ngành, các lĩnh vực, các miền, các vùng của nền kinh tế đất nước. Nguồn vốn còn được tạo ra thông qua sự phát triển mạnh mẽ của các công ty cổ phần; thông qua việc huy động các khoản tiền nhàn rỗi của dân cư, của các cơ sở kinh tế, các tổ chức đoàn thể; thông qua các khoản thuế nộp ngân sách Nhà nước v.v...
Các quốc gia trên thế giới cũng như nước ta đều phải dùng mọi biện pháp để thu hút vốn đầu tư nước ngoài thông qua các hình thức: liên doanh, hợp tác kinh doanh, vay với lãi suất thấp, vốn viện trợ. Trong điều kiện nền kinh tế tích luỹ vốn nội bộ còn thấp thì thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài là rất quan trọng. Từ nguồn vốn bên ngoài, biến thành nguồn lực trong nước, tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình CNH-HĐH, tăng trưởng và phát triển. Để với việc huy động vốn đầu tư nước ngoài cần có cơ ch thu hút ngày càng nhiều và tranh thủ cùng với công nghệ tiên tiến. Tuy nhiên nguồn vốn nước ngoài cũng chỉ có hạn và thường kèm theo những ràng buộc nhất định, số nước và số cá nhân có vốn đầu tư không tương đương với số nơi có nhu cầu nhận đầu tư, từ đó làm nảy sinh cạnh tranh. Cuộc cạnh tranh này đưa các nước kém phát triển hơn vào lợi thế bất lợi. Còn việc vay vốn thì phải tính đến khả năng trả nợ ngoài ra còn phải đảm bảo các yếu tố khác về độc lập chủ quyền, kinh tế, chính trị.
Vì vậy, để quá trình CNH-HĐH và sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả kinh tế cao, để nền kinh tế phát triển bền vững, tất yếu phải bảo toàn, phát triển vốn, và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
II. Thực trạng quá trình tích luỹ vốn ở Việt Nam .
+ Trước những năm đổi mới (1986).
10 năm sau khi Tổ quốc thống nhất, nhìn chung nước ta đã có những bước phát triển đáng kể trên nhiều lĩnh vực. Tuy vậy, xét chung trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân việc huy động vốn và hiệu quả sử dụng vốn là quá thấp. Quá trình tích tụ và tập trung vốn ở trong các thành phần kinh tế, trong các ngành... chủ yếu thông qua ngân sách nhà nước và vay ngân hàng với lãi suất thấp, nhưng trong đó chủ yếu vẫn là nguồn vốn từ ngân sách. Trong khi đó vốn của ngân sách Nhà nước thì có hạn, cấp không thường xuyên, vốn vay của ngân hàng cũng có hạn. Trong khi dân cư và toàn bộ nền kinh tế lại có tình trạng tồn đọng khá lớn lượng vốn nhàn rỗi, nhưng chưa có một cơ chế phù hợp để tích tụ và tập trung nguồn vốn này cho toàn bộ nền kinh tế. Bởi vì, lãi suất ở thời điểm đó quá thấp, lạm phát đang ở tốc độ “phi mã" (biểu hiện bằng 2 con số)... Điều đó chứng tỏ rằng chưa có một cơ chế phù hợp để tích tụ và tập trung có hiệu quả nguồn vốn cho sự phát triển kinh tế và sự nghiệp hiện đại hoá đất nước.
ở giai đoạn này, do chưa nhận thức được sự cần thiết và sự tồn tại lâu dài của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nước ta, vì thế sau khi nước nhà thống nhất, chúng ta đã nóng vội, thu hút ngày càng nhiều và tranh thủ cùng với công nghệ tiên tiến. Tuy nhiên nguồn vốn nước ngoài cũng chỉ có hạn và thường kèm theo những ràng buộc nhất định, số nước và số cá nhân có vốn đầu tư không tương đương với số nơi có nhu cầu nhận đầu tư, từ đó làm nảy sinh cạnh tranh. Cuộc cạnh tranh này đưa các nước kém phát triển hơn vào lợi thế bất lợi. Còn việc vay vốn thì phải tính đến khả năng trả nợ ngoài ra còn phải đảm bảo các yếu tố khác về độc lập chủ quyền, kinh tế, chính trị.
Vì vậy, để quá trình CNH-HĐH và sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả kinh tế cao, để nền kinh tế phát triển bền vững, tất yếu phải bảo toàn, phát triển vốn, và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
II. Thực trạng quá trình tích luỹ vốn ở Việt Nam .
+ Trước những năm đổi mới (1986).
10 năm sau khi Tổ quốc thống nhất, nhìn chung nước ta đã có những bước phát triển đáng kể trên nhiều lĩnh vực. Tuy vậy, xét chung trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân việc huy động vốn và hiệu quả sử dụng vốn là quá thấp. Quá trình tích tụ và tập trung vốn ở trong các thành phần kinh tế, trong các ngành... chủ yếu thông qua ngân sách nhà nước và vay ngân hàng với lãi suất thấp, nhưng trong đó chủ yếu vẫn là nguồn vốn từ ngân sách. Trong khi đó vốn của ngân sách Nhà nước thì có hạn, cấp không thường xuyên, vốn vay của ngân hàng cũng có hạn. Trong khi dân cư và toàn bộ nền kinh tế lại có tình trạng tồn đọng khá lớn lượng vốn nhàn rỗi, nhưng chưa có một cơ chế phù hợp để tích tụ và tập trung nguồn vốn này cho toàn bộ nền kinh tế. Bởi vì, lãi suất ở thời điểm đó quá thấp, lạm phát đang ở tốc độ “phi mã" (biểu hiện bằng 2 con số)... Điều đó chứng tỏ rằng chưa có một cơ chế phù hợp để tích tụ và tập trung có hiệu quả nguồn vốn cho sự phát triển kinh tế và sự nghiệp hiện đại hoá đất nước.
ở giai đoạn này, do chưa nhận thức được sự cần thiết và sự tồn tại lâu dài của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nước ta, vì thế sau khi nước nhà thống nhất, chúng ta đã nóng vội, muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể để đưa các doanh nghiệp quốc doanh và các hợp tác xã ở miền Bắc lên quy mô lớn, mau chóng thực hiện quốc doanh hoá, tập thể hoá ở miền Nam mà chưa tính đến trình độ quản lý, khả năng trang bị kỹ thuật, khả năng về vốn trong dân và nhất là hiệu quả kinh tế, nên chúng ta đã tạo ra quá trình tập trung vốn một cách hình thức trong toàn bộ nền kinh tế. Vào những năm 80 Đảng và Nhà nước ta đã có sự điều chỉnh bước đầu trong nhận thức và chủ trương trong việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư như : “Nội dung chính của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong 5 năm (1981 - 1985) và những năm 80 là tập trung sự phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu
+Giai đoạn 1986 - 1990
ở giai đoạn này, Đại hội VI của Đảng (tháng 12 năm 1986) đã khẳng định: “Nhiệm vụ bao trùm cả mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo...". Ba chương trình mục tiêu đó thực chất là sự chuyển hướng chiến lược công nghiệp hoá từ việc ưu tiên công nghiệp nặng một cách ồ ạt và hình thức sang lấy nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu làm trọng tâm. Đây là một bước chuyển cực kỳ quan trọng, hợp với điều kiện phát triển kinh tế của đất nước. Xuất phát từ những quan điểm chủ trương đổi mới trên, Đảng ta đã chỉ rõ phải khai thác mọi khả năng của các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế quốc doanh đóng vai trò chủ đạo, kiên quyết xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành cơ chế kế hoạch theo phương thức định hướng là chủ yếu, sử dụng đúng đắn các quan hệ hàng hoá, tiền tệ, tiến tới quản lý bằng phương pháp kinh tế là chủ yếu. Như vậy, ở giai đoạn nà, Đảng và Nhà nước ta đã không chỉ đề cao nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước mà đã thực sự tính đến vai trò rất quan trọng của mọi tầng lớp nhân dân trong tiến trình phát triển kinh tế xã hội. Chính sách tạo vốn thời kỳ này đã chú trọng đến nguồn vốn của hàng vạn cơ sở sản xuất, của hàng triệu gia đình xã viên, trong các thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư nhân, tư bản tư nhân và vốn của một số công nhân viên chức, vốn của những người lao động hợp tác ở nước ngoài về, vốn đầu tư từ bên ngoài...Không những thế, việc mở rộng vầ phát triển nguồn thu và động viên thu nhập quốc dân một cách hợp lý đã đẩy mạnh quá trình tích tụ và tập trung vốn đầu tư từ nhiều kênh khác nhau cho toàn bộ nền kinh tế.
Điều quan trọng là ở giai đoạn này, chúng ta đã xác định được đúng hướng đầu tư. Vốn đầu tư Nhà nước chỉ tập trung chủ yếu cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng và một số công trình then chốt để phục vụ cho 3 chương trình kinh tế và một số chương trình phúc lợi xã hội có liên quan sống còn tới toàn bộ nền kinh tế. Đa phần các công trình sản xuất kinh doanh khác thì việc tích tụ và tập trung vốn đầu tư không nhất thiết phải do ngân sách Nhà nước cấp, mà phải theo nguyên tắc tự vay, tự trả của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Trong giai đoạn này Nhà nước ta đã chủ trương sắp xếp lại một bước các doanh nghiệp Nhà nước, sẵn sàng sát nhập hoặc giải thể các doanh nghiệp nào làm ăn thua lỗ.
Đặc điểm bao trùm của quá trình tích tụ và tập trung vốn trong nước ở giai đoạn này chính là chúng ta đã từng bước xã hội hoá được các nguồn vốn đầu tư, khắc phục những quan điểm phiến diện trước đây là chỉ dựa vào kênh đầu tư của ngân sách Nhà nước, còn ở giai đoạn này, các: “Nguồn lực sản xuất của xã hội được huy động tốt hơn".
Các tổ chức trung gian tài chính cũng đã bắt đầu đổi mới hoạt động tích tụ và tập trung vốn. Với một loạt ngân hàng thương mại được ra đời và chuyển sang hoạt động kinh doanh tiền tệ tín đã tạo ra những yếu tố ban đầu để hình thành thị trường vốn. Trong hệ thống này các ngân hàng thương mại đã được chủ động trong các hoạt động kinh doanh, vì thế nó đã phát triển ngày càng đa dạng, địa bàn kinh doanh ngày càng được mở rộng đến mọi thành phần kinh tế với các hình thức tích tụ và tập trung vốn khá phong phú và uyển chuyển. Chẳng hạn, bên cạnh các hình thức tích tụ và tập trung vốn theo kênh tiết kiệm truyền thống còn có các hình thức tích tụ và tập trung mới theo tín hiệu thị trường như: Các loại kỳ phiếu ngắn hạn, chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu ngân hàng có mục đích, tiết kiệm xây dựng nhà ở... Hệ thống quỹ tín dụng nhân dân đã phát triển mạnh và có vai trò tích cực trong quá trình tích tụ và tập trung vốn ngay trong những năm đầu của sự nghiệp đổi mới.
Đặc biệt trong thời gian này chính sách kinh tế nhiều thành phần của Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đánh thức tiềm năng kinh tế của nhân dân qua việc phát triển mạnh mẽ tích tụ và tập trung vốn từ các hộ gia đình và nhiều loại hình kinh tế hợp tác xã đa dạng trong việc phát triển toàn bộ nền kinh tế Chính điều đó đã làm cho hàng triệu hộ gia đình trên khắp đất nước năng động trong sản xuất kinh doanh, đã đẩy mạnh quá trình tích tụ và tích luỹ vốn.
Quá trình tích tụ và tập trung vốn của đất nước trong giai đoạn 1986 - 1990 đã có những bước chuyển biến đáng kể, nó được tiến hành đồng qua các kênh: Kênh ngân sách Nhà nước, kênh tín dụng, kênh đầu tư của nhân dân, kênh đầu tư từ khu vực nước ngoài(tuynhiên với tỷ lệ còn thấp)..., chứ không phụ thuộc duy nhất vào một kênh ngân sách Nhà nước như ở các giai đoạn trước. Chính từ thực tiễn này đã cho chúng ta những kinh nghiệm quý giá về tích tụ và tập trung vốn từ nhiều nguồn khác nhau và càng làm bộc lộ rõ những khuyết điểm ẩn dấu trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp là đầu tư chủ yếu dựa vào nguồn vốn qua ngân sách Nhà nước, mà không tính đến khả năng to lớn về vốn còn đang tiềm ẩn trong các thành phần kinh tế khác.
Tuy nhiên, bên cạnh những nét khởi sắc về tích tụ và tập trung vốn trong nước ở giai đoạn này vẫn bộc lộ một số vẫn đề cần phải tiếp tục tháo gỡ như: Người dân chưa tích cực bỏ vốn ra đầu tư sản xuất kinh doanh vì chưa thật tin tưởng vào sự ổn định kinh tế, còn sợ lạm phát, chưa có nhiều hình thức huy động vốn thiết thực và linh hoạt, lãi suất chưa hấp dẫn, môi trường kinh tế, môi trường pháp lý và hệ thống hành chính còn lắm thủ tục phiền hà, hơn nữa thị trường vốn ở nước ta chưa phát triển, thậm chí nhiều bộ luật cần thiết cho đầu tư còn thiếu như: Luật thương mại, luật dân sự, thiếu những quy định đồng bộ đối với những nhà đầu tư trong và ngoài nước, đặc biệt là sự chưa rõ ràng về quyền sở hữu bất động sản, sự thiên vị về tín dụng đối với các xí nghiệp quốc doanh... Một điều đáng chú ý trong việc tích tụ và tập trung vốn trong nước giai đoạn này là nguồn thu ngân sách Nhà nước đã được bổ sung khá nhiều, do đó đã có những bước chuyển biến trong việc khai thác và biết cách bồi dưỡng, duy trì nguồn thu. Đây là một trong những thành công lớn. Tuy nhiên, Ngân sách nhà nước vẫn còn thất thu nghiêm trọng, xuất không đủ nhập, bội chi ngân sách vẫn lớn và chưa có biện pháp bù đắp khả thi, dẫn tới lạm phát vẫn ở mức cao. Những nguyên nhân dẫn tới tình hình trên thì khá nhiều, nhưng có nguyên nhân quan trọng và trực tiếp, đó là do công tác tích tụ, tập trung vốn quản lý và sử dụng vốn chưa tốt...Mặt khác, ở giai đoạn này còn thiếu vắng nhiều giải pháp tích tụ và tập trung vốn hữu hiệu. Điều quan trọng là chúng ta chưa tạo ra được một phong trào tiết kiệm thực sự ăn sâu vào suy nghĩ và hành động của mỗi người dân, mỗi công sở và mỗi doanh nghiệp... Vì thế, tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư trong tổng sản phẩm quốc nội còn quá thấp so với các nước xung quanh. Chính những điều đó đã dẫn tới nhiệm vụ tích tụ và tập trung vốn đặt ra trong giai đoạn này không thực hiện được như mong muốn, vì thế tình hình kinh tế - xã hội vẫn ở trong tình trạng khủng hoảng, lạc hậu, mức sống của người dân vẫn thấp. Thực trạng đó đòi hỏi chúng ta phải đổi mới sâu sắc và nhanh hơn tiến trình đổi mới sâu sắc và toàn diện mọi lĩnh vực của nền kinh tế.
+Từ 1991 đến nay.
Đảng và Nhà nước ta tiếp tục những quan điểm chủ trương chính sách đổi mới và phát huy tối đa những kết quả bước đầu của giai đoạn trước (1986 - 1990), do đó Đại hội Đảng lần thứ VII đã nhấn mạnh: “Để thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh theo con đường xã hội chủ nghĩa, điều quan trọng nhất là phải cải biến căn bản tình trạng kinh tế - xã hội kém phát triển.... phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển nền công nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân .Để thực hiện được các mục tiêu đề ra chỉ trong điều kiện khi có đủ vốn, đặc biệt là nguồn vốn trong nước, tuy nhiên cần tranh thủ vốn đầu tư từ nước ngoài.
Có thể nói, nét nổi bật về tích tụ tập trung vốn trong giai đoạn này là sự đổi mới trong hoạt động của hệ thống ngân hàng. Xuất hiện một số trung tâm tài chính khác như công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư... Đặc biệt là ngành ngân hàng ở nước ta đã có sự chuyển biến để thích ứng với cơ chế mới, hệ thống ngân hàng được đổi mới về tổ chức và phương thức hoạt động, đặt nền móng cho những ứng xử hiện đại năng động và hiệu quả của hệ thống ngân hàng đã đang và sẽ vươn lên làm tốt chức năng là trung tâm tiền tệ, tín dụng và thanh toán của các thành phần kinh t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Lý luận về tích luỹ tư bản và vận dụng vào tình hình thực tiễn ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.DOC