Tiểu luận Nguyên tắc khách quan với vấn đề xây dựng nền Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay

MỤC LỤC

 

A-LỜI GIỚI THIỆU

B-N ỘI DUNG

I-Nguyên tắc khách quan-hệ quả tất yếu của quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức

1.1. Quan điểm về chất và ý thức

1.1.1. Quan điểm về vật chất

1.1.2 Quan điểm về ý thức

1.2 Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức

1.2.1 Vật chất quyết định ý thức

1.2.2 Ý thức có tính độc lập tương đôi tác động trở lại vật chất

1.3 Nguyên tắc khách quan rút ra từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức

II. Tác động của điều kiện khách quan trong quá trình xây dựng nên kinh tế định hướng XHCN ở VN hiện nay

2.1 Sự cần thiết xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở VN hiện nay

2.1.1 Lý luận chung về nền kinh tế thị trường

2.1.2 Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt nam

2.1.2.1 Tính tất yếu khách quan tác động đến nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt

2.1.2.2 Bản chất đặc trưngcủa nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở VN

2.2 Thực trạng nền kinh tế nước ta hiện nay

2.2.1 Những thành tựu quan trọng dạt được trong những năm qua

2.2.2 Những hạn chế khó khăn còn tồn tại trong nền kinh tế nước ta

2.2.3 Nguyên nhân

2.2.4 Giải pháp khắc phục

C- KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO

MỤC LỤC

 

 

 

doc24 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 12986 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Nguyên tắc khách quan với vấn đề xây dựng nền Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g phụ thuộc vào ý thức của con người thì trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải luôn xuất phát từ thực tế khách quan lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình Nguyên tắc này đòi hỏi chúng ta phải luôn xuất phát từ sự vật hiện tượng thực tế khách quan không được xuất phát từ ý muốn chủ quan không lấy ý muốn chủ quan định ra chính sách, không lấy ý chí áp đặt cho thực tế lấy ảo tưởng thay cho hiện thực. Nắm vững nguyên tắc khách quan đòi hỏi phải tôn trọng sự thật tránh thái độ chủ quan, duy ý chí, nóng vội, định kiến, không trung thực. Vì vậy yêu cầu của nguyên tắc khách quan đòi hỏi phải tôn trọng quy luật khách quan và hành động theo quy luật khách quan. Nguyên tắc khách quan còn phải gắn bó với tính năng động chủ quan, phát huy tính sáng tạo của ý thức. Vai trò tích cực của ý thức là ở chỗ nhận thức được thế giới khách quan làm cho con người hình thành được mục đích, phương hướng biện pháp và ý chí cần thiết cho hoạt động thực tiễn của mình. Để thực hiện phải vận dụng đúng quan hệ lợi ích phải có động cơ trong sáng thái độ thực sự khách quan khoa học và không vụ lợi tránh thái độ thụ động, ỷ lại, bảo thủ, trì trệ Thực hiện nguyên tắc khách quan tức là phải ngăn ngừa bệnh chủ quan duy ý chí. Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan một cách sáng tạo nếu cường điệu tính sáng tạo đó thì sẽ rơi vào bệnh chủ quan duy ý chí đó là khuynh hướng tuyệt đối hoá vai trò của nhân tố chủ quan của ý chí xa rời hiện thực khách quan bất chấp quy luật khách quan lấy nhiệt tình thay cho sự yếu kém về khoa học. Sai lầm của nó chính là những suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội chạy ddua theo nguyện vọng chủ quan Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức thì ý nghĩa của phương pháp luận rút ra là rất quan trọng đó là chúng ta luôn phải đảm bảo nguyên tắc khách quan và lấy nó cho căn cứ mọi hoạt động II. Tác động của điều kiện khách quan trong quá trình xây dựng nên kinh tế định hướng XHCN ở VN hiện nay 2.1 Sự cần thiết xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở VN hiện nay 2.1.1 Lý luận chung về nền kinh tế thị trường * Kinh tế hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà trong đó sản phẩm sản xuất ra để trao đổi để bán trên thị trường. Mục đích của sản xuất trong nền kinh tế hàng hóa không phải để thoả mãn nhu cầu trực tiếp của người sản xuất ra mà nhằm để bán tức là để thoả mãn nhu cầu của người mua đáp ứng nhu cầu của xã hội Kinh tế hàng hoá chỉ ra đời khi có đủ hai điều kiện đó là: Một là, phân công lao động xã hội: Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động xã hội ra thành nhiều ngàn nghề khác nhau của một nền sản xuất xã hội. Phân công lao động xã hội sẽ tạo nên sự chuyên môn hoá lao động do đó là chuyên môn sản xuất thành những ngành nghề khác nhau, mỗi người sản xuất chỉ tạo ra một hoặc một vài sản phẩm khác nhau để thoả mãn nhu cầu đòi hỏi họ phải có mối quan hệ phụ thuộc vào nhau trao đổi sản phẩm cho nhau Hai là, sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất. Sự tách biệt này là do các quan hệ sở hữu khác nhau về TLSX, từ đó làm cho người sản xuất độc lập, đối lập nhau nên họ nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội nên họ phụ thuộclẫn nhau về sản xuất và tiêu dùng. Trong điều kiện ấy người này muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác phải thông qua sự mua bán hàng hoá tức là phải trao đổi dưới hình thức hàng hoá sản xuất hàng hoá chỉ ra đời hki có đủ cả hai điều kiện nói trên nếu thiếu một trong 2 điều kiện đó sẽ không có sản xuất hàng hoá và san phẩm không mang hình thái hàng hoá *Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá trong đó toàn bộ các yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất đều phải thông qua thị trường, kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường không đồng nhất với nhau chúng khác nhau về trình độ phát triển, nhưng về cơ bản chúng có chung nguồn gốc và bản chất Kinh tế thị trường định hướng XHCN thực chất là nền kinh tế hang hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa 2.1.2 Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt nam 2.1.2.1 Tính tất yếu khách quan tác động đến nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt nam Hiện nay trên thế giới rất nhiều nước có nền kinh tế rất phát triển tốc độ tăng trưởng cao. Họ đi trước VN hàng chục năm và cả hàng trăm năm so về sự phát triển, thực tế chứng minh đây là những nước có bề dày phát triển kinh tế thị trường Ở Việt nam khi bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH thì nền kinh tế nước ta đang còn trong tình trạng lạc hậu kém phát triển nền kinh tế còn mang tính tự cung tự cấp. trước tình ìhn trong nước và trên thế giới tại đại hội Đảng lần thứ IX đã xác định mô hình kinh tế của việt nam trong thời kỳ quá độ đó là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đây là nhận thức hoàn toàn đúng đắn và phát triển kinh tế thị trường là một yếu tố khách quan đối với nước ta không thể lấy ý chí chủ quan mà xoá bỏ nó được. Điều đó dựa trên cơ sở chung của sự tồn tại và phát triển kinh tế thị trường ở VN là: Phân công lao động xã hội với tính cách là cơ sở chung của sản xuất hàng hoá chẳng những không mất đi mà trái lại còn được phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Phân công lao động trong từng khu vực từng địa phương ngày càng phát triển, sự phát triển đó thể hiện ở tính phong phú đa dạng chất lượng sản phẩm ngày càng cao đưa ra trao đổi trên thị trường. Trong nền kinh tế nước ta tồn tại nhiều hình thức sở hữu đó là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp. Do đó tồn tại nhiều chủ thể kinh tế độc lập lợi ích riêng nên quan hệ giữa họ chỉ có thể là quan hệ hàng hoá tiền tệ Thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể tuy cùng dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất nhưng các đơn vị kinh tế vẫn còn sự khác biệt nhất định có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh có lợi ích riêng. MẶt khác các đơn vị kinh tế còn có sự khác nhau về trình độ kỹ thuật, công nghệ, trình độ quản lý, nên chi phí sản xuất và hiệu quả cũng khác nhau Quan hệ hàng hoá- tiền tệ còn cần thiết trong quan hệ kinh tế đối ngoại đặc biệt trong điều kiện phân công lao động quốc tế đang phát triển ngày càng sâu sắc vì mỗi nước là một quốc gia riêng biệt, là chủ sở hữu đối với hàng hoá đưa ra trao đổi trên thị trường thế giới sự trao đổi ở đây trên nguyên tắc ngang giá Dựa trên những phân tích trên ta càng khẳng định tính tất yếu khách quan của nền kinh tế thị trường nước ta. Sự phát triển của nền kinh tế thị trường còn có vai trò rất to lớn đó là: thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất do đó tạo điều kiện ra đời của sản xuất lớn có xã hội hoá cao đồng thời chọn lọc được những người sản xuất kinh doanh giỏi hình thành đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ, lao động lành nghề đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Thực tiễn những năm đổi mới đã chứng minh rằng việc chuyển sang nền kinh tế thị trường là hoàn toàn đúng đắn. Nhờ phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần mà chúng ta đã bước đầu khai thác được tiềm năng trong nước, thu hút vốn kỹ thuật, công nghệ của nước ngoà, giải phóng được năng lực sản xuất góp phần vào việc quyết định đảm bảo tăng trưởng kinh tế với nhịp độ tương đối cao trong thời gian qua Vì vậy phát triển nền kinh tế thị trường ở VN là nhiệm vụ cấp bách để đưa nền kinh tế lạc hậu nước ta thành nền kinh tế hiện đại hội nhập vào sự phân công lao động quốc tế Bản chất đặc trưngcủa nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở VN *Bản chất Trên thực tế lý luận về mô hình thể chế kinh tế thị trường của các quốc gia hết sức đa dạng và phong phú, phức tạp. Hầu như không thể tìm được hai quốc gia nào có hệ thống thể chế kinh tế hoàn toàn giống nhau và cũng không thể áp dụng mô hình thể chế kinh tế thị trường của nước này cho nước khác. Vì vậy mỗi quốc gia phải tự chủ động nghiên cứu tìm tòi mô hình thể chế riêng cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh về kinh tế, xã hội, chính trị, truyền thống văn hóa...của quốc gia mình dân tộc mình và xu thế khách quan của thời đại Như vậy mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN là sự kết hợp giữa cái chung là nền kinh tế thị trường với cái đặc thù là định hướng XHCN ở VN. Tính chất chung của nền kinh tế thị trường đó là: các chủ thể kinh tế có tính độc lập, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Giá cả do thị trường quyết định hệ thống thị trường được phát triển đầy đủ làm cơ sở cho việc phân phối nguồn nhân lực kinh tế vào các ngành các lĩnh vực. nền kinh tế vận động theo quy luật vốn có của nền kinh tế thị trường như quy luật giá trị, quy luậ cạnh tranh...Nền kinh tế có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước thông qua pháp luật kinh tế kế hoạch hoá các chính sách kinh tế. Tính đặc thù của nền kinh tế nước ta thể hiện: Đó không phải là kinh tế bao cấp quản lý theo kiểu tập trung quan liêu bao cấp như trước đây nhưng đó cũng không phải là nền kinh tế thị trường tự do theo cách của các nước tư bản và cũng chưa hoàn toàn là nền kinh tế thị trường XHCN bởi chúng ta đang còn trong thời kỳ quá độ lên CNXH còn có sự đan xen giữa cái cũ và cái mới vừa có, vừa chưa có đầy đủ yếu tố XHCN. Sự lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCn ở nước ta đã thể hiện quyết tâm khắc phục triệt để hệ thống kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp để xây dựng kinh tế thị trường hiện đại *Đặc trưng của nền kinh tế thị trường ở nước ta Về mục tiêu phát triển kinh tế thị trường: giải phóng sức sản xuất, động viên mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước để thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội cải thiện từng bước đời sống nhân dân, Ở nước ta tư tưởng HCM và đường lối đổi mới của đảng lấy sản xuất gắn liền với việc cải thiện đời sống nhân dân tăng trưởng kinh tế đối với việc tiến bộ với công bằng xã hội khuyến khích làm giàu hợp pháp gắn liền với xoá đói giảm nghèo. Kinh tế thị trường gồm nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, trong nền kinh tế nước ta tồn tại ba loại hình sở hữu: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân và sáu thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, kinh tế cá thể- tiểu thủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước. Các thành phần kinh tế tồn tại một cách khách quan và là một bộ phận cần thiết của nền kinh tế đang trong thời kỳ quá độ lên CNXN, vì vậy phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần ở nước ta hiện nay là một tất yếu đối với nước ta. Có như vậy chúng ta mới khai thác được mọi nguồn lực, nâng cao hiệu quả kinh tế, phát huy được mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế vào sự phát triển chung của đất nước nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân. Trong đó nền kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Đây là vấn đề mang tính nguyên tắc và là sự khác biệt có tính căn bản giữa kinh tế thị trường XHCN và TBCN. Bởi lẽ mỗi một chế độ xã hội đều có một cơ sở kinh tế tương ứng nó kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới XHCN ở nước ta Thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập trong đó lấy phân phối lao động là chủ yếu: Mỗi chế độ xã hội có chế độ phát triển tương ứng với nó, chế độ phan phối do quan hệ sản xuất thống trị trước hết là do quan hệ sở hữu quyết định. Ở nước ta tồn tại ba loại hình sở hữu tương ứng với bốn hình thức phân phối thu nhập là: phân phối lao động, phân phối theo vốn hay tài sản đóng góp, phân phối theo giá trị sức lao động, phân phối theo giá trị sức lao động, phân phối thông qua các phúc lợi tập thể và xã hội. Sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế định hướng XHCN với TBCN là ở chỗ xác lập chế độ công hữu và thực hiện phân phối theo lao động. Đây là dặc trưng cơ bản là hình thức thực hiện về mặt kinh tế của chế độ công hữu và được xác định là hình thức phân phối chủ yếu trong thời kỳ quá độ. Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước XHCN. Hiện nay nền kinh tế nước ta cũng vận động theo cơ chế vốn có của nền kinh tế thị trường như: quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh...Hầu như tất cả các nền kinh tế của các nước trên thế giới đều có sự quản lý của nhà nước. Nhưng sự khác biệt trong cơ chế vận hành nền kinh tế nước ta là ở chỗ nhà nước quản lý là nhà nước XHCN, nhà nước của dân, do dân, vì dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản VN. Vai trò quản lý của nhà nước là hết sức quan trọng nó đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định đạt hiệu quả cao và đặc biệt là đảm bảo công bằng xã hội. Nhà nước ta quản lý bằng cách kết hợp kế hoạch với thị trường là sự tự điều tiết của bản thân nền kinh tế. Sự kết hợp này được thể hiện ở cả tầm vĩ mô và vi mô. Ở tầm vi mô thị trường là căn cứ xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh, thoát ly yêu cầu thị trường thì các kế hoạch của thị trường không thực hiện được. Ở tầm vĩ mô mặc dù thị trường không phải là căn cứ duy nhất có tính quyết định nhưng nếu thoát ly thị trường thì kế hoạch vĩ mô trở thành duy ý chí Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là nền kinh tế mở, hội nhập. Mở cửa kinh tế hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới là tất yếu đối với nước ta. Chỉ có như vậy mới thu hút được vốn kỹ thuật công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nước để khai thác được tiềm năng và thế mạnh của đất nước, phát huy nội lực tranh thủ ngoại lực để xây dựng và phát triển kinh tế thị trường hiện đại theo kiểu rút ngắn. Thực hiện mở rộng quan hệ kinh tế đa phương, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, đồng thời chú trọng mở rộng thị trường, cải thiện môi trường đầu tư với nhiều hình thức thu hút vốn đầu tư nước ngoài... Tóm lại, phát triển kinh tế thị trường ở nước ta với mục tiêu cơ bản là xây dựng XHCN thực hiện: dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột có cuộc sống ấm no hạnh phúc có điều kiện phát triển toàn diện 2.2 Thực trạng nền kinh tế nước ta hiện nay 2.2.1 Những thành tựu quan trọng dạt được trong những năm qua Sau hơn 20 năm đổi mới thực hiện các đường lối chính sách của đảng và nhà nước đề ra đặc biệt là việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN không những đã đưa đất nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế mà còn đạt được nhiều thành tựu quan trọng ngày càng khẳng định vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Thể hiện: Tốc độ tăng trưởng GDP là 7%/năm cứ sau 10 năm tổng GDP tăng hơn 2 lần và đến năm 2005 tốc độ tăng trưởng GDP đạt 8,4% cao nhất trong 10 năm qua, tỷ lệ lạm phát là 8,4% giảm 1,1% so với 2004(trong khi đó tốc độ GDP năm 2003 là 7,3% năm 2004 là 7,7%) Các ngành kinh tế có bước phát triển khá Giá trị sản xuất công nghiệp liên tục tăng cao trong những thánh cuối năm từ 18,3% tháng 10/2005 lên 18,8% tháng 11/2005 so với cùng kỳ năm 2004, góp phần vào nhịp độ tăng ước tính cả năm là 17,2% so với 16% của năm 2004 Ngành nông nghiệp và dịch vụ cũng ghi nhận được những phấn đấu vượt bậc với tốc độ tăng giá trị gia tăng lần lượt là 4,1 và 8,4% bất chấp thiên tai và dịch bệnh Thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu để phát huy tiềm năng của từng vùng, ngành trong từng khu thành phần kinh tế trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước Cơ cấu các ngành kinh tế từng bước chuyển dịch theo theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát huy lợi thế so sánh trong từng ngành, từng vùng làm ăn hiệu quả và chất lượng phát tiển. Tỷ trọng nông lâm ngư nghiệp giảm từ 24,5% năm 2000 xuống òn 20,89% năm 2005 công nghiệp và xây dựngtăng từ 36,7% năm 2000 lên đến 40,04% năm 2005, dịch vụ từ 38,8% năm 2000 lên 38,07% năm 2005 Cơ cấu vùng chuyên dịch theo hướng phát huy các lợi thế so sánh. Hiện nay các vùng kinh tế trọng điểm gióp khoản 63,16% GDP cả nước vào năm 2005 góp khoảng 70% giá trị gia tăng công nghiệp khoảng 70% kim ngạch xuất khẩu và 73% thu ngân sách nhà nước Cơ cấu lao động chuyển dịch theo hướng phát giảm tỉ lệ lao động trong sản xuất thuần nông tăng tỉ leej lao động trong các ngành công nghiệp dịch vụ . Tỉ trọng lao động trong nông- lâm –ngư nghiệp từ 68,2% năm 2000 và giảm 56,8% năm 2005; Lao động công nghiệp tăng từ 12,1% năm 2000 lên 17.9% năm 2005; lao động trong ngành dịch vụ từ 19,7% năm 2000 lên đến 25,3% năm 2005 Cơ cấu các thành phần kinh tế có sự dịch chuyển theo hướng sắp xếp lại và đổi mới khu vực doanh nhgiệp nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước sau khi đã sắp xếp lại đều hoạt động có hiệu quả hơn. Kinh tế tập thể tiếp tục phát triển với nhiều hình thức đa dạng. Kinh tế cá thể tư nhân phát triển khá, nhất là trong các lĩnh vực nông- lâm nghiệp,thuỷ sản, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài tiếp tục có bước phát triển thực sự trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng trong nền kinh tế *Tạo dựng được những tiền đề phát triển kinh tế XH trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. - Cân đối tích luỹ tiêu dùng được cải thiện theo hướng giảm dần tỷ lệ tiêu dùng trong cơ cấu tích luỹ tiêu dùng, tăng khả năng tích luỹ đầu tư phát triển, bảo đảm mục tiêu vừa cải thiện mức sống của người dân và tăng khả năng tích luỹ để công nghiệp hoá. tổng tích luỹ bình quân trong thời kỳ 2001-2005 là 11,3%/năm. Tỷ lệ huy động ngân sách nhà nước năm 2005 là 24,4% tỷ lệ đầu tư GDP tăng nhanh năm 2005 huy động lên đến 38,9% GDP - Cải thiện tốt kết cấu hạ tầng giao thong, điện, thuỷ lợi thúc đẩy khă năng phát triển kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân Hệ thống giao thông vận tải đã được đầu tư phát triển, nâng cấp, mở rộnh và làm mới các tuyến giao thông huyểt mạch và trọng yếu bảo đảm thông suốt trong cả nước. Cho đến cuối năm 2005 tổng chiều dài quốc lộ trên cả nước là khoảng 17300km, tổng chiều dài đường sắt là khoảng 3400km tổng năng lực vận tải hành khách thông qua các sân bay khoảng trên 12 triệu hành khách năm Công suất nguồn điện tăng nhanh, hệ thống tải điện được xây dựng đồng bộ hoà trong mạng lưới tất các các vùng Bắc-Nam, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và sản xuất. cho đến nay tổng công suất nguồn điện vào khoảng 11440MW trong đó thuỷ điện chiếm 42,5% nhiệt điện chiếm 66,5% sản lượng điện thương phẩm năm 2005 vào khoảng gần 46 tỉ kwh Hệ thống thuỷ lợi tương đối hoàn chỉnh trên các vùng tẩo nhiều khả năng thâm canh tăng năng suất và chuyển đổi mùa vụ, cây trồng vật nuôi ở nông thôn...chỉ tính riêng trong 5 năm 2001-2005 năng lực tưới tạo nguồn nước tăng thêm 300.000ha, năng lực tiêu tăng 146000ha. Kết cấu hạ tầng ở nông thôn có nhiều cải thiện đến cuối năm 2005 trên 89,7% số xã có điện lưới; 94,2% có đường ôtô đến trung tân; 100% xã có điện thoại;83% số xã có trạm văn hoá; bưu điện; 99,45% số xã có trạm ytế;85,1% có lớp mẫu giáo;100% có trường tiểu học.. Cơ sở vật chất một số ngành như du lịch, bưu chính viễn thông, vận tải, tìa chính ngân hàng, bảo hiểm... phát triển nhanh Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ phát triển khá. Đã hoàn thiện thêm việc xoá mù chữ phổ cập giáo dục tiểu học trong cả nước và phổ cập giáo dục trung học cơ sở ở 31 tỉnh thành phố cơ sở vật chất cho giáo dục phát triển được tăng cường. Quy mô giáo dục tiếp tục được phát triển nội dung cho chương trình giảng dạy đã có nhiều đổi mới. Hoạt động khoa học và công gnhệ cũng có những bước chuyển mới đóng góp thiết thực cho sự nhgiệp đổi mới của đất nước không chỉ về mặt ứng dụng khoa học công nghẹ vào sản xuất, đời sống xã hội mà cả trên phương diện nâng cao đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ Thúc đẩy phát triển kinh tế đối ngoại, tăng khả năng hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Hoạt động kinh tế đối ngoại đã có bước phát triển mạnh mẽ đưa nước ta nhanh chóng hội nhập với khu vực đa phương hoá và đa dạng hoá mối quan hệ với các nước các tổ chức tài chính quốc tế Những kết quả nổi bật nhất trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại là mở rộng thị trường xuất khẩu ra các khu vực trên thế giới gia nhập khối ASEAN tham gia AFTA và APEC bình thường hoá quan hệ với Mĩ tích cực đàm phán để gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm tăng nhanh năm 2003 là 20.6%; năm 2004 là 31,5% năm 2005 là 20%. Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người tăng từ 166USD năm 2000 lên 390 USD năm 2005. Đến nay hàng hoá và dịch vụ của VN đã có mặt trên thị trường của 160 nước trên khắp châu lục đặc biệt là các nước EU, Hoa kỳ, Canada, một số mặt hàng đã có vị thế trên thị trường như: dầu thô, gạo, hàng thuỷ sản chế biến, cà phê, cao su, quần áo...năm 2005 gạo, cà phê, hạt điều tiếp tục đứng thứ 2 hạt tiêu đứng thứ nhất thế giới Thu hút vốn đầu tư nước ngoài có những bước phát triển quan trọng. Ước tính năm 2005 tổng số vốn đăng ký mới và bổ sung là 5.8 tỷ USD tăng 40,3% so với cùng kỳ năm 2004 vượt khá xa so với mục tiêu cả năm là 4,5 tỷ USD. Bước vào giai đoạn 2001-2005 trong bối cảnh dòng luôn chuyển vốn bị hạn chế và sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường vốn nhưng do môi trường đầu tư tiếp tục được cải thiệndo sửa đổi bổ sung các chính sách nên tổng số vốn đăng ý vượt mục tiêu đề ra Từ những kết quả, những thành công đạt được trong những năm qua thì chúng ta càng khẳng định việc phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là một đường lối đúng đắn là nhiệm vụ tất yếu của đảng và nhà nước ta 2.2.2 Những hạn chế khó khăn còn tồn tại trong nền kinh tế nước ta Bên cạnh những thành tựu to lớn mà nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã đóng góp được trong những năm qua thì nền kinh tế vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế như: quy mô còn khiêm tốn, cơ sở vật chất còn nghèo nàn, công nghệ lạc hậu, thông tin về thị trường còn hạn chế...cụ thể là: Một là, tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao nhưng tốc độ gia tăng công nghiệp của các ngành công nghiệp và xây dựng chưa đạt kế hoạch, chi phí sản xuất trong một số ngành tuy có xu hướng giảm song vẫn còn ở mức khá cao sức cạnh tranh của một số sản phẩm tuy được cải thiện nhưng vẫn còn yếu so với các nước trong khu vực. Tình hình trên đây cũng do sự tác động của giá cả vật tư đầu vào tăng ccao nhưng giá đầu ra không tăng tương ứng hoặc phải tạm thời kiềm chế tăng giá để ổn định kinh tế vĩ mô giảm thiểu tác động đến sản xuất. hai là, tuy cơ cấu kinh tế nước ta chuyển dịch theo giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp nhưng tỷ trọng dịch vụ trong GDP đã giảm trong 8 năm liên tục ngược với quy luật chung các ngành dịch vụ có tính chất động kực cần phát triển như: giáo dục, khoa học công nghệ, tài chính tín dụng, tỷ trọng rất thấp, kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn kinh doanh đất đai nhà ở chiếm tỷ trọng cao thứ 2 trong các ngành dịch vụ có thể nói tình trạng tăng nhanh các ngành dịch vụ kinh doanh đất đai nhà ở trong cơ cấu kinh tế không có lợi co phát triển kinh tế xã hội đất nước. Bài học Thái lan, Hàn quốc, đã chứng minh sự phát triển kinh doanh nhà đất làm cho giảm tăng trưởng kinh tế Ba là, xuất khẩu phải đối mặt với cạnh tranh gay gắt. Xuất khẩu đang đứng trước khó khăn thách thức lớn là chịu sức ép cạnh tranh rất lớn và phức tạp đặc biệt là những mặt hàng có thế mạnh của nước ta trong khu vực. Một số mặt hàng chủ lực có kim ngạch lớn đang gặp nhiều khó khăn về thị trường và khả năng cạnh tranh. Đối với nhã hàng dệt may phải chịu sự cạnh trạnh gay gắt của các thị trường EU và Hoa kỳ. Xuất khẩu thuỷ hải sản càng gặp nhiều khó khăn do giào cản về kỹ thuật, những quy định chặt chẽ về dư lượng kháng sinh của EU áp đặt thuế bán phá giá tôm và yêu cầu tiền đặt cọc cao của các doanh nghiệp nhập khẩu của Hoa kỳ đã gây nhiều trở ngại cho việc xuất khẩu thuỷ sản Tuy xuất khẩu đạt mức độ tăng trưởng cao, nhưng so với các nước trong khu vực thì kim ngạch xuất khẩu bình quân của người VN còn thấp: 379USD/người trong năm 2005, trong khi đó tại năm 2003 thì con số của Thái Lan, Malaixia lần lượt là: 1259 và 3976USD/người. Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu đã qua chế biến vẫn còn thấp tỷ trọng xuất khẩu hàng thô và sơ chế năm 2005 còn chiếm 51% trong tổng giá trị xuất khẩu Bốn là, năng lực cạnh tranh của VN còn yếu, thể hiện trên cả cấp độ quốc gia và cấp độ doanh nghiệp. Ở cấp độ quốc gia xếp hạng của diễn đàn kinh tế thế giới WEF trong năm 2005 là 81/117 so với 77/104 năm 2004. Mặc dù thứ hạng đã tăng nhưng VN vẫn còn xếp trong 40 nước có năng lực cạnh tranh thấp nhất thế giới. Ở cấp độ doanh nghiệp thị nhìn chung các doanh nghiệp nước ta có khoảng cách khá xa so với doanh nghiệp các nước trong khu vực xét theo các yếu tố: Giá cả, chất lượng, tổ chức tiêu thụ, cũng như uy tín thương hiệu. Nguyên nhân chủ yếu là do quy mô nhỏ doanh nghiệp có vốn trên 10 tỉ đồng chỉ chiếm khoảng 13-14% quy mô hoạt động bé tỉ lệ doanh nghiệp được coi là lớn chỉ có1,52% nếu xét theo tiêu chí lao động và 11,73% nếu theo tiêu chí xét năng lực công nghệ trình độ chuyên môn kỹ thuật còn yếu. Hầu hết doanh nghiệp VN mới chỉ dừng lại ở giai đoạn tiếp thu công nghệ một cách thụ động thông qua nhập khẩu máy móc và thiết bị cũ kỹ lạc hậu phần lớn giá trị máy móc chỉ còn lại 30% so với giá trị ban đầu và đã lạc hậu hơn 30 năm Năm là, tình trạng lãng phí thất thoát, tham nhũng trong việc sử dụng nguồn nhân lực tài chính nhà nước trong sử dụng đất đai, trong đầu tư xây dựng cơ bản, sự nhũng nhiễu gây phiền hà cho nhân dân khi phải tiếp xúc giải quyết công việc với các cơ quan công quyền...là những tồn tại lớn. Mặc dù chính phủ có nhiều giải pháp để kiểm tra, kiểm soát,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNguyên tắc khách quan với vấn đề xây dựng nền Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay.doc