Đại hội IV chưa xác định được những mục tiêu của chặng đường đầu tiên. Cụ thể là trong 5 năm 1976 – 1980, đảng ta chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết, chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, cụ thể là đã đề ra những chỉ tiêu kế hoạch quá cao về xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất, không coi trọng đúng mức việc khôi phục và sắp xếp lại nền kinh tế, chỉ thiên về xây dựng công nghiệp nặng và những công trình quy mô lớn, không tập trung sức giải quyết căn bản vấn đề lương thực, thực phẩm, phát triển hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
Đại hội V đã cụ thể hóa một bước đường lối kinh tế trong chặng đường trước mắt, đề ra những mục tiêu tổng quát, các chính sách lớn về kinh tế, xã hội nhưng trong chỉ đạo thực hiện đã không quán triệt đầy đủ các quy luật khách quan, chưa kiên quyết khắc phục tư tưởng nóng vội chủ quan và bảo thủ thể hiện chủ yếu trong các chủ trương về cơ cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và cơ chế quản lý kinh tế. Cụ thể là đã chưa thật sự coi trọng phát triển nông nghiệp, coi nhẹ về tổ chức, đầu tư, chính sách đối với công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, kể cả tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp. Về xây dựng cơ bản, vẫn thiên về xây dựng các công trình quy mô lớn nhưng chưa thật cấp bách, kém hiệu quả dẫn đến sự phân tán về tiền vốn và vật tư.
9 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 18204 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn. Ý nghĩa phương pháp luận của vấn đề này. Sự vận dụng của Đảng ta, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n không có thực tiễn thì không có lý luận, thực tiễn cao hơn lý luận không những ở tính phổ biến mà còn ở tính hiện thực trực tiếp.
Sự phản ánh vượt trước của lý luận qua nỗ lực sáng tạo của những thiên tài ở những giai đoạn lịch sử nhất định xét cho đến cùng thì cái làm nên sự vượt trước ấy cũng đã được nảy mầm từ mảnh đất thực tiễn sinh động, đều do thực tiễn gợi ý mách bảo
Chỉ có thông qua thực tiễn con người mới vật chất hóa dược lý luận vào đời sống hiện thực. Lý luận không có sức mạnh tự thân mà chỉ có thông qua thực tiễn thì lý luận mới phát huy tác dụng, mới tham gia vào quá trình biến đổi hiện thực.
Đánh giá vai trò của thực tiễn đối với lý luận, Lênin viết: "Thực tiễn cao hơn nhận thức, lý luận. Vì nó có ưu điểm không những của tính phổ biến mà còn của tính hiện thực trực tiếp".
Vai trò tác động trở lại của lý luận đối với thực tiễn:
Lý luận có thể thúc đẩy tiến trình phát triển của thực tiễn nếu đó là lý luận khoa học và ngược lại có thể kìm hãm sự phát triển của thực tiễn nếu đó là lý luận phản khoa học, phản động, lạc hậu.
Lý luận khoa học sẽ trở thành kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn. Nó hướng dẫn, chỉ đạo, soi sáng cho thực tiễn, vạch ra phương pháp giúp hoạt động thực tiễn đi tới thành công. Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: "Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi". Lý luận đem lại cho thực tiễn những tri thức đúng đắn về những quy luật vận động và phát triển của thế giới khách quan, giúp con người xác định đúng mục tiêu để hành động có hiệu quả hơn, tránh được những sai lầm, vấp váp.
Lý luận khoa học thâm nhập vào hoạt động của quần chúng tạo nên sức mạnh vật chất, điều chỉnh hoạt động thực tiễn, giúp cho hoạt động của con người trở nên tự giác, chủ động, tiết kiệm được thời gian, công sức, hạn chế những mò mẫm, tự phát.
Lý luận khoa học dự kiến sự vận động và phát triển của sự vật hiện tượng trong tương lai, từ đó chỉ ra phương hướng mới cho sự phát triển. Con người ngày càng đi sâu khám phá giới tự nhiên vô cùng vô tận bằng những phương tiện khoa học hiện đại thì càng cần có những dự báo đúng đắn. Nếu dự báo không đúng sẽ dẫn đến những sai lầm, hậu quả xấu không thể lường được trong thực tiễn. Vì thế, chức năng dự báo tương lai là chức năng quan trọng của lý luận.
Lý luận cách mạng có vai trò to lớn đối với thực tiễn cách mạng. Lênin cho rằng: "Không có lý luận cách mạng thì không thể có phong trào cách mạng". Mác thì nhấn mạnh: "Lý luận khi thâm nhập vào quần chúng thì nó biến thành lực lượng vật chất".
Vai trò của lý luận khoa học ngày càng tăng lên, đặc biệt trong giai đoạn mới của thời đại ngày nay, thời đại của cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc diễn ra gay go, phức tạp, cùng với sự phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Ph. Ăngghen chỉ ra rằng: một dân tộc muốn đứng trên đỉnh cao khoa học thì không thể không có tư duy lý luận.
Sự lạc hậu, giáo điều về lý luận dẫn đến sự khủng hoảng về lý luận của chủ nghĩa xã hội trong thời gian qua là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội nói chung, cụ thể là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu trước đây.
Nguyên lý thống nhất giữa lý luận và thực tiễn:
Theo quan điểm mácxít, lý luận và thực tiễn không tách rời nhau mà giữa chúng có sự liên hệ, xâm nhập và tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển. Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên tắc căn bản của triết học Mác – Lênin.
Chủ nghĩa Mác – Lênin là tiêu biểu cho sự gắn bó mật thiết giữa lý luận và thực tiễn trong qúa trình hình thành và phát triển của nó. Lý luận Mác – Lênin là sự khái quát thực tiễn CM và lịch sử xã hội, là sự đúc kết những tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận trên các lĩnh vực khác nhau. Sức mạnh của nó là ở chỗ gắn bó hữu cơ với thực tiễn xã hội, được kiểm nghiệm, bổ sung trong thực tiễn. Chính vì vậy mà nó có vai trò cải tạo thế giới chứ không chỉ giải thích thế giới. Chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung và triết học Mác – Lênin nói riêng đã tìm thấy ở giai cấp vô sản vũ khí vật chất của mình và giai cấp vô sản đã tìm thấy ở triết học Mác – Lênin vũ khí tinh thần của mình.
Lênin từng nhắc nhở những người cộng sản ở các nước phải biết cụ thể hóa chủ nghĩa Mác – Lênin cho thích hợp với điều kiện, hoàn cảnh từng lúc, từng nơi. Lý luận cần phải được bổ sung bằng những kết luận mới được rút ra từ thực tiễn sinh động.
Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: "Thống nhất lý luận với thực tiễn là nguyên tắc căn bản của triết học Mác – Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông" hoặc "Có kinh nghiệm mà không có lý luận cũng như một mắt sáng một mắt mờ".
4- Ý nghĩa phương pháp luận:
Việc quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn có ý nghĩa rất quan trọng, giúp chúng ta tránh được bệnh kinh nghiệm cũng như bệnh giáo điều và rút ra được những quan điểm đúng đắn trong nhận thức và cuộc sống.
Trước hết, cần phải quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, sâu sát thực tiễn, tổ chức hoạt động thực tiễn để triển khai lý luận, phải coi trọng công tác tổng kết thực tiễn để bổ sung phát triển lý luận. Việc nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học đi đôi với hành, tránh tình trạng quan liêu, bàn giữaấy, sách vở, xa rời thực tiễn.
Đồng thời cần phải phát huy vai trò của lý luận đối với thực tiễn. Phát huy vai trò của lý luận yêu cầu phải nâng cao trình độ tư duy lý luận, đổi mới phương pháp tư duy cho toàn Đảng, toàn dân nghĩa là chuyển từ tư duy kinh nghiệm sang tư duy lý luận, từ tư duy siêu hình, duy tâm sang tư duy biện chứng duy vật; đổi mới công tác lý luận, hướng công tác lý luận vào những vấn đề do cuộc sống đặt ra, làm rõ những căn cứ khách quan của đường lối chính sách của Đảng.
Nếu coi thường thực tiễn và tách rời lý luận với thực tiễn thì sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều.
+ Bệnh kinh nghiệm: là căn bệnh tuyệt đối hóa kinh nghiệm, nhận thức và hành động chỉ dựa vào kinh nghiệm, đề cao vai trò thực tiễn, hạ thấp lý luận, không chịu học hỏi để vương lên, không coi trọng việc tổng kết thực tiễn để khái quát thành lý luận. Thể hiện ở chỗ tuyệt đối hoá kinh nghiệm, coi thường lý luận, “chỉ biết tối ngày vùi đầu vào công tác sự vụ”, ít đào sâu suy nghĩ, nhất là đối với những người trình độ văn hoá kém, ít quen đọc sách và suy nghĩ, áp dụng kinh nghiệm một cách thiếu sáng tạo.
+ Bệnh giáo điều: là căn bệnh tuyệt đối hóa lý luận, nhận thức và hành động chỉ dựa vào lý luận, coi lý luận là "chìa khóa vạn năng" cho tư duy và hành động, bất chấp điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Thể hiện ở chỗ: coi tri thức là chân lý tuyệt đối, là cứng nhắc, tách lý luận khỏi thực tiễn, rơi vào bệnh lý luận suông, không biết cụ thể hóa lý luận cách mạng cho thích hợp với điều kiện, hoàn cảnh của từng lúc, từng nơi, không biết bổ sung lý luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động và vận dụng một cách máy móc, rập khuôn, cứng nhắc, thiếu sáng tạo vào hoạt động nhận thức cũng như hoạt động cải tạo hiện thực mà không chú ý đến điều kiện lịch sử cụ thể đối tượng, mang lại hiệu quả xấu cho hoạt động lý luận và thực tiễn. Xét từ khía cạnh trình độ nhận thức thì bệnh giáo điều có nguồn gốc từ sự yếu kém về tư duy lý luận, nhất là lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Để khắc phục hai căn bệnh trên cần phải xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, thường xuyên tổng kết thực tiễn để bổ sung, phát triển lý luận, đồng thời phải coi trọng lý luận, nâng cao trình độ tư duy lý luận. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu “phải học tập tinh thần chủ nghĩa Mác-Lênin, học tập lập trường quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác-Lênin để áp dụng giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế trong công tác cách mạng của chúng ta”. Từ nhận thức đúng đắn mối quan hệ biện chứng giưa lý luận và thực tiễn, Hồ Chí Minh đã phê phán sai lầm của chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa giáo điều. Khi đặt vấn đề phải học tập lý luận theo Người, học lý luận không phải để thuộc lòng từng câu từng chữ, cũng không phải học lý luận để đem loà thiên hạ, để kiêu ngạo, để mặc cả với Đảng, để trở thành những người lý luận suông. Mà mục đích học tập lý luận để tự cải tạo mình, để tránh mò mẫm, để đỡ phạm sai lầm trong công tác, để hoàn thành tốt hơn các nhiệm vụ cách mạng mà Đảng và nhân dân giao phó. Học tập lý luận là cốt áp dụng vào thực tế và khi vận dụng thì bổ sung, làm phong phú thêm lý luận bằng những lý luận mới sinh ra từ trong thực tiễn.
5- Sự vận dụng của Đảng ta:
Trước đổi mới:
Do chưa nhận thức đầy đủ lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình lịch sử tương đối dài, phải trải qua nhiều chặng đường, chưa gắn lý luận với thực tế điều kiện, hoàn cảnh ở nước ta nên đã chủ quan, nóng vội, bỏ qua những bước đi cần thiết.
Một trong những sai lầm trong chính sách của Đảng trong thời kỳ trước đổi mới là xuất phát từ căn bệnh giáo điều, xuất phát từ sự lạc hậu, yếu kém về lý luận cách mạng xã hội chủ nghĩa. Sự yếu kém về lý luận làm cho chúng ta tiếp thu lý luận Chủ nghĩa Mác Lênin một cách giản đơn, phiến diện, cắt xén sơ lược, không đến nơi đến chốn, CNXH được hiểu một cách giản đơn, ấu trĩ. Trong thời kỳ này, đã có lúc ta bắt chước rập khuôn mô hình CNXH ở Liên Xô trong việc thành lập các bộ ngành của bộ máy nhà nước. Hoặc áp dụng máy móc theo học thuyết của Mác về kinh tế là phải xóa bỏ tư hữu, do đó khi áp dụng vào nước ta, Đảng đã có biểu hiện nóng vội trong việc tiến hành cải tạo XHCN nhằm xóa tất cả các thành phần kinh tế mà không thấy được vai trò quan trọng của các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Đảng ta cũng vấp phải những sai lầm trong việc đề ra chủ trương, đường lối, chính sách phát triển đất nước: Chủ trương tập trung cho công nghiệp hóa đất nước mà chủ lực là phát triển công nghiệp nặng mà không chú ý đến điều kiện vật chất và lực lượng sản xuất của ta còn chưa tương xứng, với xuất phát điểm còn rất thấp từ một nền kinh tế lạc hậu, sản xuất nông nghiệp là chính, trình độ lực lượng sản xuất không cao, sản xuất thủ công là chủ yếu. Có thể nói việc bố trí cơ cấu kinh tế trước hết là sản xuất và đầu tư, chúng ta thường chỉ xuất phát từ lòng mong muốn đi nhanh, không tính đến điều kiện khả năng thực tế. Sự nhận thức giản đơn, yếu kém trong việc vận dụng xơ cứng lý luận vào trong còn thể hiện ở việc hiểu và vận dụng chưa đúng các quy luật khách quan đang tác động trong thời kỳ quá độ ở nước ta (quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, các quy luật sản xuất hàng hoá, quy luật thị trường...), quá nhấn mạnh một chiều vai trò của quan hệ sản xuất, của chế độ công hữu, chế độ phân phối bình quân, không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ.
Mặt khác, duy trì quá lâu cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, quá tập trung quyền lực nhà nước, dùng kế hoạch pháp lệnh để chỉ huy toàn bộ nền kinh tế đất nước, bao cấp trong phân phối ... làm cản trở sự sáng tạo, tạo nên sự bảo thủ trì trệ của đời sống xã hội. Cũng trong thời kỳ này chúng ta đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản, coi nhẹ những giá trị, những thành tựu mà nhân loại đạt được trong chủ nghĩa tư bản; muốn nhanh chóng xoá bỏ sản xuất hàng hoá, xoá bỏ sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việc xem kinh tế thị trường, sản xuất hàng hóa đối lập với CNXH là do căn cứ một cách cứng nhắc vào luận điểm của Mác và Ăngghen rằng chủ nghĩa cộng sản là xóa bỏ buôn bán; cùng với việc xã hội nắm lấy những tư liệu sản xuất thì sản xuất hàng hóa cũng bị loại trừ và do đó sự thống trị của hàng hóa đối với những người sản xuất cũng bị loại trừ. Thực ra những luận điểm của CácMác và Ăngghen chỉ là những dự đoán về giai đoạn phát triển cao của chủ nghĩa cộng sản chứ không phải nói về giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản : giai đoạn chủ nghĩa xã hội. Ngược lại, trong giai đoạn chủ nghĩa xã hội, Mác đã nhấn mạnh : đó là một xã hội vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa, vì vậy về mọi phương diện kinh tế, đạo đức, tinh thần nó vẫn còn mang những dấu vết của xã hội cũ, nói cách khác, hệ thống kinh tế – xã hội của CNXH còn mang nhiều dấu ấn của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Như vậy, làm sao xóa ngay được cái “dấu vết” đặc trưng của chủ nghĩa tư bản là kinh tế hàng hóa cũng như không thể xóa bỏ chế độ tư hữu ngay lập tức mà chỉ có thể cải tạo xã hội hiện nay một cách dần dần.
Hậu quả của những sai lầm xuất phát sự nhận thức yếu kém về lý luận và xa rời thực tiễn đã làm cho đường lối chính sách của Đảng ta đề ra không phù hợp với thực tiễn nên đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội : Nnhiều vấn đề mấu chốt và thiết yếu nhất của cuộc sống nhân dân (ăn, mặc, ở) vẫn chưa được giải quyết đầy đủ; đất nước chưa có những thay đổi sâu sắc và triệt để trong phương thức phát triển; tình trạng mất cân đối trong nền kinh tế ngày càng trầm trọng; nhiệt tình lao động và năng lực sáng tạo của nhân dân, tài nguyên và các nguồn lực chưa được khai thác, phát huy đầy đủ, thậm chí bị xói mòn. Nhìn tổng quát, với cơ chế kế hoạch hoá tập trung, nền kinh tế Việt Nam vận động thiếu năng động và kém hiệu quả. Những mất cân đối và nguy cơ bất ổn định tiềm tàng trong đời sống kinh tế - xã hội bị tích nén lại Tình trạng thiếu hụt kinh niên làm gia tăng các căng thẳng trong đời sống xã hội. Lòng tin của quần chúng đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước giảm sút. Trên thực tế, đến cuối những năm 70, đất nước đã thực sự lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội. Vấn đề cấp bách đặt ra cho Đảng cộng sản và Nhà nước Việt Nam lúc này là tìm kiếm cách thức phát triển mới có khả năng đáp ứng các mục tiêu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong đó quan trọng nhất là phải tháo gỡ các ràng buộc về cơ chế và thể chế để giải phóng các nguồn lực phát triển của đất nước.
Đại hội IV chưa xác định được những mục tiêu của chặng đường đầu tiên. Cụ thể là trong 5 năm 1976 – 1980, đảng ta chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết, chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, cụ thể là đã đề ra những chỉ tiêu kế hoạch quá cao về xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất, không coi trọng đúng mức việc khôi phục và sắp xếp lại nền kinh tế, chỉ thiên về xây dựng công nghiệp nặng và những công trình quy mô lớn, không tập trung sức giải quyết căn bản vấn đề lương thực, thực phẩm, phát triển hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
Đại hội V đã cụ thể hóa một bước đường lối kinh tế trong chặng đường trước mắt, đề ra những mục tiêu tổng quát, các chính sách lớn về kinh tế, xã hội nhưng trong chỉ đạo thực hiện đã không quán triệt đầy đủ các quy luật khách quan, chưa kiên quyết khắc phục tư tưởng nóng vội chủ quan và bảo thủ thể hiện chủ yếu trong các chủ trương về cơ cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và cơ chế quản lý kinh tế. Cụ thể là đã chưa thật sự coi trọng phát triển nông nghiệp, coi nhẹ về tổ chức, đầu tư, chính sách đối với công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, kể cả tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp. Về xây dựng cơ bản, vẫn thiên về xây dựng các công trình quy mô lớn nhưng chưa thật cấp bách, kém hiệu quả dẫn đến sự phân tán về tiền vốn và vật tư.
Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, đi đôi với việc ra sức xây dựng những cơ sở và lực lượng kinh tế mới, phải rất coi trọng cải tạo và sử dụng tốt các cơ sở và lực lượng kinh tế sẵn có bằng những hình thức và bước đi thích hợp. Nhưng chúng ta chưa xác định rõ ràng, nhất quán những quan điểm, chủ trương chính sách chỉ đạo công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, đã có những biều hiện nóng vội muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế tư bản tư nhân, nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh. Đối với kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa, ít chú ý đến những đặc điểm. tính chất của từng ngành, từng nghề, không tính đến khả năng trang bị kỹ thuật, trình độ quản lý và năng lực cán bộ, có xu hướng muốn tổ chức ngay các hợp tác xã quy mô lớn. Nhấn mạnh việc thay đổi quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất mà không coi trọng giải quyết các vấn đề tổ chức quản lý và chế độ phân phối.
Cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp trong phát triển kinh tế còn nặng nề, chưa bị xóa bỏ. Chậm đổi mới cơ chế và bộ máy quản lý, thiếu hiểu biết và ít kinh nghiệm quản lý nhưng lại chưa chú trọng tổng kết kinh nghiệm.
Đại hội VI đã thẳng thắn thừa nhận "những sai lầm và khuyết điểm trong lãnh đạo kinh tế, xã hội bắt nguồn từ những khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng. Đây là nguyên nhân của mọi nguyên nhân". Xét đến cùng, những sai lầm trên đây của Đảng ta xuất phát từ việc chưa quán triệt đầy đủ nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn.
Thời kỳ đổi mới:
Nhận thức được những sai lầm trên, từ ĐH Đảng lần VI (1986), Đảng đã khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có mọi phương hướng đổi mới phải xuất phát từ thực tiễn như Văn kiện Đại hội VI của Đảng đã xác định “Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan”. Đại hội VI đã rút ra bốn bài học kinh nghiệm trong đó bài học thứ hai là "Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện đảm bảo sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng". Thực tế đất nước sau 10 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng. Đất nước ta từ mức thiếu lương thực, phải nhập khẩu lương thực hơn 45 vạn tấn vào năm 1988, nhờ đổi mới phát triển nông nghiệp mà từ năm 1989 trở đi đã có đủ lương thực tiêu dùng trong nước và có một phần xuất khẩu mỗi năm 1 – 1,5 triệu tấn gạo. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thanh phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước từng bước được hình thành.
Đại Hội Đảng lần IX cũng đã nhấn mạnh “Tiến hành đổi mới xuất phát từ thực tiễn và cuộc sống xã hội Việt Nam, tham khảo kinh nghiệm tốt của thế giới, không sao chép bất cứ một mô hình có sẵn nào…”..
Những nhận định trên của Đảng chính là sự tiếp thu và vận dụng đúng đắn quan điểm của Hồ Chí Minh về cách mạng XHCN phải lấy thực tế làm điểm xuất phát để xác định phương hướng, mục tiêu nhiệm vụ của cách mạng, kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn để xác định chủ trương, chính sách. Theo quan điểm của người, việc học tập và vận dụng kinh nghiệm tốt, những mô hình hiệu quả trong công cuộc xây dựng đất nước của các nước XHCN trên thế giới giúp chúng ta đỡ mò mẫm, đỡ phạm những sai lầm của người đi trước. Nói cách khác, những tìm kiếm, phát triển lý luận về CNXH, con đường và các giải pháp xây dựng CNXH ở mỗi nước có thể là kinh nghiệm tham khảo chứ không thể áp dụng máy móc, rập khuôn. Xuất phát từ thực tế nước ta và quy luật về quan hệ sản xuất - lực lượng sản xuất, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ trong giai đoạn quá độ đi lên CNXH, sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế với nhiều hình thức sở hữu khác nhau là tất yếu, do đó cần phải duy trì nhiều hình thức quản lý, phân phối khác nhau. Theo Người, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa không có nghĩa là vứt bỏ mọi thành tựu văn hoá, văn minh mà nhân loại đã đạt được trong chủ nghĩa tư bản; những thành tựu đó cần được tiếp thu, khai thác vì sự thành công của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Cũng phải thấy rằng bước đầu công cuộc đổi mới, trên thế giới cũng diễn ra nhiều biến đổi quan trọng. Những biến đổi ấy vừa có ảnh hưởng tới Việt Nam, vừa gợi ra những bài học kinh nghiệm thực tiễn mà Việt Nam có thể tham khảo với các mức độ khác nhau để lựa chọn con đường phát triển.
Xuất phát từ đặc điểm đó, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), Đảng đã nêu : chúng ta phải tiếp tục nâng cao ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng vật chất và trí tuệ của dân tộc đồng thời mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tìm tòi bước đi, hình thức và biện pháp thích hợp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng làm một xã hội: do nhân dân lao động làm chủ, có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu, có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân, các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ, có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. Sáu đặc trưng nêu trên thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta sẽ xây dựng.
Đại hội IX tiếp tục khẳng định "Đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo. Tiến hành đổi mới xuất phát từ thực tiễn và cuộc sống của xã hội Việt Nam, tham khảo kinh nghiệm tốt của thế giới, không sao chép bất cứ một mô hình sẵn có nào; đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để với những bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Có những điều chỉnh, bổ sung và phát triển cần thiết về chủ trương, phương pháp, biện pháp; tìm và lựa chọn những giải pháp mới, linh hoạt, sáng tạo, nhạy bén nắm bắt cái mới, tận dụng thời cơ, khắc phục sự trì trệ, làm chuyển biến tình hình".
Trên cơ sở vận dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, tổng kết kinh nghiệm thành công và cả kinh nghiệm chưa thành công trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta và các nước khác, đặc biệt là những kinh nghiệm của những năm đổi mới, Đảng ta đã nêu ra những phương hướng cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, gồm:
Một là, "xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ nguyên kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích Tổ quốc và của nhân dân".
Hai là, "phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân".
Ba là, "phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu".
Bốn là, "tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa làm cho thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Chống tư tưởng, văn hóa phản tiến bộ, trái với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những giá trị cao quý của loài người, trái với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội".
Năm là, "thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh. Thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước; trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa, với tất cả các lực lượng đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới".
Sáu là, "xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng".
Bảy là, "xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta"
Hiện nay, công cuộc đổi mới ở nước ta càng đi vào chiều sâu, những biến đổi trên thế giới nhanh chóng, phức tạp, khó lường thì những vấn đề mới đặt ra ngày càng nhiều, trong đó có những vấn đề liên quan đến nhận thức về CNXH và con đường xây dựng CNXH. Không ít vấn đề về nhận thức lý luận còn chưa đủ rõ; không ít vấn đề về thực tiễn, nhất là những vấn đề bức xúc nảy sinh từ cuộc sống, chưa được giải quyết kịp thời và tốt nhất.
Trên cơ sở đó Văn kiện Đại hội IX tiếp tục chỉ rõ : “Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, thảo luận dân chủ, sớm làm rõ và kết luận những vấn đề mới, bức xúc nảy sinh từ thực tiễn; từng bước c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cau 2 LL va TT co sua lai.doc