MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 2
I. Mối quan hệ biện chứng giữa tự nhiên và xã hội 2
1. Một số khái niệm 2
1.1. Tự nhiên là gì? 2
1.2. Xã hội là gì? 2
1.3. Phương pháp biện chứng là gì? 2
2.Sự tác động qua lại giữa tự nhiên và xã hội 3
2.1. Tự nhiên vừa là nguồn gốc của sự xuất hiện xã hội vừa là môi trường tồn tại và phát triển của xã hội. 3
2.2. Vai trò của xã hội đối với tự nhiên - Xã hội gắn bó với tự nhiên thông qua quá trình hoạt động thực tiễn của con người, trước hết là quá trình lao động sản xuất. 3
II. Bảo vệ môi trường trước những yêu cầu mới của thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa ở Việt Nam 4
1. Khái niệm môi trường và môi trường sinh thái 4
2.Thực trạng môi trường sinh thái và nguyên nhân của sự cần thiết bảo vệ môi trường sinh thái ở nước ta trước những yêu cầu mới của thời kỳ công nghiệp hoá 4
3. Sự cần thiết phải bảo vệ môi trường trong công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước 8
4.Phương hướng và giải pháp cho vấn đề bảo vệ môi trường ở nước ta trước những yêu cầu mới của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá 9
KẾT LUẬN 11
Danh mục các tài liệu tham khảo 12
13 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5190 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Mối quan hệ biện chứng giữa xã hội và tự nhiên. Vận dụng phân tích vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Hàng ngày, trên các phương tiện thông tin liên lạc đã nói khá nhiều điều về cuộc sống xung quanh ta.Và chắc chắn những thông tin về tắc đường, những con số nói về lượng khí thải, khói bụi trên các địa phương cũng được nhắc đến. Những thông tin đó cũng đủ để người nghe nhận ra tình hình môi trường xung quanh mình như thế nào.Và cũng thêm một vài thông tin nữa về tình trạng chặt phá rừng, đốt nương làm rẫy…là chúng ta có thể tưởng tượng được môi trường sinh thái của các dân tộc anh em.
Một khía cạnh khác về tình hình của đất nước ta trong giai đoạn hiện nay. Đó là đất nước ta đang trong đà đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa.Công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đang diễn ra trên đất nước ta.
Vậy hai vấn đề tôi nêu ra ở đây có liên quan gì đến nhau ?
Ta đều biết rằng mục tiêu phát triển chung của xã hội loài người mà hiện nay nhiều nước đang hướng tới là đạt được sự phồn thịnh về kinh tế, tiến bộ về xã hội và sự trong sạch về môi trường sinh thái. Các mục tiêu đó gắn bó chặt chẽ với nhau tạo thành nền tảng cho sự phát triển bền vững của xã hội. Sự phát triển lâu bền được hiểu đó là sự phát triển không chỉ vì thế hệ hiện tại mà còn vì các thế hệ mai sau. Vấn đề này mới được đặt ra trong những năm gần đây nhưng được coi là vấn đề hết sức cấp thiết xuất phát từ chính những gì loài người coi là thành tựu to lớn của sự phát triển xã hội như sự tăng trưởng nhanh của các nền kinh tế, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ cùng với quá trình công nghiệp hóa ồ ạt ở các nước phát triển v.v… đã và đang có những ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường tự nhiên - ngôi nhà sinh tồn của xã hội loài người.
Rõ ràng là, để phát triển kinh tế nhất thiết phải tiến hành công nghiệp hoá. Tốc độ tăng trưởng kinh tế tỷ lệ với tốc độ phát triển của công nghiệp hóa, của khoa học và công nghệ. Song, cũng tồn tại một thực tế là cùng với sự phát triển của công nghiệp hóa lại là sự suy thoái của môi trường tự nhiên. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để dung hoà tự nhiên và xã hội, để có thể phát triển kinh tế mà vẫn đảm bảo được các yếu tố môi trường.
Xuất phát từ thực tiễn trên cũng như nhận thức được tầm quan trọng của yếu tố môi trường trong công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt Nam tôi đã lựa chọn đề tài: “Mối quan hệ biện chứng giữa xã hội và tự nhiên. Vận dụng phân tích vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái ở Việt Nam hiện nay”.
NỘI DUNG
I. Mối quan hệ biện chứng giữa tự nhiên và xã hội
1. Một số khái niệm
1.1. Tự nhiên là gì?
Theo nghĩa rộng, tự nhiên là tất cả những gì đang tồn tại khách quan - toàn thế giới với tất cả các hình thức biểu hiện muôn màu, muôn vẻ của nó.
Trong quá trình phát triển từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, giới TN đã trải qua hàng loạt trình độ khác nhau: TN vô cơ, TN hữu cơ (sinh quyển), xã hội loài người. Sự xuất hiện của xã hội là bước nhảy quan trọng nhất trong sự phát triển TN.
Theo nghĩa hẹp,tự nhiên là tập hợp các điều kiện khách quan sẵn có, tồn tại ngoài tác động của con người và những điều kiện vật chất cần cho sự tồn tại của xã hội loài người do chính con người tạo ra.
1.2. Xã hội là gì?
Theo nghĩa hẹp, xã hội là khái niệm chỉ một loại hệ thống xã hội cụ thể trong lịch sử, một hình thức nhất định của những quan hệ xã hội, là một xã hội ở vào một trình độ phát triển lịch sử nhất định, là một kiểu loại xã hội nhất định đã hình thành trong lịch sử.
Theo nghĩa rộng, xã hội là toàn bộ các hình thức hoạt động chung của con người, đã hình thành trong lịch sử. Người ta thường dùng khái niệm này để chỉ một tập đoàn người được quan niệm như một hiện thực của các thành viên của nó, hoặc là để chỉ một môi trường của con người mà cá nhân được hoà nhập vào, môi trường đó được xem như là toàn bộ các lực lượng có tổ chức và có hệ thống tôn ti trật tự tác động lên cá nhân. Khái niệm XH là khái niệm đối lập với khái niệm cá nhân, cũng như khái niệm sống trong XH là đối lập với khái niệm sống đơn độc.
Theo Các Mác : “Xã hội không phải gồm các cá nhân mà xã hội biểu hiện tổng số những mối mối liên hệ và những quan hệ của những cá nhân đối với nhau”.
1.3. Phương pháp biện chứng là gì?
Phương pháp biện chứng là phương pháp xem xét sự vật và hiện tượng trong mối liên hệ phổ biến, trong sự vận động và phát triển không ngừng.
Nó bao gồm hệ thống các nguyên tắc hướng dẫn, điều chỉnh hoạt động nhận thức và hoạt động cải tạo thế giới hiện thực của con người xuất phát từ lí luận biện chứng.
2.Sự tác động qua lại giữa tự nhiên và xã hội
Hệ thống tự nhiên – xã hội là một chỉnh thể,trong đó những yếu tố tự nhiên và những yếu tố xã hội thường xuyên diễn ra sự tiến hoá của quá trình tác động qua lại. Người ta có thể chia sự tiến hoá của quá trình đó thành các giai đoạn:
1) Sử dụng các sản phẩm có sẵn,
2) Tiền công nghiệp (tương ứng với lịch sử cổ đại và trung đại),
3) Công nghiệp. Ở giai đoạn công nghiệp, quan hệ giữa xã hội và TN có sự chuyển biến về chất: xã hội chuyển từ sự sử dụng tự phát nguồn tài nguyên TN sang việc tổ chức có mục đích các quá trình TN, tức là sản xuất ra những điều kiện TN có lợi cho con người. Sự hình thành môi trường lịch sử TN do lao động của con người tạo ra, môi trường tác động qua lại giữa xã hội và TN là đặc điểm cơ bản đánh dấu sự chuyển biến về chất trong sự tác động qua lại của chúng. Tuy nhiên, sự xuất hiện của xã hội hoàn toàn phải là sự biến đổi căn bản bản thân các quy luật của TN.
2.1. Tự nhiên vừa là nguồn gốc của sự xuất hiện xã hội vừa là môi trường tồn tại và phát triển của xã hội.
Tự nhiên là nguồn gốc của sự xuất hiện xã hội vì xã hội được hình thành trong quá trình tiến hóa của thế giới vật chất.
Tự nhiên là môi trường tồn tại và phát triển của xã hội vì chỉ có tự nhiên mới cung cấp được những điều kiện cần thiết nhất cho sự sống của con người và cũng chỉ có tự nhiên mới cung cấp được những điều kiện cần thiết nhất cho các hoạt động sản xuất xã hội. Theo Mac, con người không thể sáng tạo được nếu không có giới tự nhiên, nếu không có thế giới hữu hình bên ngoài. Đó là vật liệu trong đó lao động của con người được thực hiện, trong đó lao động của con người tác động từ đó và nhờ đó lao động của con người sản xuất ra sản phẩm.
Như vậy, với tư cách là môi trường tồn tại và phát triển của xã hội, tự nhiên có thể tác động thuận lợi hoăc gây khó khăn cho sản xuất xã hội; có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của chính bản thân xã hội.
2.2. Vai trò của xã hội đối với tự nhiên - Xã hội gắn bó với tự nhiên thông qua quá trình hoạt động thực tiễn của con người, trước hết là quá trình lao động sản xuất.
Lao động là đặc trưng cơ bản đầu tiên phân biệt hoạt động của người với động vật.
Lao động cũng là yếu tố cơ bản nhất tạo nên sự thống nhất hữu cơ giữa xã hội và tự nhiên bởi lao động trước hết là một quá trình trong đó bằng hoạt động của chính mình, con người làm trung gian, điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên. Nó thể hiện trước hết ở chỗ: tự nhiên cung cấp cho con người tất cả các nguồn vật chất vốn có của sinh quyển để con người sống và tiến hành lao động sản xuất; nhưng cũng chính quá trình sử dụng các nguồn vật chất của sinh quyển để sống và lao động sản xuất, con người đã làm biến đổi tự nhiên mạnh mẽ nhất, nhanh chóng nhất so với tất cả các thành phần khác của chu trình sinh học. Trong quá trình trao đổi chất này, nếu con người không kiểm tra, điều tiết việc sử dụng, khai thác, bảo quản các nguồn vật chất của tự nhiên thì khủng hoảng sinh thái sẽ xảy ra, sự cân bằng của hệ thống tự nhiên – xã hội bị phá vỡ, sự sống của con người và xã hội loài người bị đe dọa.
Chính vì vậy, trong sự tác động qua lại giữa tự nhiên và xã hội, yếu tố xã hội ngày càng giữ vai trò quan trọng. Để giữ được môi trường tồn tại và phát triển của mình, con người phải nắm chắc các quy luật tự nhiên, kiểm tra, điều tiết hợp lý việc bảo quản, khai thác, sử dụng và tái tạo các vật chất của tự nhiên để đảm bảo sự cân bằng của hệ thống tự nhiên - xã hội.
II. Bảo vệ môi trường trước những yêu cầu mới của thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa ở Việt Nam
1. Khái niệm môi trường và môi trường sinh thái
Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và các yếu tố vật chất nhân tạo có quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại và phát triển của con người và thiên nhiên.
Khái niệm môi trường bao hàm cả môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Môi trường tự nhiên thường được sử dụng dưới nhiều tên khác nhau như sinh quyển (vùng lưu hành sự sống trên trái đất), môi trường sinh - địa - hóa học, môi trường sống, v.v... gọi chung là môi trường sinh thái.
Môi trường sinh thái cũng là điều kiện thường xuyên và tất yếu đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội, song vai trò của nó ở những giai đoạn lịch sử khác nhau được thể hiện một cách khác nhau.
2. Thực trạng môi trường sinh thái và nguyên nhân của sự cần thiết bảo vệ môi trường sinh thái ở nước ta trước những yêu cầu mới của thời kỳ công nghiệp hoá
Ta biết rằng mâu thuẫn vốn là bản chất của mọi sự vận động, mọi sự tác động qua lại. Đặc điểm quan trọng nhất của các mâu thuẫn đó là mối quan hệ tác động qua lại sâu sắc, tính quy định lẫn nhau của chúng với các quá trình kinh tế - chính trị - xã hội.Mặt khác, vấn đề môi trường sinh thái là vấn đề thuộc mối quan hệ qua lại và tác động lẫn nhau giữa con người, xã hội và tự nhiên, và tất nhiên quá trình tác động đó cũng làm nảy sinh mâu thuẫn cần được giải quyết. Bởi vậy, khi xem xét môi trường sinh thái của một đất nước nào đó, ta còn cần quan tâm đến chế độ chính trị, điều kiện kinh tế - xã hội và truyền thống văn hóa của đất nước đó bên cạnh việc xem xét điều kiện tự nhiên.
Đối với nước ta, vấn đề này cần được nhìn nhận trong điều kiện của một nước chậm phát triển nhưng lại đang chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của các yếu tố hiện đại như kĩ thuật, công nghệ, cơ chế kinh tế thị trường và cả những yếu tố truyền thống văn hóa dân tộc như quan niệm của con người về tự nhiên (đây cũng là một nguyên nhân quan trọng gây nên mâu thuẫn giữa con người và tự nhiên trong quá trình khai thác và sử dụng thiên nhiên). Và ngược lại, những mâu thuẫn giữa con người và tự nhiên cũng có ảnh hưởng nhất định đến việc giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội và chính trị.
Hiện trạng môi trường sinh thái của Việt Nam vô cùng phức tạp và đa dạng. Đó là do tính phức tạp và đa dạng của trình độ phát triển của xã hội nước ta hiện nay (đồng thời tồn tại các nền văn minh trước nông nghiệp, nông nghiệp, công nghiệp và thậm chí đã có những yếu tố của văn minh hậu công nghiệp). Xét về hình thái kinh tế - xã hội, chúng ta đã có một kiến trúc thượng tầng và một ý thức xã hội khá phát triển, nhưng cơ sở hạ tầng và tồn tại xã hội đang còn ở trình độ thấp; có một chế độ chính trị ở mức tiên tiến, nhưng điều kiện kinh tế xã hội còn kém phát triển. Tất cả những điều đó được phản ánh một cách rõ nét thông qua hiện trạng của môi trường sinh thái và qui định đặc điểm của nó.
Mặt khác,vấn đề sinh thái ở nước ta cũng giống như các nước trên toàn thế giới: sự khan hiếm và cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm môi trường sống…. Tuy vậy vẫn có sự khác biệt về nguyên nhân đưa đến những hiện tượng đó .
Nếu như ở các nước phát triển, hậu họa sinh thái là do sự phát triển của kĩ thuật, công nghệ, do sự phát triển tự phát của nền văn minh công nghiệp, thì ở Việt Nam lại là do sự đan xen giữa phát triển và lạc hậu, do lối sống công nghiệp còn chưa hoàn thiện. Có thể nói, hiện trạng môi trường sống ở Việt Nam là biểu hiện sự hội tụ đan xen của những vấn đề môi trường sinh thái điển hình của thời đại: vấn đề môi trường sinh thái của những giai đoạn trước nền văn minh nông nghiệp, của nền văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp và hậu công nghiệp. Trong mỗi một vấn đề môi trường sinh thái đều mang những đặc trưng này.
Những thuận lợi nước ta có được từ thiên nhiên đang mở ra triển vọng to lớn cho ngành du lịch và dịch vụ. Đối với một nước đang phát triển như nước ta, chưa phát triển khoa học - kĩ thuật thì nguồn tài nguyên thiên nhiên là một nguồn lực quan trọng cho phát triển kinh tế. Song trong mấy chục năm qua với nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có, một mặt chúng ta chưa biết khai thác và sử dụng hợp lí, tiết kiệm dẫn đến sự nghèo nàn và cạn kiệt nguồn tài nguyên đó, mặt khác còn ra gây ô nhiễm môi trường sinh thái.
Nói đến rừng của nước ta, chúng ta đều biết đến câu : Rừng vàng biển bạc. Đúng như vậy, tài nguyên rừng ở nước ta khá nhiều và phong phú , cả về thực vật lẫn động vật và các loại khoáng sản.Tuy nhiên, ngày nay rừng Việt Nam đã và đang bị tàn phá nặng nề. Chất lượng của rừng ở các vùng còn rừng đã bị hạ thấp quá mức. Trên thực tế chỉ còn khoảng 10% là rừng nguyên thủy.Tình hình chặt phá rừng trái phép và cháy rừng vẫn diễn ra nghiêm trọng trên phạm vi cả nước.Những tổn thất này đang kéo theo sự đi xuống của nền kinh tế, cũng như những thiệt hại về người và của do hậu quả của thiên tai như lũ quét, bão lụt, hạn hán… đang diễn ra với mật độ ngày càng nhiều, mức độ tàn phá ngày càng ghê gớm. Cho dù các chương trình trồng rừng sẽ đạt được những kết quả khả quan, thì cũng chưa thể bù đắp ngay được mức phá rừng hiện tại và cũng khó thực hiện được mục tiêu đề ra là đến năm 2010 tỷ lệ che phủ của rừng đạt 43% diện tích rừng tự nhiên cả nước.
Có nhiều nguyên nhân đưa đến tình trạng này, nhưng tựu trung có hai nguyên nhân chủ yếu: do chiến tranh - đặc biệt là chiến tranh hóa học; và do sự kém hiểu biết của người sản xuất nhỏ trong điều kiện dân số tăng nhanh, đưa kĩ thuật vào khai thác rừng và sự tấn công của cơ chế thị trường vào cuộc sống con người.
Chiến tranh hóa học của Mĩ đã làm gần một nửa diện tích trồng trọt, lâm nghiệp ở miền Nam bị suy thoái và hầu như không có khả năng tự hồi phục. Từ đó dẫn đến việc mở rộng canh tác để nhằm đáp ứng nhu cầu về lương thực, thực phẩm cho một số dân quá đông lại tăng nhanh, việc duy trì lối sống du canh du cư của một số ít dân tộc ít người, cộng với việc đưa kĩ thuật hiện đại vào khai thác rừng bừa bãi, lãng phí vì mục đích trước mắt của một số ít người. Và hậu quả tất yếu dẫn đến là sự biến đổi khí hậu, gây hạn hán, lũ lụt, bồi lắng, xói mòn đất, làm ảnh hưởng xấu đến các công trình kinh tế và năng lượng, trực tiếp đe dọa cuộc sống của hàng triệu con người…
Đó mới chỉ là một phân tích điển hình cho thấy thực trạng môi trường sinh thái ở nước ta. Bên cạnh đó, ta cũng có thể biết rõ thêm thông qua một số vấn đề khác cũng nóng bỏng không kém như : vấn đề thoái hoá đất;vấn đề sử dụng nguồn nước; vấn đề đô thị hoá gia tăng….Nhưng vấn đề quan trọng nhất trong đó mà tôi muốn đề cập đến bên cạnh nguồn tài nguyên rừng bị tàn phá, đó là vấn đề ô nhiễm môi trường sinh thái.
Ở nhiều đô thị nước ta,tình trạng tắc đường, bụi khói được nhắc đến thường xuyên; sự mọc lên của các trung t âm công nghiệp cùng với vấn đề làm ô nhiễm nguồn nước sinh hoạt, ô nhiễm đến cuộc sống và sức khoẻ của những người dân xung quanh các nhà máy đó, h ệ thống cấp thoát nước xuống cấp… đã được các phương tiện truyền thông nhắc đến khá nhiều. Đó là một vấn đề nhức nhối của xã hội ta thời nay.Không chỉ có vậy, môi trường còn đang bị ô nhiễm do các điều kiện vệ sinh và kết cấu hạ tầng yếu kém. Việc sử dụng không hợp lý các loại hóa chất nông nghiệp cũng đã và đang làm cho môi trường nông thôn bị ô nhiễm và suy thoái. Việc phát triển tiểu thủ công nghiệp, các làng nghề và cơ sở chế biến ở một số vùng do công nghệ sản xuất lạc hậu, qui mô sản xuất nhỏ, phân tán xen kẽ trong khu dân cư và hầu như không có thiết bị thu gom và xử lý chất thải, đã gây ô nhiễm môi trường nhiêm trọng.
Và tất nhiên ta không thể không nhắc đến vấn đề ô nhiễm môi trường xã hội. Phương diện này thể hiện ở việc các tệ nạn xã hội như ma túy, mại dâm, rượu chè, v.v… đang gia tăng chóng mặt mà hậu quả không chỉ làm băng hoại thuần phong mĩ tục, đạo đức và mối quan hệ giữa con người với con người, hơn thế nữa còn tác động tiêu cực lên những cấu trúc sinh học của con người như gây ra bệnh tật, sự biến đổi gen theo chiều hướng xấu ở các thế hệ tiếp theo.Chính vì vậy mà ban đầu ta có cảm giác như ô nhiễm môi trường xã hội chỉ thuần túy là vấn đề xã hội hay vấn đề kinh tế xã hội, nhưng nếu suy xét xa hơn, suy đến cùng thì ô nhiễm môi trường xã hội có liên quan rất chặt chẽ đến vấn đề sinh thái hay cũng có thể coi đó chính là một vấn đề sinh thái – xã hội.
Ở Việt Nam, ô nhiễm môi trường xã hội do nhiêu nguyên nhân nhưng ở đây ta chỉ cần đề cập đến nguyên nhân quan trọng nhất gây ra tình trạng trên là sự du nhập lôi sống buông thả theo kiểu sống hiện đại phương Tây thông qua sách báo, phim ảnh không lành mạnh.Có thể nếu bạn muốn biết thêm 1 nguyên nhân nào khác nữa thì tôi có thể nêu ra đây dưới hình thức tham khảo : đó là sự gia tăng dân số quá nhanh gây ảnh hưởng đến vấn đề kinh tế và giáo dục ; 1 nguyên nhân nữa là cuộc chiến tranh hoá học…
3. Sự cần thiết phải bảo vệ môi trường trong công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước
Từ những nguyên nhân và thực trạng mà tôi đã đưa ra ở trên đủ để thấy được sự ảnh hưởng của môi trường sinh thái đến cuộc sống của đất nước ta cũng như đối với toàn thế giới.Ngay bây giờ tôi sẽ đưa ra một số lý do để làm sáng tỏ hơn sự cần thiết của việc bảo vệ môi trường sinh thái ở nước ta hiện nay.
+Nó là cần thiết để đất nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua tư bản chủ nghĩa.
+Ngày nay, sự kết hợp giữa mục tiêu kinh tế và mục tiêu sinh thái đã trở thành một nguyên tắc cơ bản của sự phát triển lâu bền.
+Trong giai đoạn tăng tốc đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, vấn đề nổi cộm hàng đầu là giải quyết mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế và lợi ích môi trường, mà thực chất là giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài.
4. Phương hướng và giải pháp cho vấn đề bảo vệ môi trường ở nước ta trước những yêu cầu mới của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá
Từ tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường đối với đời sống đã nêu ở trên, ta có thể dễ dàng hiểu tại sao bảo vệ môi trường phải được coi là một mục tiêu cơ bản trong chiến lược phát triển. Một số giải pháp chúng ta có thể thực hiện đối với việc bảo vệ môi trường là :
+Hoàn chỉnh hệ thống các văn bản pháp luật bảo vệ môi trường, khẩn trương ban hành các chính sách về phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường.
+Chủ động phòng chống ô nhiễm và sự cố môi trường, khắc phục suy thoái môi trường.
+Tăng cường quản lí nhà nước về môi trường theo phương châm phòng bệnh hơn chữa bệnh, cần rất chú trọng vào phòng ngừa ô nhiễm, bảo vệ thiên nhiên. Ngay từ trong chiến lược phát triển phải rõ các yêu cầu, các giải pháp bảo vệ môi trường. Trong các quy hoạch phát triển sản xuất, phát triển vùng, các dự án đầu tư, khi lựa chọn qui mô, địa điểm, công nghệ v.v...phải phân tích kỹ tác động môi trường và các biện pháp bảo vệ môi trường sinh thái
+Tăng cường nghiên cứu phân tích kinh tế về môi trường, từ đó đi tới các chính sách tài chính và công cụ quản lí về môi trường. Một vấn đề đặt ra là môi trường được tính trong GDP như thế nào, trên cơ sở đó qui định mức chi ngân sách nhà nước cho bảo vệ môi trường, mức chi cho bảo vệ môi trường trong các dự án, trong các doanh nghiệp, xác định mức đền bù do gây ra ô nhiễm theo nguyên tắc người gây ra ô nhiễm phải trả tiền.
+Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học và công nghệ, đào tạo cán bộ, chuyên gia về lĩnh vực bảo vệ môi trường.
+Cần phát triển mạnh công nghệ môi trường để trở thành một ngành mũi nhọn. Làm tốt công tác quản lí và xử lí chất thải, trên cơ sử thống nhất với nhau về quan điểm, nhận thức. Phát triển các doanh nghiệp môi trường
+Khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học, bảo tồn thiên nhiên.
+Kiên quyết xử lí các trường hợp vi phạm luật môi trường. Khắc phục tình trạng đình chỉ sản xuất các cơ sở gây ô nhiễm quá quy định nhưng rồi không thi hành. Xử lí những người có trách nhiệm trong việc không thực hiện các quy hoạch đã duyệt, trong đó có giải pháp bảo vệ môi trường, cân bằng sinh thái .
+Thường xuyên tuyên truyền, giáo dục, xây dựng thói quen, nếp sống và các phong trào quần chúng bảo vệ môi trường.
+Đưa các nội dung bảo vệ môi trư ờng v ào chương trình giáo dục của tất cả các bậc học trong hệ thống giáo dục quốc dân. Tạo điều kiện để người dân thường xuyên nhận được các thông tin về môi trường như một biện pháp bảo vệ môi trường.
….
Trên đây tôi mới chỉ đưa ra một trong số rất nhiều giải pháp có thể thực hiện. trong thực tế đất nước ta.
KẾT LUẬN
Tóm lại,vấn đề môi trường sinh thái không phải chỉ là vấn đề của riêng đất nước ta mà nó là mối quan tâm, lo lắng chung của toàn nhân loại và đồng thời cũng là đối tượng nghiên cúu của nhiều khoa học, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Nét đặc trưng của vấn đề này ở nước ta hiện nay là sự đan xen phức tạp giữa những vấn đề môi trường sinh thái cổ điển với những vấn đề môi trường sinh thái hiện đại, cộng với sự gay gắt của vấn đề ô nhiễm môi trường xã hội; là sự vượt trước của những vấn đề môi trường sinh thái so với trình độ phát triển của xã hội. Phát triển bền vững là chiến lược phát triển chung của toàn nhân loại trong thời đại ngày nay. Để thực hiện được chiến lược này thì trước hết cần phải thay đổi quan niệm về sự phát triển, thể hiện qua các chính sách, thực hiện sự kết hợp chặt chẽ mục tiêu kinh tế và mục tiêu sinh thái trong quá trình công nghiệp hóa hiện địa hóa, hướng đến xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh về kinh tế, công bằng về xã hội và trong sạch về môi trường sinh thái.
Và chúng ta cũng cần nhìn nhận toàn thể về hiện trạng môi trường sinh thái của thế giới lúc này. Đó là sự cạn kiệt của các nguồn tài nguyên thiên nhiên kéo theo đó là nạn ô nhiễm môi trường sinh thái như hiện tượng lỗ thủng tầng ôzôn, hiệu ứng nhà kính, mưa axit , sa mạc hóa ...Đó thực sự là những thiệt hại vô giá mà con người phải gánh chịu trước “sự trả thù của tự nhiên” cho những hành động vô ý thức của con người đối với nó trong suốt một thời gian dài của lịch sử.
Danh mục các tài liệu tham khảo
1. Văn kiện đại hội đảng IX
2. Giáo trình triết học Mác_Lênin
3. Thông tin Khoa học xã hội - Số 4.2004 (trang 22-24)
4.www.thiennhien.net
5.www.dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn/
6.www.monre.
7 vi.wikipedia.org/
MỤC LỤC
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 60486.DOC