MỤC LỤC
A. GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
· B. NỘI DUNG
I. Lí luận chung về mâu thuẫn biện chứng trong công cuộc xây dựng
nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam
1, Cơ sở lí luận
a, Mâu thuẫn biện chứng, quy luật thống nhất và đấu tranh giữa
các mặt đối lập
b, Nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa
2, Cơ sở thực tiễn
a, Thực trạng nền kinh tế nước ta khi chuyển sang kinh tế thị
trường theo định hướng XHCN
b, Thực trạng của quá trình chuyển sang kinh tế thị trường ở nước ta
II. Mâu thuẫn biện chứng trong công cuộc xây dựng nền kinh tế
thị trường ở Việt Nam hiện nay
1, Đặc điểm mâu thuẫn biện chứng trong quá trình đổi mới
chuyển sang kinh tế thị trường ở Việt Nam
a, Những mâu thuẫn tiêu biểu trong quá trình xây dựng nền kinh tế
thị trường ở Việt Nam
b, Tác động của mâu thuẫn biện chứng đến nền kinh tế thị trường
2, Giải pháp đối với mâu thuẫn biện chứng trong công cuộc xây
dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta
C. KẾT LUẬN
22 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1432 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Mâu thuẫn biện chứng trong công cuộc xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lao động. Loại hàng hóa này có ưu điểm là sau khi mua ngừơi mua không bị lỗ mà còn thu được lãi. Lãi này được thể hiện ở phần giá trị thặng dư trong sản phẩm, được sinh ra do lao động trừu tượng của ngừơi công nhân. Sự đa dạng và phong phú về số lượng và chủng loại những hàng hóa trên thị trường cho thấy trình độ phát triển cao của năng suất lao động, của quan hệ trao đổi, phân công lao động xã hội và phát triển thị trường.
Ba là: Giá cả được hình thành ngay trên thị trường.Giá cả thị trường vừa là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị thị trường, vừa chịu sự tác động của quan hệ cạnh tranh, quan hệ cung cầu hàng hóa và dịch vụ.
Bốn là: Cạnh tranh là một tất yếu của kinh tế thị trường. Muốn có nhiều lợi nhuận, các đơn vị sản xuất và kinh doanh phải đua nhau cải tiến kĩ thuật, nâng cao năng suất lao động cá biệt, giảm chi phí lao động cá biệt nhằm thu lợi nhuận siêu ngạch.Trong kinh tế thị trường, cạnh tranh diễn ra trong tất cả các lĩnh vực sản xuất và lưu thông, trong nội bộ từng ngành và giữa các ngành với nhau.
Năm là: Kinh tế thị trường là hệ thống kinh tế mở, được điều hành bởi hệ thống tiền tệ và pháp luật của Nhà nước.
Mỗi đặc trưng trên đây phản ánh một khía cạnh của nền kinh tế thị trường. Tổng hợp cả năm đặc trưng sẽ giúp ta hình dung được khái quát cấu trúc của mô hình kinh tế này.
Thực tiễn vận động của nền kinh tế thế giới những năm gần đây cho thấy mô hình phát triển kinh tế theo xu hướng thị trường có sự điều tiết vĩ mô từ trung tâm, trong bối cảnh của thời đại ngày nay là mô hình hợp lý hơn cả. Mô hình này, về đại thể, đáp ứng được những thách thức của sự phát triển.
ở nước ta, việc thực hiện mô hình này, trên thực tế, chẳng những là nội dung của công cuộc đổi mới mà hơn thế nữa, còn là công cụ, là phương thức để nước ta đi tới mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là sự định hướng của một xã hội mà sự hùng mạnh của nó nhờ vào sự giàu có và hạnh phúc của nhân dân. Xã hội không có chế độ ngừơi bóc lột ngừơi, dựa trên cơ sở “nhân dân lao động làm chủ, con ngừơi được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân”. Xã hội có nền kinh tế phát triển cao trên cơ sở khoa học, công nghệ và lực lượng sản xuất hiện đại.
Định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường ở nước ta là cần thiết vầ có tính khách quan. Nội dung định hướng XHCN của kinh tế thị trường ở nước ta đã được hội thảo khoa học nhiều lần. Đã có nhiều ngừơi cho rằng thị trường là cái của riêng của chủ nghĩa tư bản; thậm chí là không có thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa vì kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội là hai thứ không thể dung hợp được. Họ cho rằng: “ Cả về lí thuyết và thực tiễn, kinh tế thị trường-điều kiện tất yếu để phát triển kinh tế - không thể đi đôi với định hướng xã hội chủ nghĩa đụơc”...Xong thực tế đã chứng minh đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Theo ý kiến của đa số các nhà khoa học Việt Nam, có thể quan niệm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở nước ta có những nội dung chính như sau:
Một là: Hai mặt kinh tế và xã hội của nền kinh tế thị trường nước ta được chủ động kết hợp với nhau ngay từ đầu thông qua pháp luật, chính sách kinh tế và chính sách xã hội trên cả tầm quản lí vĩ mô và vi mô. Nếu ở tầm vi mô, các chủ doanh nghiệp lấy lợi nhuận là mục tiêu xác định hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh thì ở tầm vĩ mô, Nhà nước dùng hiệu quả kinh tế-xã hội làm mục tiêu quản lí nhằm thực hiện tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.
Hai là: cùng với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, môi trường sinh thái của đất nước được chủ động bảo vệ.
Ba là: Nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là nền kinh tế có trình độ phát triển cao, có tích luỹ trong nội bộ nền kinh tế.
Bốn là: Kinh tế nhà nước phải phát huy vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế hợp tác là nền tảng của nền kinh tế trong nước. Ngoài ra, Nhà nước đầu tư, phát triển các doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế khác nhằm tạo ra nhiều việc làm cho dân và góp phần tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội. Các thành phần kinh tế được phát triển một cách bình đẳng với nhau.
Năm là: Nhà nước XHCN thực hiện vai trò “bà đỡ”, tạo điều kiện thuận lơi cho kinh tế thị trường phát triển đúng hướng. Vai trò đó được thể hiện bằng hệ thống pháp luật.
Sáu là: Nền kinh tế thị trường ở nước ta là nền kinh tế dân tộc hòa nhập với kinh tế quốc tế, tạo điều kiện tiếp thu những thành tựu mới của khoa học-kĩ thuật, công nghệ thế giới, thực hiện công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
2, Cơ sở thực tiễn
a, Thực trạng nền kinh tế nước ta khi chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng XHCN:
Khi chuyển sang kinh tế thị trường, chúng ta đứng trước một thực trạng là: đất nước đã và đang từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một xã hội vốn là thuộc địa nửa phong kiến với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội rất thấp. Hơn nữa, nền kinh tế nước ta chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Vì vậy, nền kinh tế nước ta tuy không còn hoàn toàn là kinh tế tự nhiên tự cung tự cấp, nhưng cũng chưa phải là kinh tế hàng hóa theo nghĩa đầy đủ. Mặt khác, do có sự đổi mới về mặt kinh tế cho nên nền kinh tế nước ta cũng không còn là nền kinh tế chỉ huy. Có thể nói, thực trạng kinh tế nước ta khi chuyển sang kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa kém phát triển, còn mang tính chất tự cấp tự túc và chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Thực trạng này được biểu hiện ở các mặt sau:
Kinh tế hàng hóa còn kém phát triển, nền kinh tế còn mang nặng tính chất tự cấp tự túc. Sự yếu kém đó được thể hiện ở:
- Trình độ cơ sở vật chất- kĩ thuật và công nghệ xản xuất yếu kém.
- Hệ thống kết cấu hạ tầng, dịch vụ xã hội chưa đủ để phát triển kinh tế thị trường ở trong nước và chưa đủ khả năng để mở rộng giao lưu với thị trường quốc tế.
- Cơ cấu kinh tế còn mất cân đối và kém hiệu quả. Từ xuất phát điểm thấp, nền kinh tế nước ta còn phổ biến là sản xuất nhỏ cho nên cơ cấu kinh tế nước ta còn mang nhiều tính chất của một cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Ngành nghề chưa phát triển. Sau Đại hội Đảng, tuy cơ cấu kinh tế ngành và cơ cấu thành phần kinh tế đã có nhiều thay đổi, nhưng vẫn chưa hình thành được một cơ cấu kinh tế mới hợp lí và có hiệu quả.
- Chúng ta chưa có thị trường theo đúng nghĩa của nó. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta đã được hình thành và đang phát triển. Vì vậy, thị trường ở nước ta cũng đang được hình thành và phát triển. Xem xét một cách khái quát về thị trường ở nước ta trong những năm vừa qua thì thấy thị trường ở nước ta còn là thị trường ở trình độ thấp. Tính chất của nó còn hoang sơ. Về cơ bản, nước ta vẫn chưa có thị trường sức lao động hoặc chỉ mới có thị trường này ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh với hình thức thuê mứơn còn thô sơ. Tuy vậy điều này đã phản ánh sự đổi mới to lớn trong nhận thức và quan điểm của Đảng và dân ta về sức lao động và các loại hàng hóa khác. Một thời gian dài ở nước ta, tư liệu sản xuất lưu chuyển trong nội bộ các xí nghiệp quốc doanh là những hàng hóa đặc biệt. Nó không được mua bán một cách tự do và sở dĩ như vậy là vì vai trò đặc biệt quan trọng của những tư liệu sản xuất. Nếu tư liệu sản xuất rơi vào tay tư nhân, nó sẽ trở thành phương tiện nô dịch lao động của ngời khác. Sức lao động, tiền vốn cũng đựoc quan niệm khôngphải là hàng hóa v.v... Bên cạnh đó chúng ta vẫn chưa có thị trường tiền tệ và thị trường tiền vốn, hoặc mới chỉ có thị trường này ở khu vực ngoài quốc doanh.
- Năng suất lao động xã hội và thu nhập quốc dân tính theo đầu ngừơi còn thấp. Do vậy, mức tiêu dùng của xã hội từ năm 1988 đến năm 1990 đều lớn hơn mức GDP hàng năm. Chúng ta không có tích luỹ nội bộ từ nền kinh tế trong nước. Cụ thể là từ năm 1988 đến năm 1990 tiết kiệm đều là số âm ( năm 1988: -50; năm 1990: -10 ). Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới năm 1991 thì mức thu nhập bình quân tính theo đầu ngừơi của nước ta vào loại thấp nhất trong các nước Đông Nam á ( Việt Nam: trên 200 USD, trong khi đó, Trung Quốc là 370 USD, Thái Lan:1420 USD,...)
Một thời gian dài tồn tại nền kinh tế tập trung quan liêu bap cấp ở nước ta đã để lại những ảnh hưởng không nhỏ tới công cuộc đổi mới mà chúng ta đang tiến hành.
Do nhận thức chủ quan duy ý chí về nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cho nên trong nhiều thập kỉ vừa qua, ở nước ta đã tồn tại mô hinh kinh tế chỉ huy với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Thực tiễn hoạt động kinh tế đã chứng minh mô hình này có nhiều nhược điểm. Nó gần như đối lập với kinh tế hàng hóa vận động theo cơ chế thị trường. Cơ chế cũ hình thành trên cơ cở thu hẹp hoặc gần như xóa bỏ quan hệ hàng hóa tiền tệ, làm cho nền kinh tế bị “hiện vật hóa”. Còn cơ chế mới được hình thành trên cơ sở mở rộng quan hệ hàng hóa tiền tệ. Trong cơ chế cũ, các phạm trù giá cả, tài chính, lưu thông tiền tệ là những phạm trù vốn có của kinh tế hàng hóa mặc dù có được sử dụng xong chỉ là hình thức.
Hậu quả của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp hết sức nặng nề. Điều này được thể hiện:
- Một là: làm mất sức mạnh của tổ chức thống nhất theo kế hoạch trước hết đối với kinh tế Nhà nước. Sự chỉ huy tập trung và theo nhiều mối đã gây ra sự gò bó, vướng mắc. Từ đó, cơ chế tập trung trở thành bất lực và buông lỏng cho thực tế tự phát.
- Hai là: làm suy yếu, triệt tiêu động lực kinh tế, thậm chí gây ra tác động như khuyến khích sự ỷ lại, dựa dẫm, lừơi biếng gây thiệt hại cho những ngừơi tích cực, tạo môi trờng cho lãng phí, gây thất thoát tài sản quốc gia.
- Ba là: cản trở mục tiêu ổn định, cải thiện đời sống phát triển sản xuất. Trong điều kiện tồn tại cơ chế giao nộp và cấp phát, dù có nói nhiều đến bao nhiêu về qui luật giá trị thì đó cũng chỉ là hình thức.
b, Thực trạng của quá trình chuyển sang kinh tế thị trường ở nước ta
Từ sự phân tích thực trạng của nền kinh tế nước ta khi chuyển sang kinh tế thị trường có thể rút ra kết luận: Thực trạng của quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là quá trình kết hợp giữa chuyển nền kinh tế còn mang nặng tính chất tự cấp tự túc sang nền kinh tế hàng hóa tiến tới nền kinh tế thị trường và quá trình chuyển cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước. Lịch sử đã chứng minh rằng không thể chuyển nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn nếu thiếu “đòn xeo” là kinh tế hàng hóa. Chính C.Mác đã coi sự phát triển của kinh tế hàng hóa là xuất phát điểm và là điều kiện quan trọng nhất không thể thiếu được đối với nền sản xuất lớn TBCN và nâng cao hơn là điều kiện quan trọng, tiền đề cho chúng ta tiến hành thành công sự nghiệp tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Về thực chất, đây là sự phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần nhằm khơi dậy sự sống động của nền kinh tế, mở rộng giao lưu hàng hóa giữa thành thị và nông thôn, thực hiện các quan hệ kinh tế bằng hình thức quan hệ hàng hóa tiền tệ trên thị trường. Khác với một số nước xã hội chủ nghĩa khác khi chuyển nền kinh tế sang nền kinh tế thị trường, khi các nước đó đã có sự phát triển cao hơn chúng ta rất nhiều về lực lợng sản xuất, chúng ta chuyển sang nền kinh tế thị trường trong hoàn cảnh nền kinh tế mang tính chất tự cung tự cấp là phần lớn. Vì vậy, trước hết, quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta là quá trình chuyển nền kinh tế kém phát triển, mang nặng tính chất tự cung tự cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Bên cạnh đó, một thời gian dài ở nước ta đã tồn tại mô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế kế hoạch hóa tập trung. Cơ chế này như đã nói ở trên gần như đối lập với thị trường, nơi được coi là trung tâm của sản xuất và tái sản xuất xã hội. Vì vậy quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta còn là quá trình xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước.
Quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang kinh tế thị trường đồng thời cũng là quá trình thực hiện nền kinh tế mở, nhằm hòa nhập thị trường trong nước với thị trường thế giới. Kinh tế “đóng”, “khép kín” thường gắn với nền kinh té phong kiến, gắn với sản xuất nhỏ mang tính chất cục bộ, địa phương chủ nghĩa với tình trạng “bế quan toả cảng”. Kinh tế mở là đặc điểm và là xu thế của thời đại ngày nay mà bất kì một quốc gia nào cũng phải coi trọng. Trong điều kiện của nước ta, bài học về sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thơi đại trong cuộc đấu tranh giành độc lập tự do trước đây một lần nữa lại sống động trrong công cuộc phát triển đất nước với bối cảnh và điều kiện mới.
II. mâu thuẫn biện chứng trong công cuộc xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay
1, Đặc điểm mâu thuẫn biện chứng trong quá trình đổi mới, chuyển sang kinh tế thị trường ở Việt Nam
a. Những mâu thuẫn tiêu biểu trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
Từ những năm đầu thập kỉ 90 trở lại đây, có lẽ không còn mấy ai nghi ngờ về vai trò của sản xuất hàng hóa , của kinh tế thị trường trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tuy vậy, bản thân kinh tế thị trường lại có tính hai mặt của nó. Cho nên trong thực tế, cũng đã hình thành một số mâu thuẫn không tránh khỏi. Đó là mâu thuẫn luôn tồn tại từ khi con ngừơi bắt đầu biết lao động, biết tác động tới thế giới khách quan, biết quan hệ với nhau trong lao động để tạo ra của cải vật chất cho cuộc sống của mình: mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; đó là những mâu thuẫn tồn tại bên trong nền sản xuất: mâu thuẫn giữa tích lũy và tiêu dùng, mâu thuẫn giữa cung và cầu,...Ngoài những mâu thuẫn thường xảy ra đối với tất cả các nền kinh tế, không phụ thuộc hình thức vận hành, thì công cuộc xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta còn gặp phải một số mâu thuẫn khác như: mâu thuẫn giữa các hình thức sở hữu, mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội, giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con ngừơi theo định hướng xã hội chủ nghĩa, giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, giữa tính kế hoạch cao độ trong từng xí nghiệp với tính vô chính phủ của toàn bộ nền kinh tế,...
- Trước hết, ta xét tới mối quan hệ biện chứng giữa hai nhân tố cơ bản tạo nên quá trình sản xuất xã hội: lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa con ngừơi với tự nhiên được hình thành trong quá trình sản xuất, bao gồm tư liệu sản xuất và ngừơi lao động. Trong khi đó quan hệ sản xuất được hiểu là toàn bộ những quan hệ giữa ngựơi với ngừơi trong quá trình sản xuất và tái sản xuất vật chất của xã hội. Nó được thể hiện ở ba mặt cơ bản: quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức và quản lí sản xuất, quan hệ phân phối sản phẩm lao động. Mác đã chỉ ra rằng: trong sự sản xuất xã hội con ngừơi có những quan hệ nhất định tất yếu, không phụ thuộc vào ý muốn của họ. Vì vậy, con ngừơi không thể tuỳ tiện lựa chọn quan hệ sản xuất riêng cho mình, bởi vì chúng luôn luôn là kết quả phát triển tất yếu khách quan của một lực lượng sản xuất có tương ứng với nó. Trên thực tế, lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành, phát triển và biến đổi của quan hệ sản xuất. Khi không thích ứng với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất sẽ kìm hãm, thâm chí phá hoại sự phát triển của lực lượng sản xuất. Lúc này, mâu thuẫn giữa chúng sẽ nảy sinh. Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vấn đề này cũng rất phức tạp. Biểu hiện cụ thể là một số các quan hệ sản xuất tồn tại từ thời kì bao cấp nh tệ quan liêu, cửa quyền, sự ỷ lại, phụ thuộc lẫn nhau, chưa có ý thức tự giác trong lao động sản xuất của một số cộng nhân viên chức không những đã kìm hãm sự phát triển của nền sản xuất lúc bấy giờ, mà hiện nay, khi tác phong công nghiệp, sự tự giác cao trong công việc được đề cao hơn bao giờ hết, thì những quan hệ vừa kể trên trong thời kì kinh tế tập trung quan liêu bao cấp lại càng không thể phù hợp, và không có lí do gì cho sự tiếp tục tồn tại. Chúng chắc chắn sẽ tạo ra những ảnh hưởng xấu tới sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Suốt một thời gian dài, chúng ta đã ra sức chứng minh cho luận điểm nói rằng do lực lượng sản xuất ở ta vô cùng thấp kém nên trước hết phải cải tạo quan hệ sản xuất mới làm đòn bẩy đẩy lực lượng sản xuất phát triển, rằng quan hệ sản xuất ở tâ đi trước sẽ kéo theo lực lượng sản xuất phất triển theo, bất chấp một sự thật là do một số yếu tố của quan hệ sản xuất đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất nên thực tế sự đi quá xa đó đã kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất như chúng ta đã biết. Ví dụ ta đã chứng minh cho tính chất khoa học và cách mạng của chủ trương cho rằng từ sản xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa có nghĩa là ngay từ đầu phải đẩy mạnh công nghiệp nặng để đủ sức trang bị cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân, bất chấp một sự thật là chủ trương đó không phù hợp với hoàn cảnh của nước ta đi lên từ sản xuất nhỏ, cần có giai đoạn chuẩn bị, tạo những điều kiện tiền đề cần thiết thì mới tiến hành và đẩy mạnh công nghiệp hóa đợc. Như vậy cho thấy sự không phù hợp của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất ở nước ta trong thời kì tập trung quan liêu bao cấp, tạo nên mâu thuẫn gay gắt giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, mà chúng ta vô tình hay cố ý đã không nhận ra. Từ đó đã không có những biện pháp cụ thể để cải thiện tình hình. Điều này có thể hiểu là do sự nôn nóng, chủ quan duy ý chí của chúng ta, muốn đẩy nhanh quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội mà đã không tuân theo các quy luật khách quan, mà qui luật phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là một ví dụ tiêu biểu.
Ngược lại, các chính sách hợp lí của Nhà nước trong việc chuyển đổi hợp lí cơ cấu, duy trì sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế đi lên chủ nghĩa xã hội, tức là các chính sách đổi mới quan hệ sản xuất, đa quan hệ sản xuất tiến gần hơn, phù hợp hơn với lực lượng sản xuất chính là bước đi tất yếu đưa nền kinh tế từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn hơn, hướng tới một phương thức sản xuất cao hơn trong điều kiện cụ thể của nền kinh tế còn phổ biến là lạc hậu ở nước ta.
- Bên cạnh mâu thuẫn có tính chất phổ biến trong mọi nền kinh tế, trong công cuộc xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta còn nảy sinh mâu thuẫn giữa các hình thức sở hữu. Các Mác đã nêu ra hai điều kiện hình thành kinh tế thị trường là sở hữu khác nhau và sự phân công lao động xã hội. Điều đó cho thấy vấn đề sở hữu là vấn đề mấu chốt, liên quan tới nền tảng của nền kinh tế thị trường. Vì vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu các hình thức sở hữu mà sâu hơn là mối quan hệ giữa chúng là vô cùng cần thiết. Nó sẽ tạo cho chúng ta có một cái nhìn tổng thể, đúng đắn, phát huy vai trò của từng hình thức sở hữu trong công cuộc đổi mới của đất nước.
Hiện nay nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần của chúng ta đang được xây dựng dựa trên cơ sở các hình thức sở hữu khác nhau: sở hữu toàn dân, sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu cá thể, sở hữu tư bản tư nhân. Chung qui lại có hai xu hướng sở hữu chính là công hữu và tư hữu. Chúng ta xét tới hai đại diện của chúng là sở hữu Nhà nước và sở hữu tư bản tư nhân.
Trước đây, ngừơi ta vẫn quan niệm những hình thức sở hữu trong xã hội xã hội chủ nghĩa là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Sự tồn tại của hai hình thức đó là tất yếu khách quan bởi những điều kiện lịch sử khi tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội quyết định. Và cho rằng sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa là hình thức sở hữu đặc trưng của chủ nghĩa tư bản, nó không thể tồn tại và phát triển trong xã hội của chúng ta. Đặc biệt nếu cùng tồn tại với sở hữu Nhà nước thì lại càng không được. Điều này sẽ tạo nên mâu thuẫn lớn. Chính vì vậy, sau khi giành được chính quyền, chúng ta đã ồ ạt xóa bỏ chế độ tư hữu, phủ nhận vai trò và sự tồn tại của chế độ tư hữu. Trên thực tế, C.Mác đã viết: “Đây là sự phủ định của phủ định. Nó khôi phục lại chế độ sở hữu cá nhân dựa trên những thành tựu của thời đại tư bản chủ nghĩa - trên sự hợp tác của những ngừơi lao động tự do và sự sở hữu chung của họ về ruộng đấtvà về những tư liệu sản xuất do chính lao động làm ra. Dĩ nhiên, việc biến chế độ tư hữu phân tán dựa trên cơ câu lao động của bản thân các cá nhân thành chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa là một quá trình lâu dài, gian khổ đau đớn hơn nhiều so với việc biến chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa thực tế đã dữa trên một quá trình sản xuất xã hội, thành chế độ sở hữu xã hội. Chỉ có thế thôi. Như vậy, tình hinh tước đoạt những kẻ tước đoạt được coi như là sự khôi phục chế độ sở hữu, có nghĩa là sở hữu xã hội bao gồm ruộng đất và tư liệu sản xuất khác, còn sở hữu cá nhân bao gồm các sản phẩm còn lại, tức là những vật liệu tiêu dùng”(1). Cũng vấn đề này, Ăng-ghen cho rằng: “Một mặt sự chiếm hữu trực tiếp của xã hội về các sản phẩm, coi đó là những tư liệu để duy trì và phát triển sản xuất, mặt kkhác là sự chiếm hữu trực tiếp của cá nhân về các sản phẩm, coi đó là tư liệu sinh hoạt và hưởng thụ” (2). Từ ý kiến của Mác và Ăng-ghencho thấy việc hình thành một nền kinh tế dựa trên sự sở hữu hỗn hợp, ở đó có sự kết hợp hài hòa sở hữu xã hội và sở hữu cá nhân ngay trên lĩnh vực sở hữu tư liệu sản xuất là hoàn toàn có thể.
Vì vậy Đại hội Đảng lần thứ VI đã phát hiện và kiên quyết thông qua đổi mới để khắc phục sai lầm, bằng cách thừa nhận vai trò và sự tồn tại của chế độ tư hữu trong tính đa dạng các hình thức sở hữu. Đây là bước ngoặt về mặt nhận thức lí luận mang tầm vóc chiến lược mới, thể hiện sự đổi mới từ gốc của Đảng ta. Hiện nay Đảng ta hướng sở hữu Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, “làm đòn bẩy đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đẻ xã hội; mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần khác cùng phát triển, làm lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô” (3). Còn sở hữu tư nhân tồn tại với tư cách là một động lực, có tác dụng không nhỏ đối với sự phát triển kinh tế. Sở hữu tư nhân mà ta nói tới ở đây là sở hữu tư nhân dựa trên cơ sở xã hội hóa dứơi hình thức cổ phần hóa mà hình thức này có tỷ trọng khống chế, cũng được đặt trong điều kiện có sự kiểm soát của Nhà nước và vai trò chủ đạo của sở hữu Nhà nước. Chính sự kết hợp hài hòa giữa hai hình thức sở hữu này sẽ là tiền đề vô cùng quan trọng cho chúng ta xây dựng thành công nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
(1): C.Mác-Ăng ghen: Toàn tập, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà nội, 1994, t 20, tr 186-187
(2): C.Mác-Ăng ghen: Sđd, toàn tập, t 20, tr 388.
(3): Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia , Hà Nội, 1996, tr 93.
- Ngoài những mâu thuẫn kể trên chúng ta không thể không xét tới mâu thuẫn biện chứng giữa việc xây dựng nền kinh tế thị trường với mục tiêu xây dựng con ngừơi trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói, muốn xây dưng chủ nghĩa xã hội trước hết phải có con ngừơi xã hội chủ nghĩa. Yếu tố con ngừơi giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp cách mạng, bởi vì con ngừơi là chủ thể của mọi sáng tạo, của mọi nguồn của cải vật chất và văn hóa. Con ngừơi phát triển cao về trí tuệ, cờng tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức, là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới, là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Từ một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải bắt đầu từ con ngừơi, lấy con ngừơi làm điểm xuất phát. Một trong những điều kiện đảm bảo thắng lợi cho sự nghiệp xây dựng con ngừơi trong giai đoạn hiện nay là đời sống sinh hoạt vật chất. Những nhu cầu vật chất - tinh thần phong phú của con ngừơi chỉ có thể được thoả mãn trong một nên kinh tế vững bàng, ổn định, phát triển cao, có tốc độ tăng trưởng nhanh. Việc tiến hành sự nghiệp trồng ngừơi hôm nay gắn bó một cách mật thiết với quá trình mở rộng, hoàn thiện kinh tế thị trường kết hợp với mở cửa giao lưu quốc tế.
Thực tiễn những năm gần đây cho thấy, đất nước ta chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước là phù hợp với qui luật khách quan, hợp lòng dân, đáp ứng yêu cầu của cuộc sống. Đây chính là nội dung của công cuộc đổi mới, là con đường, phương thức xây dựng con ngừơi mới trong quá trình vận động biện chứng của xã hội.
Như chúng ta đã phân tích ở trên, kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa phát triển ở giai đoạn cao. Kinh tế thị trường là một loại hình kinh tế mà trong đó, các mối quan hệ kinh tế giữa con ngừơi với con ngừơi được biểu hiện thông qua thị trường, tức là thông qua việc mua-bán, trao đổi hàng hóa- tiền tệ. Trong kinh tế thị trường, các quan hệ hàng hóa tiền tệ phát triển, mở rộng, bao quát, trên nhiều lĩnh vực, có ý nghĩa phổ biến đối với ngừơi sản xuất và tiêu dùng. Do nảy sinh và hoạt động một cách khác quan trong những điều kiện lịch sử nhất định, kinh tế thị trường phản ánh trình độ văn minh và sự phát triển của xã hội. Xuất phát từ sự phân tích trên cho thấy, đối với nước ta hiện nay, không thể xây dựng và phát triển con ngừơi nếu thiếu yếu tố kinh tế thị trường.
Do hậu quả nặng nề của chiến tranh, của nền kin
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29546.doc