Sự can thiệp của Nhà Nước nhằm phân phối thu nhập công bằng ,bảo vệ các thành viên của xã hội chống lại những khó khăn về kinh tế ,nâng cao mức sống của các nhóm dân cư có thu nhập thấp nhất .Điều đó được thực hiện thông qua chính sách phân phối, bảo hiểm xã hội và phúc lợi xã hội. Hàng năm Nhà Nước chi một lượng ngân sách khá lớn cho công tác xoá đói giảm nghèo và chính sách xã hội . Công tác này không chỉ được thực hiện qua các quỹ tài chính như : vốn ngân hàng ,tín dụng với lãi suất ưu đãi cho các đối tượng đói nghèo , đối tượng chính sách Mà còn có công tác hướng dẫn họ trực tiếp làm giàu chính đáng. Để giảm sự chênh lệch giữa các vùng ,các miền , Nhà Nước có các các chính sách ưu đãi như : đầu tư xây dựng giao thông , thông tin liên lạc , giáo dục đào tạo , y tế Về vấn đề cán bộ ,Nhà Nước có chính sách khuyến khích cả lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần cho những cán bộ miền núi ,biên giới ,hải đảo . Ngoài ra , Nhà Nước ta luôn đặt vấn đề giáo dục ,đào tạo ,y tế ,văn hoá ,đạo đức lên hàng đầu , đầu tư phát triển chăm sóc đời sồng mọi mặt cho nhân dân.
30 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1885 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng vận dụng vào xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cơ chế quản lý cứng nhắc .Những tìm tòi thử nghiệm trong cuộc sống của đông đảo quần chúng là những hiện tượng kinh tế mới lạ có sức thuyết phục như những giải pháp kinh tế đích thực cả tích cực lẫn tiêu cực để tồn tại.
Tình hình đó đòi hỏi cần thiết phải thay đổi.
Tuy nhiên ,có quan điểm cho rằng kinh tế thị trường không thể dung hợp với chủ nghĩa xã hội ,với một định hướng công bằng xã hội , tự do ,hạnh phúc ... mà cả xã hội loài người đang hướng tới.Điều đó là hoàn toàn vô căn cứ ,chủ quan duy ý chí. Theo Các-Mác : kinh tế hàng hoá , cái gốc của kinh tế thị trướng tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất khác nhau. Kinh tế thị trường không phải là cơ sở kinh tế . Vì theo nghĩa đó tất nhiên sẽ dẫn đến một hệ quả : kinh tế thị trường chỉ tồn tại trong chủ nghĩa tư bản . Mà kinh tế thị trường là một thể chế kinh tế , là cách thức sản xuất của xã hội . Do đó nó hoàn toàn có thể dung dưỡng trong chủ nghĩa xã hội .
Hơn nữa ,kinh tế thị trường không những tồn tại khách quan mà còn cần thiết cho xây dựng chủ nghĩa xã hội. Kinh tế thị trường tồn tại khách quan vì vẫn còn cơ sở cho nó tồn tại và phát triển là :
1.Sự phân công lao động xã hội không mất đi mà sự chuyên môn hoá sản xuất ngày càng cao diễn ra trên phạm vi cả nước và thế giới.
2.Trong quá trình đó và dưới chủ nghĩa xã hội , vẫn tồn tại những hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất ,tức vẫn còn sự tách biệt về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá.
Nó cũng cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.Chủ nghĩa tư bản đã biết sử dụng vai trò to lớn của kinh tế thị trường để thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế.Chúng ta cũng phải biết khai thác vai trò to lớn của kinh tế thị trường và những mặt tích cực của nó : thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển,đẩy mạnh cải tiến kỹ thuật ,nâng cao năng suất lao động,thúc đẩy phân công lao đông xã hội phát triển...Hạn chế những mặt tiêu cực của kinh tế thị trường để phát triển.
Tất cả những nguyên nhân trên ta có thể kết luận rằng : chuyển sang kinh tế thị trường ở Việt Nam là một tất yếu khách quan ,chuyển sang cơ chế thị trường địng hướng xã hội chủ nghĩa là mục tiêu chiến lược của toàn Đảng ,toàn dân ta, phù hợp với xu hướng phát triển của thế giới.
2.3 . Nền kinh tế thị trường nước ta là một bộ phận của nền kinh tế thị trường thế giới
Không cái riêng nào là độc lập hoàn toàn , kinh tế thị trường nước ta luôn nằm trong tổng quan kinh tế thị trường thế giới .Nó liên hệ với những nền kinh tế khác hình thành nên nét chung qui luật của một nền kinh tế thị trường.
Bản chất của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là : kiểu tổ chức kinh tế phản ánh sự kết hợp giữa cái chung là kinh tế thị trường với cái đặc thù là định hướng xã hội chủ nghĩa vào từng điều kiện kinh tế ,xã hội ,tự nhiên ,vào từng lĩnh vực khác nhau.Với tư cách là cái chung ,kinh tế thị trường ở Việt Nam cũng là kinh tế thị trường nên trong quá trình xây dựng phải tạo lập và vận dụng đồng bộ các yếu tố :
a)Cơ sở kinh tế mang tính đa dạng về sở hữu và các thành phần kinh tế để nền kinh tế có '' tự do hoá về kinh tế '' ( tự do cạnh tranh ,tự do kinh doanh và tự chủ), dẫn tới các chủ thể kinh tế có tính tự chủ cao , tự lực ,tự cường phát huy nội lực.
b)Các phạm trù vốn có của KTTT như : hàng hoá ,tiền tệ ,thị trường
cạnh tranh, cung cầu ,giá trị thị trường,giá cả thị trường và lợi nhuận.
c)Kinh tế thị trường là hình thức phát triển của kinh tế hàng hoá nên nó chịu sự tác động của các qui luật vốn có của kinh tế hàng hoá là : qui luật giá trị ,qui luật cung cầu , qui luật lưu thông tiền tệ và qui luật cạnh tranh.
d)Hình thành một lớp người năng động ,nhạy cảm , giám nghĩ ,dám làm,ham mê làm giàu chính đáng,quan niệm đúng đắn về mục đích kiếm tiền.
e)Một đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường là mọi biến động kinh tế đều được điều tiết qua giá cả.Gía cả sản xuất lại được điều tiết qua thị trường dưới tác động của quan hệ cung cầu.
Cạnh tranh là tất yếu và lợi nhuận là mục tiêu của cạnh tranh. Có lẽ không một môi trường nào thúc đẩy phát triển hơn là môi trường cạnh tranh . Môi trường cạnh tranh bắt buộc mọi chủ thể kinh tế phải tự lựa chọn hai con đường hoặc tiến lên hoặc bị tiêu diệt. Sự cạnh tranh càng gay gắt ,động lực thúc đẩy sự phát triển càng mạnh mẽ .Từ đó mà tự nhiên tạo ra thứ đòn bẩy thần kì ,một chất xúc tác hiệu quả , làm tăng năng suất lao động , cải tiến phương thức sản xuất nhằm giảm chi phí ,tăng cả số lượng và chất lượng. Đặc biệt , là cách mạng hoá phong cách làm việc của người lao động vốn không được chăm sóc trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung.
Vấn đề đặt ra là tạo dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh ,hiệu quả.Cạnh tranh không chỉ ở phạm vi trong nước mà còn ở phạm vi thế giới thông qua mở của và hội nhập quốc tế . Mà cơ sở của cạnh tranh là tính công bằng và tự do.
Ngay từ buổi sơ khai của nền kinh tế thị trường thế giới, bên cạnh tính tự do của nó là một cơ chế vận hành theo sự quản lý vĩ mô của nhà nước. Và ngay trong thời đại ngày nay ,sự quản lý vĩ mô của nhà nước cũng là một xu hướng khách quan đối với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị. Không có một nhà nước nào đứng ngoài nền kinh tế,không có một nền kinh tế thị trường nào thuần tuý mà ở những mức độ khác nhau đều có sự can thiệp của nhà nước.Nhà nước điều tiết kinh tế thông qua phương pháp ''chương trình hoá'' với khả năng điều hành các ngân hàng lớn, các hệ thống tín dụng và thương mại .Nhà nước có thể điều tiết ở một mức độ nào đó giá cả thị trường ,giảm chi phí sản xuất,đầu tư vào các lĩnh vực khoa học - kĩ thuật thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Lịch sử phát triển của sản xuất xã hội chứng minh rằng cơ chế thị trường là cơ chế điều tiết nền kinh tế hàng hoá đạt hiệu quả cao .Song cơ chế thị trường không phải là hiện thân của sự hoàn hảo ,mọi sự vật hiện tượng đều có tính hai măt , tính biện chứng , nó vốn có những khuyết tật,đặc biệt là về mặt xã hội.Cũng như các nước khác trên thế giới,Việt Nam phải đối mặt với những hiện tượng : ô nhiễm môi trường , lạm dụng tài nguyên, sự phân hoá giàu nghèo ,vấn đề đạo đức ,tình người, văn hoá dân tộc có xu hướng bị mai một do quá trình hội nhập...Một nhà nghiên cứu phương Tây đã nhận xét về xã hội của các nước phát triển cao như sau :'' Trong các nền văn minh được gọi là phát triển của chúng ta , tồn tại một tình trạng kém phát triển thảm hại về văn hoá ,trí não ,đạo đức và tình người''.Người ta nhận thấy rằng một nền kinh tế hiện đại đứng trước một vấn đề nan giải của kinh tế vĩ mô không một nước nào trong thời gian dài lại có được lạm phát thất nghiệp thấp và công ăn việc làm đầy đủ.
Đó là những khuyết tật vốn có của kinh tế thị trường mà bất cứ quốc gia nào khi xây dựng kinh tế thị trường cũng phải đối mặt . Chỉ khác nhau ở chỗ mỗi nhà nước có một cách đối sử với chúng riêng.
Nền kinh tế thị trường nước ta cũng tuân theo xu hướng toàn cầu hoá ,hội nhập và hợp tác quốc tế.Qúa trình này đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ cuốn hút tất cả các nền kinh tế trên thế giới . Nó có những nguyên tắc, những thiết chế riêng bắt buộc các chủ thể tham ra đều phải tuân theo Qua đó mà có mối quan hệ biện chứng lẫn nhau.Kinh tế thị trường Việt Nam chịu sự tác động của kinh tế thị trường thế giới và ngược lại nó cũng tham gia đóng vai trò là bộ phận của chỉnh thể đó.
Qúa trình hình thành các loại thị trường ở Việt Nam là quá trình phát triển từ thấp đến cao,từ rối loạn đền ổn định ,hoà nhập thị trường quốc tế.Đây là một trình tự mà nền kinh tế thế gới đã trãi qua.
2.4. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa , đặc trưng của kinh tế thị trường Việt Nam.
Với tư cách là cái riêng ,ngoài những nét chung đã trình bày ở trên kinh tế thị trường nước ta còn có những đặc điểm riêng phân biệt với nền kinh tế thị trường của các nước khác. Điều này được quy đinh bởi những điều điều kiện mang tính chất lịch sử ,xã hội đặc biệt là chế độ chính trị. 2.4.1. Một số điều kiện mang tính lịch sử của nền kinh tế Việt Nam trước
khi bước sang kinh tế thị trường.
Đặc điểm kinh tế: nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ, mang nặng tính tự cung ,tự cấp, cơ sở hạ tầng thấp kém, lực lượng sản xuất thô sơ,lạc hậu , đối với người lao động trình độ thấp kém, mang nặng tư tưởng tiểu nông...
Bị chiến tranh tàn phá nặng nề .
Chịu sự kìm hãm của mấy chục năm xây dựng nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan lưu, bao cấp.Cụ thể là :
-Nhà nước quản lý kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, thể hiện ở sự chi tiết hoá các nhiệm vụ do trung ương giao bằng một hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh từ trung tâm.Điều đó đã làm sơ cứng nền kinh tế, nền kinh tế không có động lực ,không có đua tranh, không phát huy được tính chủ động sáng tạo của người lao động,của chủ thể sản xuất kinh doanh,sản xuất không gắn liền với nhu cầu ,ý chí chủ quan đã lấn át khách quan và triệt tiêu mọi động lực và sức mạnh nội sinh của bản thân nền kinh tế .
-Các quan hệ căn bản của nền kinh tế : hàng hoá - tiền tệ , tín dụng, thương mại chỉ còn là hình thức.
-Các quan hệ hành chính - kinh tế can thiệp qúa sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở ,nhưng không chịu trách nhiệm gì về mặt vật chất đối với các quyết định của mình đẫn đến hiệu quả kinh tế rất thấp.
Bộ máy quản lý cồng kềnh, có nhiều khâu trung gian và kém năng động từ đó phát sinh một đội ngủ cán bộ kém năng lực quản lý,không thạo nghiệp vụ kinh doanh, nhưng phong cách thì quan lưu cửa quyền.
Tất cả đã làm cho nền kinh tế suy thoái , thiếu hụt , hiệu qua thấp, nhiều mục tiêu của chủ nghĩa xã hội không thực hiện được.
2.4.2. Những đặc điểm riêng phân biệt kinh tế thị trường nước ta với các nước khác.
Xuất phát từ điều kiện lịch sử trên , kinh tế thị trường Việt Nam có những đặc trưng sau :
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa .
Chúng ta không coi kinh tế thị trường là mục tiêu mà chỉ là phương tiện để phát triển lực lượng sản xuất ,xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội và thiết lập quan hệ sản xuất mới.Mục đích của chúng ta là xây dựng nước ta thành một xã hội dân giàu ,nước mạnh ,công bằng,dân chủ văn minh.
Nếu kinh tế thị trường trong chủ nghĩa tư bản như ở Anh, Pháp,Mĩ... dựa trên cơ sở cơ cấu đa dạng về hình thức sở hữu , trong đó sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là nền tảng thì kinh tế thị trường ở nước ta lấy sở hữu tập thể, toàn dân ,nhà nước làm chủ đạo.Do đó nền kinh tế gồm nhiều thành phần,trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Trong kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa , cũng có nhiều hình thức phân phối trong đó phân phối theo tư bản là chủ yếu thì kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cũng thực hiện nhiều hình thức phân phối : phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế,phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực vào sản xuất , kinh doanh, và phân phối thông qua các quĩ phúc lợi xã hội, trong đó phân phối theo kết quả lao động giữ vai trò nòng cốt, đi đôi với chính sách điều tiết thu nhập một cách hợp lý. Trong khi ở các nước tư bản chủ nghĩa 80% tổng thu nhập của toàn xã hội lại nằm trong tay 20% dân số , còn 20% của cải còn lại giành cho 4/5 dân số nghèo đói. Thì chúng ta thực hiện phân phối theo nguyên tắc công bằng , phân phối theo lao động ,theo vốn , trên cơ sở khuyến khích mội người tự do sản xuất kinh doanh công khai hợp pháp ,đồng thời thực hiện chính sách công bằng xã hội Tuy nhiên để có động lực cho sự phát triển , chúng ta chấp nhận phân hoá khi phân phối . Điều quan trọng là phải phân biệt : phân hoá theo bất công thì kiên quyết xoá bỏ ,nhưng phân hoá do lao động sáng tạo cần khuyết khích. Chúng ta không coi bất bình đẳng xã hội như một trật tự tự nhiên, là điều kiện của sự tăng trưởng kinh tế , mà thực hiện mỗi bước tăng trưởng kinh tế gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội.
Mỗi chế độ xã hội có một chế độ phân phối tương ứng với nó.Chế độ phân phối do quan hệ sản xuất thống trị ,trước hết là quan hệ sở hữu quyết định.Phân phối có liên quan đến chế độ xã hội,đến chính trị.Dưới chủ nghĩa tư bản phân phối theo nguyên tắc giá trị: đối với người lao động theo giá trị sức lao động, còn theo tư bản theo giá trị tư bản.Như vậy thu nhập của người lao động chỉ giới hạn ở giá trị sức lao động ma thôi .Chủ nghĩa xã hội có đặc trưng riêng về sở hữu ,do đó chế độ phân phối cũng có đặc trưng riêng.phân phối theo lao động là đặc trưng của chủ nghĩa xã hội . Thu nhập của người lao động không chỉ giới hạn ở giá trị sức lao động, mà nó phải vượt qua giới hạn đó.Nó phụ thuộc chủ yếu vào kết quả lao động và hiệu quả kinh tế.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta gồm nhiều thành phần kinh tế.Vì vậy, cần thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập.Chỉ có như vậy mới khai thác được khả năng của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần,huy động được mọi nguồn lực kinh tế vào phát triển kinh tế.
Trong kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta , sự tăng trưởng và phát triển kinh tế gắn liền với sự tiến bộ ,công bằng xã hội trong mỗi bước phát triển.Tăng trưởng và phát triển kinh tế đi đôi với việc đẩy mạnh văn hoá ,giáo dục để nâng cao dân trí ,đảm bảo nguồn nhân lực và xây dựng một nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc.
Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong bước chuyển sang kinh tế thị trường , vấn đề định hướng xã hội chủ nghĩa được xem xét một cách cơ bản toàn diện từ kinh tế đến chính trị xã hội . Xét riêng phạm vi kinh tế , Nhà Nứơc sử dụng hai nhân tố khách quan trực tiếp góp phần bảo đảm định hướng xã hội chủ nghiã .Trước hết định hướng về chế độ kinh tế,vai trò quản lý của Nhà Nước xã hội chủ nghĩa và sau đó là vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà Nước.
Việc định hướng cho chế độ kinh tế được thực hiện thông qua các chiến lược qui hoạch ,kế hoạch phát triển kinh tế thị trường ; Nhà Nước đầu tư các dự án vào các lĩnh vực then chốt để bảo đảm cho nền kinh tế phát triển đúng định hướng ; ổn định môi trường kinh tế vĩ mô như chống lạm phát , chống khủng hoảng , ngăn ngừa những xung đột xấu trong nền kinh tế .
Nhà Nước với chức năng quản lý ,điều tiết nền kinh tế , tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế như bảo đảm sự ổn định về chính trị ,xã hội ,thiết lập khuôn khổ luật pháp thống nhất, có hệ thống chính sách nhất quán để tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho giới kinh doanh hoạt động hiệu quả. Xây dựng kết cấu hạ tằng kinh tế -xã hội bảo đảm yêu cầu của phát triển kinh tế. Nhà Nứơc quản lý tài sản công và kiểm kê,kiểm soát toàn bộ hoạt động kinh tế ,xã hội.Thực hiện đúng chức năng quản lý Nhà Nướcvề kinh tế và chức năng chủ sở hữu tài sản công của Nhà Nước . Nhà Nứơc chỉ với chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô , không can thiệp quá sâu vào chức năng quản trị kinh doanh cũng như quyền tự chủ của doanh nghiệp.
Cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà Nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện ở một nội dung quan trọng là chức năng sữa chữa những thất bại của kinh tế thị trường bảo đảm mục tiêu phát triển của chủ nghĩa xã hội . Sự hoạt động của cơ chế thị trường có thể làm cho nền kinh tế đạt hiệu quả. Nhưng cơ chế thị trường hoạt động phi nhân tính , nó không tính đến các khía cạnh nhân đạo và xã hội ,không mang lại những kết quả mà xã hội cố vươn tới. Việc phân phối và sử dụng tối ưu các nguồn lực không tự động mang lại một một sự phân phối thu nhập tối ưu .
Sự can thiệp của Nhà Nước nhằm phân phối thu nhập công bằng ,bảo vệ các thành viên của xã hội chống lại những khó khăn về kinh tế ,nâng cao mức sống của các nhóm dân cư có thu nhập thấp nhất .Điều đó được thực hiện thông qua chính sách phân phối, bảo hiểm xã hội và phúc lợi xã hội. Hàng năm Nhà Nước chi một lượng ngân sách khá lớn cho công tác xoá đói giảm nghèo và chính sách xã hội . Công tác này không chỉ được thực hiện qua các quỹ tài chính như : vốn ngân hàng ,tín dụng với lãi suất ưu đãi cho các đối tượng đói nghèo , đối tượng chính sách …Mà còn có công tác hướng dẫn họ trực tiếp làm giàu chính đáng. Để giảm sự chênh lệch giữa các vùng ,các miền , Nhà Nước có các các chính sách ưu đãi như : đầu tư xây dựng giao thông , thông tin liên lạc , giáo dục đào tạo , y tế … Về vấn đề cán bộ ,Nhà Nước có chính sách khuyến khích cả lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần cho những cán bộ miền núi ,biên giới ,hải đảo . Ngoài ra , Nhà Nước ta luôn đặt vấn đề giáo dục ,đào tạo ,y tế ,văn hoá ,đạo đức … lên hàng đầu , đầu tư phát triển chăm sóc đời sồng mọi mặt cho nhân dân.
Kinh tế thị trường nước ta là nền kinh tế thị trường theo kiểu rút ngắn.Điều này có nghĩa chúng ta có thể bỏ qua một số tuần tự trong quá trình xây dựng. Như vậy , chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản đều sử dụng cỗ xe kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường để phát triển lực lượng sản xuất , phải chăng chỗ khác nhau là sự cân bằng giữa kinh tế xã hội ,con nghười và quan hệ con người với con người ,quan hệ phân phối ,thiết chế chính trị ; cả hai đều sử dụng cạnh tranh làm động lực phát triển , nhưng dưới chủ nghỉa tư bản không thể tránh khỏi quy luật cá lớn nuốt cá bé, bất bình đẵng ,bất công (nếu như thời kỳ đầu biểu hiện trong công xưởng thì ngày nay mở ra quan hệ toàn cầu bằng những áp lực và ràng buộc phi lý) . Chúng ta chấp nhận thị trưòng là chấp nhận cạnh tranh ,đua tranh nhưng không dã man ,tăng trwongr kinh tế đi đôi với công bằng , khuyết khích làm giàu đi đôi với xoá đói giảm nghèo ,sự gia tăng mức sống nhưng giữ gìn đạo đức bản sắc văn hoá dân tộc.
Thành tựu của kinh tế thị trường ở Việt Nam
Kinh tế thị trường đã thực sự tạo ra bước ngoặt trong nền kinh tế Việt Nam.Việt Nam không những khắc phục được tình trạng suy thoái , khủng hoảng kéo dài mà còn đạt được những tiến bộ nổi bật , đạttốc độ tăng trwongr khá lên tục.Tổng sản phẩm trong nước năm 1994 tăng 8,5% năm,trong đó sản xuất công nghiệp tăng 13%, sản xuất nông nghiệp tăng 4% , kim ngạch xuất khẩu tăng 20,8%,lạm phát được kiềm chế , bước đầu thu hút được vốn đầu tư nước ngoài.
Thành tựu nổi bật nhất là sản xuất nông nghiệp phát triển .Từ chỗ thiếu lương thực trầm trọng nay chúng ta đã trở thành quốc gia xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng hiện đại cùng với quá trình công nghiệp hoá ,hiện đại hoá . Cơ hế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước theo định hướng XHCN đã có những bước phát triển nhất định hiệu lực quản lý của bộ máy hành chính Nhà Nước ngày càng cao. Nền kinh tế quốc dân đã sản xuất được một lượng vật chất nhất định , lực lượng sản xuất phát triển đạt được một số thành tựu đáng kể . Tuy nhiên , bên cạnh những thành tựu quan trọng trên , kinh tế thị trường nước ta cũng còn nhiều tồn tại cần được giải quyết ngay.
Một số thực trạng và giải pháp đối với nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
Thực trạng:
Với thành phần kinh tế nhà nước: chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước .
Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế chịu ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc những hậu quả của chế độ kinh tế cũ. Nên mặc dù chúng ta đã thực hiện nhiều biện pháp cải cách bộ phận kinh tế này , nó vẫn còn tồn tại nhiều thực trạng như :
-Hiệu quả sản xuất kinh doanh và sự cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước còn thấp. Tính năng động của một bộ phận không nhỏ doanh nghiệp nhà nước còn hạn chế.
-Tuy có lợi thế hơn về khả năng vốn nhưng do qua quá nhiều khâu trung gian , không phát huy được tính tự chủ trong kinh doanh …Nên đầu tư đổi mới công nghệ chậm , trình độ công nghệ lạc hậu .
-Trình độ quản lý của doanh nghiệp nhà nước (DNNN) phần lớn còn yếu kém , chưa đáp ứng được nhu cầu của kinh tế thị trường.Cán bộ quản lý hầu hết trưởng thành trong cơ chế cũ , chưa được đào tạo ,đào tạo lại , không đáp ứng được nhu cầu mới đặt ra của nền kinh tế thị trường.
-Chính sách tài chính,tín dụng , chính sách thuế, tiìen lương và phân phối lợi nhuận còn nhiều bất cập .
- Qui mô doanh nghiệp nhà nước còn nhỏ, dàn trãi ,chồng chéo về ngành nghề và tổ chức quản lý.
Về lực lượng sản xuất:
-Cơ sở vật chất ,kỹ thuật còn lạc hậu. Đòi hỏi quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá.
-Nguồn nhân lực: Sự thiếu hụt một số lượng lớn công nhân kỹ thuật, thợ bậc cao đã ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế . Chất lượng nguồn nhân lực là vấn đề rất bức súc . Khoa học , công nghệ phát triển nhanh chóng, kéo theo mọi mặt biến đổi không ngừng của xã hội , đòi hỏi con người phải luôn luôn thích nghi với cuộc sống. Do đó , những phẩm chất của người lao động phải có sự biến đổi tương ứng.Thực tế đó đòi hỏi hệ thống giáo dục ,đào tạo hợp lý.
Quan hệ tài chính, tiền tệ, tín dụng, thương mại chưa phát triển, chưa đáp ứng được nhu cầu đặt ra của nền kinh tế. Qúa trình hình thành ,quay vòng và phân phối vốn còn khá chậm ,lại bị giào cản bởi hệ thống chính sách , quy tắc rườm rà nhưng quản lý kém hiệu quả. Các quan hệ này chưa đồng bộ , còn nhiều cứng nhắc , chưa là động lực thực sự thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Thị trường :
Thị trường sơ khai ,rối loạn và nhiều yếu tố tự phát (mới chỉ có thị trường đầu ra : thị trưòng hàng hoá, còn thị trường đầu vào : thị trường tiền tệ ,thị trường vốn ,thị trường sức lao động chưa có hoặc mới ở dạng manh nha).Thị trường tiền tệ và thị trường vốn vẫn còn tách biệt : một bên là tín dụng lãi suất , tỷ giá do Nhà Nước định hoặc khống chế ; một bên là tín dụng lãi suất tự do , tự phát ngoài vòng kiểm soát của Nhà Nước.Thị trường sức lao động có phần chưa thoát khỏi chế độ biên chế , hoặc tự phát.Thị trường thiếu và còn những rối loạn cùng với tình trạng luật lệ Nhà Nước vừa thiếu ,vừa bất hợp lý : còn những gò bó và cả những sơ hở , thủ tục hành chính phiền hà,nạn tham nhũng tràn lan là môi trường bất lợi cho thị trường phát triển.
Mặc dù đã có định hướng lớn để xây dựng một thị trường đồng bộ , nhưng trên thực tế chuyển biến rất chậm. Nguyên nhân chủ yếu là sự thiếu nhất quán về chính sách ,thể chế nhất là trong lĩnh vực tài chính tiền tệ,đầu tư ,thương mại tỷ giá, lãi suất . Đó là những tồn tại của vấn đề thị trường ở Việt Nam hiên nay.
Sức cạnh tranh của nền kinh tế :
Sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp .Ví dụ như ngành dệt may Việt Nam vốn được coi là thế mạnh của chúng ta . Trong ba tháng đầu năm 2003 xuất khẩu vào thị trường Mỹ vượt 500 triệu đô - la Mỹ, thì vào Nhật và EU giảm 25% . Xuất khẩu vào các nước ASAN trước đây chiếm 25% kim ngạch xuất khẩu hàng năm của cả nước thì nay chỉ còn 17% . Tỷ trọng này có nghĩa là Việt Nam đã mở rộng sang các thị trường khác , nhưng cũng chứng tỏ sức cạnh trnh của hàng hoá Viêt Nam còn thua kém so với các nước ASAN khác.
Về mặt xã hội : sự phân hoá giàu nghèo, vấn đề đạo đức , lối sống, văn hoá ô nhiễm môi trường , tàn phá tài nguyên … Làm cho các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội gặp nhiều khó khăn khi thực hiện .
Giải pháp:
Có thể nhận thấy hầu hết những thực trạng trên là do kinh tế thị trường ở nước ta chưa phát triển. Do đó , giải pháp chiến lược , lâu dài ,trên tầm cả vĩ mô và vi mô là : Tạo lập duy trì và phát triển tự do hoá kinh tế .Đây là một điều kiện có tầm quan trọng đến sự hình thành ,tồn tại và phát triển kinh tế thị trường ở nước ta . Tự do hoá kinh tế là điều kiện tất yếu để sản sinh và nuôi dưỡng tự do cạnh tranh ,tự do kinh doanh và tự chủ rất cần thiết cho các chủ doanh nghiệp với tư cách là những đơn vị kinh tế tự chủ . Chỉ có một cơ chế kinh tế thực sự tự do , cạnh tranh lành mạnh mới đẩy các thành phần kinh tế ,đặc biệt là bộ phận kinh tế Nhà Nước , vốn quen thói bị động ,bao cấp tự phát phải đứng vào cuộc đua tranh quyết liệt sống còn . Do đó bộ phận này phải tự thân vận động , phát triển để thích nghi , hoàn thiện về mọi mặt không chỉ là quản lý , mà còn sở hữu và phân phối.
Tự do kinh tế là môi trường nuôi dưỡng cạnh tranh , thị trường - tiền đề cho hệ thống thị trường ở nước ta vận động đi lên ,đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế , yếu tố vô cùng quan trọng trong môi trường toàn cầu hoá hiện nay . Tự do hoá kinh tế cùng với hình thành thị trường lao động cũng tạo ra cuộc đua tranh quyết liệt giữa những người lao động để giành lấy vị trí làm việc tốt nhất ,đồng thời tuyển chọn được phần tử có năng lực ,đào thải các phần tử yếu kém .
Có thể nói , tự do hoá kinh tế là một điều kiện khách quan nhằm phát triển kinh tế thị trường ở nước ta nói chung , giải quyết những tồn tại trên nói riêng.
Để tạo lập ,duy trì và phát triển tự do hoá kinh tế cần thực hiện các nhiệm vụ sau :
-Đẩy mạnh quá trình đa dạng hoá sở hữu .Có chính sách và cơ chế đủ sức xoá bỏ nhanh chóng sự kỳ thị , phân biệt đối xử ,thực hiện khuyến khích đầu tư và tôn vinh vai trò của các doanh nhân trong tất cả các thành phần kinh tế .
-Thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa phân công lao động xã hội trong nước và quốc tế, tiếp tục xây dựng và phát triển đồng bộ các loại thị trường
-Tạo dựng môi trường chính trị , kinh tế , xã hội tương đối ổn định và thông thoáng để các chủ thể kinh tế trong nước và nước ngoài yên tâm phấn khởi đầu tư các nguồn lực vào sản xuất kinh doanh .
Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật , kết cấu hạ tầng và cơ sở hạ tầng hợp lý , đóng vai trò là những tiền đề cho kinh tế thị trường phát triển.
Tạo dựng hành lang và cơ chế bảo đảm giữ vững xã hội chủ nghĩa đối với kinh tế thị trường.
Tạo lập bộ máy Nhà
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21095.doc