MỤC LỤC:
A) LỜI MỞ ĐẦU 1
B) NỘI DUNG 1
I) Nội dung nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự. 1
1. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc đưa ra yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự. 1
2. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu và thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự. 3
3. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc lựa chọn người đại diện, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình và kháng cáo bản án quyết định của Tòa án. 5
4. Trách nhiêm của Tòa án trong việc bảo đảm nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự. 6
II) Một số kiến nghị nhằm bảo đảm việc thực hiện nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự. 7
1. Về xây dựng và hoàn thiện pháp luật. 7
2. Nâng cao năng lực xét xử của Thẩm phán và đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật. 8
C) KẾT LUẬN 8
10 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3322 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự và kiến nghị nhằm đảm bảo thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC:
LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với sự phát triển của đất nước, hệ thống pháp luật của nước ta ngày càng được hoàn thiện để đảm bảo sự nghiêm minh, chuẩn xác và tối thượng của quyền lực Nhà nước trên cơ sở tôn trọng và đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa và các quyền cơ bản của con người. Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự là một trong những quyên tắc cơ bản của tố tụng dân sự. Bài viết sau đây sẽ tìm hiểu về nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự, từ đó đưa ra một số các kiến nghị nhằm đảm bảo thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự.
B) NỘI DUNG
I) Nội dung nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự.
1. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc đưa ra yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự.
1.1. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự.
Thứ nhất, về quyền tự định đoạt của đương sự trong việc khởi kiện vụ án dân sự. Tại Điều 161 BLTTDS quy định: “cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án dân sự (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình”. Và theo Điều 162 BLTTDS thì: “cơ quan về dân số, gia đình và trẻ em, hội liên hiệp phụ nữ … Công đoàn cấp trên của công đoàn cơ sở có quyền khởi kiện vụ án lao động trong trường hợp cần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể người lao động do pháp luật quy định. Cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách”.
Thứ hai, về quyền tự định đoạt trong việc yêu cầu giải quyết việc dân sự. Người yêu cầu trong việc dân sự là người tham gia tố tụng đưa ra yêu cầu về giải quyết việc dân sự. việc tham gia tố tụng của người yêu cầu trong việc dân sự cũng chủ động như nguyên đơn trong vụ án dân sự. Người yêu cầu trong vụ việc dân sự có lợi ích hợp pháp lý độc lập nên được đưa ra yêu cầu cho Tòa án giải quyết như nguyên đơn trong vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên yêu cầu của họ chỉ giới hạn trong phạm vi yêu cầu Tòa án công nhận hay không công nhận một sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quyền, nghĩa vụ của họ hoặc công nhận quyền, nghĩa vụ của họ. Quyền yêu cầu giải quyết việc dân sự là một trong những quyền cơ bản của đương sự trong tố tụng dân sự. Việc BLTTDS ghi nhận quyền này của đương sự đã góp phần thể hiện việc thực thi nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự trên thực tế.
Với việc khởi kiện, yêu cầu giải quyết việc dân sự kịp thời, các quyền và lợi ích hợp pháp được bảo vệ, thiệt hại sớm được khắc phục, ngăn chặn và chấm dứt được hành vi trái pháp luật.
1.2. Quyền tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu phản tố của bị đơn.
Về quyền yêu cầu phản tố, nếu như nguyên đơn có quyền quyết định việc khởi kiện và nội dung khởi kiện thì bị đơn cũng có quyền đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn. Trong tố tụng dân sự, phản tố được hiểu là việc bị đơn khởi kiện ngượi lại nguyên đơn về một quan hệ pháp luật khác với quan hệ pháp luật nguyên đơn đã khởi kiện. BLTTDS năm 2004 đã dành một số điều quy định cụ thể về quyền phản tố của bị đơn trong tố tụng dân sự, cụ thể tại điểm c khoản 1 Điều 60 BLTTDS quy định bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn nếu có liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn hoặc đề nghị bù trừ đối với nghĩa vụ của nguyên đơn. Ngoài ra, BLTTDS cũng quy định cho bị đơn có quyền bác bỏ yêu cầu của nguyên đơn. Sự bác bỏ yêu cầu về mặt tố tụng là sự lý giải và chứng minh của bị đơn về tính không hợp pháp của việc giải quyết vụ án hoặc là về sự vi phạm thủ tục trong việc thụ lý và giải quyết vụ án. Với việc quy định quyền phản tố, quyền bác bỏ của bị đơn đối với yêu cầu của nguyên đơn là thể hiện sự ghi nhận của pháp luật đối với quyền tự định đoạt của đương sự.
1.3. Quyền tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Theo quy định tại Điều 177 BLTTDS thì trong trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không tham gia tố tụng với bên nguyên đơn hoặc với bên bị đơn thì họ có quyền yêu cầu độc lập khi có các điều kiện sau đây: việc giải quyết vụ án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ liên quan của họ; yêu cầu độc lập của họ có liên quan đến vụ án đang được giải quyết và yêu cầu độc lập của họ được giải quyết trong cùng một vụ án làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn. Đối với người có liên quan trong việc dân sự là người tham gia tố tụng vào việc dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc trả lời về những vấn đề liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ. Việc tham gia tố tụng của họ cũng giống như việc tham gia tố tụng của người có liên quan trong vụ án dân sự có thể do họ chủ động hoặc theo yêu cầu của đương sự hoặc theo yêu cầu của Tòa án.
2. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu và thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự.
2.1 Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thay đổi, bổ sung và rút yêu cầu.
Tùy thuộc vào từng giai đoạn tố tụng mà việc thay đổi, bổ sung yêu cầu có thể được Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận. Trước khi mở phiên tòa thì quyền này là quyền tuyệt đối của đương sự, theo đó đương sự có thể thay đổi, bổ sung yêu cầu tùy ý. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 218 BLTTDS thì tại phiên tòa việc thay đổi yêu cầu chỉ được chấp nhận nếu không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu.
Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bị giới hạn là không được vượt quá so với phạm vi yêu cầu ban đầu. Mục 6, phần III Nghị quyết số 02/2006/NQ – HĐTP ngày 12 tháng 5 năm 2006 hướng dẫn thi hành các quy định trong phần thứ hai: “ Thủ tục giải quyết vụ án tại tòa án cấp sơ thẩm” của BLTTDS quy định “ Việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự tại phiên tòa chỉ được Hội đồng xét xử chấp nhận nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu được thể hiện trong đơn khởi kiện của nguyên đơn, đơn phản tố của bị đơn, đơn yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan…”.
Nguyên đơn có thể rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện ( điểm b khoản 1 Điều 59 BLTTDS). Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, trong trường hợp nguyên đơn rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của mình và việc rút đơn yêu cầu đó là tự nguyện thì Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu hoặc toàn bộ yêu cầu nguyên đớn đó rút ( khoản 2 Điều 218 BLTTDS ). Trong trường hợp nguyền đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện, nhưng bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu phản tố của mình thì bị đơn trở thành nguyên đơn và nguyên đơn trở thành bị đơn; nếu nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện và bị đơn rút toàn bộ yêu cầu phản tố, mà người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vẫn giữ nguyên yêu cầu độc lập của mình thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trở thành nguyên đơn, người có nghĩa vụ đối với yêu cầu độc lập trở thành bị đơn ( Điều 219 BLTTDS ).
Trường hợp nguyên đơn, người yêu cầu rút đơn khởi kiện, đơn yêu cầu trước khi mở phiên tòa, phiên họp giải quyết việc dân sự thì để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho cả hai bên đương sự. Điều 269 BLTTDS quy định Hội đồng xét xử phúc thẩm phải hỏi bị đơn có đồng ý hay không và tùy từng trường hợp mà giải quyết. Nếu bị đơn, không đồng ý thì không chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn, nếu bị đơn đồng ý thì chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn, ra quyết định hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án
2.2. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thỏa thuận giải quyết vụ việc dân sự.
Điểm a khoản 2 Điều 180 BLTTDS quy định việc hòa giải phải được tiến hành theo nguyên tắc sau: “ Tôn trọng sử tự nguyện thỏa thuận của các đương sự… Không được dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, bắt buộc các đương sự phải thỏa thuận không phù hợp với ý chí của mình”. Cơ sở của hòa giải là quyền tự định đoạt của đương sự. Điều 10 BLTTDS quy định: “ Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này”.
Nguyên tắc quyền định đoạt của đương sự trong việc hòa giả còn thể hiện ở quyền tự thỏa thuận của đương sự.
Điểm d khoản 1 Điều 192 BLTTDS, Điều 220 BLTTDS, quy định về các trường hợp tòa án công nhận sự thỏa thuận của các bên ( ở phiên tòa sơ thẩm ) để ra các quyết định: đình chỉ giả quyết vụ án, công nhận sự thỏa thuận của đương sự. ( Ngoài ra nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự còn được thể hiện tại giai đoạn phúc thẩm thể hiện ở việc hội đồng xét xử ra bản án phúc thẩm, sửa bản án sơ thẩm, công nhận thỏa thuận của các đương sự ).
Như vậy, với ý nghĩa cơ bản là một nội dung của quyền tự định đoạt của đương sự, quyền thỏa thuận giải quyết vụ việc của đương sự là một quyền tố tụng rất quan trọng của đương sự được thực hiện ở tất cả các giai đoạn sơ thẩm, phúc thẩm, trừ trường hợp BLTTDS quy định không được tiến hành hòa giải.
3. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc lựa chọn người đại diện, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình và kháng cáo bản án quyết định của Tòa án.
3.1. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc lựa chon người đại diên, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Để bảo về quyền, lợi ích hơp pháp của mình, các đương sự tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng của họ hoặc đương sự có thể ủy quyền cho người khác thay mình tham gia tố tụng. Người này được gọi là người đại diện theo ủy quyền của đương sự. Tuy vậy, do tính chất, yêu cầu của việc giải quyết vụ việc dân sự sau khi ủy quyền cho người đại diện đương sự vẫn có quyền tham gia tố tụng để bổ sung cho hoạt động của người đại diện. Việc cử người đại diện theo sự ủy quyền này, hoàn toàn dựa trên sự tự định đoạt của đương sự.
Theo điều 63 BLTTDS để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình được sự có quyền mời luật sư hoặc người khác được Tòa án chấp nhận tham gia tố tụng. Quyền nhờ người khác bảo vệ lợi ích hợp pháp cho mình là biểu hiện nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự được pháp luật tôn trọng. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tham gia tố tụng theo yêu cầu của đương sự nên việc thay đổi, chấm dứt việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự do hai bên quyết định. Đây cũng là một quy định thể hiện rất rõ việc thực thi nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự.
3.2.Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc kháng cáo bảo án, quyết định của tòa án.
Quyền kháng cáo là một quyền tố tụng cơ bản của đương sự được quy định tại điểm c khoản 2 điều 58 BLTTDS. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật thì đương sự được tự thực hiện quyền này nên theo nghĩa rộng quyền kháng cáo cũng thuộc quyền tự định đoạt của đương sự.
Ngoài việc quy định đương sự có quyền kháng cáo thì pháp luật cũng quy định đương sự có quyền thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo. Theo quy định tại khoản 1 điều 256 BLTTDS thì đương sự có quyền thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo trước khi thay đổi phiên tòa hoặc tại phiên tòa nhưng không được vượt quá phạm vi kháng cáo ban đầu, nếu thời hạn kháng cáo đã hết và Tòa án cấp phúc thẩm sẽ ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với những phần rút kháng cáo.
4. Trách nhiêm của Tòa án trong việc bảo đảm nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự.
Điều 5 BLTTDS quy định “…Toà án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó”. Quy định này có nghĩa là Tòa án chỉ được quyền thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn kiện, yêu cầu của đương sự.
Tránh nhiệm của tòa án trong việc đảm bảo nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dấn sự còn được biểu hiện ở phương diện. Tòa án chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, yêu cầu đó. Đây là quy định xác định cụ thể về trách nhiệm của Tòa án trong việc đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự.
Theo quy định của BLTTDS các đương sự có quyền tự định đoạt quyền và lợi ích hợp pháp và việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình khi tham gia tố tụng. Đây là những quyền rất cơ bản của đương sự tạo điều kiện cho đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước tòa án. Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho việc thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự. Hơn nữa, những quy định của BLTTDS đã đảm bảo cho việc thực thi nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trên thực tế.
II) Một số kiến nghị nhằm bảo đảm việc thực hiện nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự.
Về xây dựng và hoàn thiện pháp luật.
Một là, sửa đổi, bổ sung các quy định về khái niệm đương sự trong vụ việc dân sự. đương sự là chủ thể chính của các vụ việc dân sự. BLTTDS mới chỉ quy định đương sự trong vụ án dân sự, chưa có quy định về đương sự trong việc dân sự. Do đó, yêu cầu đặt ra hiện nay là cần phải sửa đổi, bổ sung Điều 56 BLTTDS theo hướng quy định bổ sung các đương sự trong việc dân sự cũng như quy định các quyền, nghĩa vụ tố tụng của họ như các đương sự trong vụ án dân sự.
Hai là, quy định rõ sự khác biệt về địa vị tố tụng của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập so với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập bởi khi tham gia tố tụng với những người có quyền và nghĩa vụ tố tụng khác nhau thì vai trò của các chủ thể sẽ khác nhau.
Ba là, sửa đổi, bổ sung quy định về trình tự, thủ tục giải quyết các vụ án dân sự và trình tự, thủ tục giải quyết các việc dân sự.
Bốn là, cần quy định bổ sung thời điểm bị đơn thực hiện quyền phản tố trước phiên tòa. Mặt khác cần quy định nguyên đơn có quyền thay đổi, bổ sung, yêu cầu khởi kiện, bị đơn có quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu của mình ở mọi giai đoạn tố tụng.
2. Nâng cao năng lực xét xử của Thẩm phán và đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật.
Thứ nhất, về hệ thống tổ chức Tòa án, cần sớm được thực hiện theo mô hình tổ chức theo cấp xét xử theo tinh thần chỉ đạo của Nghị quyết số 49 – NQTW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 để tạo điều kiện cho Tòa án độc lập xét xử, tập trung được đội ngũ cán bộ nhằm khắc phục tình trạng Thẩm phán phải làm việc quá tải, phải chịu nhiều áp lực lớn còn có nơi thẩm phán lại giải quyết rất ít sự việc như hiện nay. Do đó cần phải tổ chức lại hệ thống Tòa án theo cấp xét xử.
Thứ hai, về đội ngũ cán bộ Tòa án cần tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao năng lực xét xử; tăng cường công tác quản lý, giáo dục chính trị, phẩm chất đạo đức của cán bộ xét xử cho các Thẩm phán và các chức danh tư pháp khác để tránh được những tác động tiêu cực của xã hội, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Thứ ba, cần đẩy mạnh việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật. Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự có thực sự phát huy được hiệu quả hay không, phụ thuộc phần lớn vào sự hiểu biết về pháp luật của đương sự.
KẾT LUẬN
Quyền tự định đoạt của đương sự là quyền của đương sự trong việc tự quyết định về quyền, lợi ích của họ và lựa chọn biện pháp pháp lý cần thiệt để bảo vệ quyền, lợi ích đó. Là một vấn đề cơ bản của tố tụng dân sự, chi phối quá trình tố tụng dân sự nên quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự được quy định là một nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng dân sự. Qua bài phân tích trên, sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về quyền tự định đoạt của đương sự, góp phần nào đó vào việc hoàn thiện hơn các quy định về quyền tự định đoạt của đương sự.
Danh mục tài liệu tham khảo:
Giáo trình Luật Tố Tụng Dân Sự Việt Nam ( Trường Đại Học Luật Hà Nội – Nhà xuất bản Tư Pháp ).
Bộ Luật Tố Tụng Dân Sự năm 2005
Nghị quyết số 02/2006/NQ – HĐTP ngày 12 tháng 5 năm 2006 hướng dẫn thi hành các quy định trong phần thứ hai: “ Thủ tục giải quyết vụ án tại tòa án cấp sơ thẩm” của BLTTDS
Nghị quyết số 49 – NQTW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự ( Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 1997 )
Những nguyên tắc tố tụng dân sự đặc trưng trong Bộ luật tố tụng dân sự ( TS Nguyễn Ngọc Khánh, Tạp chí Kiểm sát, số 01/2005 ).
Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự ( Khóa Luận tốt nghiệp, trường Đại Học Luật Hà Nội, năm 1997 – Lương Bạch Đằng )
Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong Bộ Luật tố tụng dân sự ( Th.S Lê Minh Hải, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 04/2009 ).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự và kiến nghị nhằm đảm bảo thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự.doc