Tiểu luận Nguyên tắc tập trung dân chủ và ý nghĩa của nó trong quản lí hành chính nhà nước

MỤC LỤC

Mở đầu 1

Nội dung chính 1

1. Phân tích nguyên tắc tập trung dân chủ.

1.1 Khái niệm và đặc điểm về các nguyên tắc cơ bản trong quản lý hành chính nhà nước. 1

a. Khái niệm 1

b. Đặc điểm 1

1.2 Hệ thống các nguyên tắc cơ bản trong quản lý hành chính nhà nước. 2

1.3 Nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước 3

a. Cơ sở pháp lý 3

b. Biểu hiện 3

2. Ý nghĩa của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay 8

Kết luận 10

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 11

 

 

doc12 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4568 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Nguyên tắc tập trung dân chủ và ý nghĩa của nó trong quản lí hành chính nhà nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Mở đầu Vấn đề tập trung – dân chủ trong quản lí hành chính, việc áp dụng nguyên tắc tập trung – dân chủ và các biểu hiện của nguyên tắc đó như thế nào trong tổ chức và hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước, trong từng loại cơ quan quản lý cũng như trong mỗi cơ đang nhận được rất nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu cũng như mỗi người dân Việt Nam. Việc áp dụng đó, sao cho hai mặt tập trung và dân chủ kết hợp một cách hợp lí, tối ưu phù hợp bản chất, đặc thù của vị trí, chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan và từng vấn đề mà nó giải quyết ở từng thời điểm lịch sử cụ thể, luôn luôn là vấn đề cấp bách cuả khoa học lý luận quản lý nhà nước và luật hành chính. Trong bài viết, xin đi sâu phân tích nguyên tắc tập trung dân chủ và ý nghĩa của nó trong quản lí hành chính nhà nước. Nội dung chính 1. Phân tích nguyên tắc tập trung dân chủ. 1.1 Khái niệm và đặc điểm về các nguyên tắc cơ bản trong quản lý hành chính nhà nước. Khái niệm Trong khoa học pháp lý, các nguyên tắc trong quản lý hành chính nhà nước được xác định là những tư tưởng chủ đạo bắt nguồn từ cơ sở khoa học của hoạt động quản lý, từ bản chất của chế độ, được quy định trong pháp luật, làm nền tảng cho tổ chức và hoạt động quản lý hành chính Nhà nước. Dưới góc độ luật hành chính, nguyên tắc trong quản lý hành chính nhà nước được hiểu là tổng thể các quy phạm pháp luật hành chính có nội dung là những tư tưởng chủ đạo làm cơ sở để tổ chức thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Đặc điểm. Các nguyên tắc cơ bản trong quản lý hành chính nhà nước đều mang tính pháp lý được ghi nhận trong các văn bản pháp luật nhưng ở những mức độ khác nhau. Các nguyên tắc trong quản lý hành chính nhà nước mang tính khách quan và khoa học. Các nguyên tắc này đều xuất phát từ thực tiễn khách quan, được xây dựng và ban hành phù hợp với quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh lịch sử của đất nước ta ở mỗi thời kỳ trong từng giai đoạn nên nó mang tính khách quan. Những nguyên tắc được ban hành xuất phát từ thực tiễn quản lý nhà nước, từ khả năng nhận thức được tổ chức khoa học hợp lý nên nó mang tính khoa học. Các nguyên tắc này đều mang tính ổn định tương đối giúp cho các chủ thể quản lý vận dụng linh hoạt, sáng tạo, chủ động, phù hợp với điều kiện quản lý hành chính Nhà nước. Nó còn mang tính chính trị, phù hợp với bản chất nhà nước, với lợi ích của người dân và mang tính hệ thống, thống nhất. Hệ thống các nguyên tắc cơ bản trong quản lý hành chính nhà nước. Các nguyên tắc trong quản lý hành chính nhà nước thường được phân chia thành hai nhóm: các nguyên tắc chính trị - xã hội và các nguyên tắc tổ chức – kĩ thuật. Các nguyên tắc chính trị - xã hội là các nguyên tắc chung, được quán triệt trong toàn bộ tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước trong đó có hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Đây là các nguyên tắc thể hiện sâu sắc bản chất giai cấp của nhà nước. Nhóm này bao gồm các nguyên tắc cơ bản sau: nguyên tắc Đảng lãnh đạo trong quản lý hành chính nhà nước; nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính nhà nước; nguyên tắc tập trung dân chủ; nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc; nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các nguyên tắc tổ chức – kĩ thuật là những nguyên tắc mang tính đặc thù cho hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Nội dung của những nguyên tắc này chi phối các yếu tố mang tính chất kĩ thuật của hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Nhóm nguyên tắc này gồm nhiều nguyên tắc khác nhau, trong đó có: nguyên tắc quản lý theo ngành, chức năng kết hợp với quản lý theo địa phương; nguyên tắc quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo chức năng và phối hợp quản lý liên ngành. Việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức – kĩ thuật là để thực hiện một cách đúng đắn các nguyên tắc chính trị - xã hội và việc thực hiện các nguyên tắc chính trị - xã hội là cơ sở để thực hiện các nguyên tắc tổ chức – kĩ thuật. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước. Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc quản lý quy định trước hết là sự lãnh đạo tập trung, nhưng không phải là tập trung toàn diện và tuyệt đối mà chỉ đối với những vấn đề cơ bản, chính yếu nhất, bản chất nhất. Sự tập trung đó bảo đảm cho cơ quan cấp dưới, quần chúng ở địa phương và cơ sở khả năng thực hiện quyết định của trung ương căn cứ vào các điều kiện thực tế của mình đồng thời bảm đảm tính sáng tạo, quyền chủ động của địa phương và cơ sở trong việc giải quyết các vấn đề của địa phương và cơ sở. a.Cơ sở pháp lý Nguyên tắc tập trung – dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước và hoạt động quản lý hành chính nhà nước cũng được tổ chức thực hiện trên cơ sở tuân thủ nội dung của nguyên tắc này. Nguyên tắc tập trung dân chủ được quy định ở Điều 6 Hiến pháp 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001: “Quốc hội, hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ”. Tập trung dân chủ trong quản lý kinh tế, theo Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI, được thể hiện trong phân cấp quản lý là: “phải bảo đảm quyền làm chủ của ba cấp: quyền quyết định của trung ương (bao gồm cả các ngành trung ương) đối với những lĩnh vực then chốt, những vấn đề có ý nghĩa chiến lược, bảo đảm cho sự phát triển cân đối của toàn bộ nền kinh tế; quyền chủ động của địa phương trong việc thực hiện trách nhiệm quản lý kinh tế - xã hội trên địa bàn lãnh thổ; quyền tự chủ sản xuất – kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở và vai trò làm chủ tập thể lao động”. Ngoài ra, nguyên tắc tập trung dân chủ còn xuất phát từ sự tác động của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý. Và nguyên tắc này còn nhằm hạn chế, khắc phục kịp thời những khiếm khuyết còn tồn tại trong tổ chức quản lý. Có tập trung quyền lực mới điều khiển được xã hội, mới thiết lập được một trật tự xã hội nhất định. Vì vậy, trong xã hội có giai cấp, quyền lực Nhà nước tập trung vào nhà nước. Đối với Nhà nước bóc lột thì sự tập trung này độc đoán, chuyên quyền (đặc biệt đối với nhà nước theo chế độ chuyên chế). Còn Nhà nước xã hội chủ nghĩa nói chung còn đối với Nhà nước cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng thì tập trung quyền lực là cần thiết, tuy nhiên phải dân chủ với nhân dân vì Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Tập trung dân chủ là hai vấn đề của một mặt thống nhất kết hợp hài hòa với nhau. Nếu thiên về tập trung thì sẽ dẫn đến độc quyền quan liêu, độc đoán trái bản chất của Nhà nước ta. Ngược lại, nếu thiên về dân chủ, coi nhẹ tập trung sẽ dẫn đến tập trung quá lớn làm cho hoạt động của bộ máy kém hiệu quả. b.Biểu hiện. Nguyên tắc tập trung – dân chủ bao hàm sự kết hợp giữa hai yếu tố tập trung và dân chủ.Nghĩa là vừa đảm bảo sự lãnh đạo tập trung trên cơ sở dân chủ; vừa đảm bảo mở rộng dân chủ dưới sự lãnh đạo tập trung. Trong quản lý hành chính nhà nước, tập trung nhằm đảm bảo thâu tóm quyền lực nhà nước vào chủ thể quản lý để điều hành, chỉ đạo việc thực hiện chính sách, pháp luật một cách thống nhất. Trong khi đó, dân chủ hướng tới việc mở rộng hoạt động quản lý, phát huy khả năng tiềm tàng của đối tượng quản lí trong quá trình thực hiện chính sách, pháp luật. Cần phải có sự phối hợp một cách đồng bộ, chặt chẽ việc đảm bảo cả hai yếu tố này trong quản lí hành chính nhà nước. Nếu chỉ có sự lãnh đạo tập trung mà không mở rộng dân chủ thì sẽ tạo điều kiện cho các hành vi lạm quyền, tệ quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng phát triển. Ngược lại, không có sự lãnh đạo tập trung thống nhất sẽ dẫn đến tình trạng tùy tiện, vô chính phủ, cục bộ địa phương. Trong điều kiện hiện nay, sự lãnh đạo tập trung trên cơ sở dân chủ là yêu cầu khách quan của việc “thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” (Điều 15 Hiến pháp năm 1992). Nguyên tắc tập trung dân chủ có biểu hiện rất phong phú và đa dạng trong quản lý hành chính nhà nước. Cụ thể: Sự phụ thuộc của cơ quan hành chính nhà nước vào cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp Điều 6 Hiến pháp 1992 quy định: “Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân”. Theo đó, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua hệ thống các cơ quan quyền lực nhà nước do chính họ bầu ra để thay mặt họ trực tiếp thực hiện quyền lực đó. Để thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, một hệ thống cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương tới địa phương đã được hình thành. Trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước luôn có sự phụ thuộc vào các cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp. Cơ quan quyền lực nhà nước có những quyền hạn nhất định trong việc thành lập, sáp nhập hay giải thể các cơ quan hành chính nhà nước ở cùng cấp. Ở trung ương, Quốc hội thành lập ra Chính phủ và trao cho nó quyền hành pháp. Ở địa phương, các ủy ban nhân dân do hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra và thực hiện hoạt động quản lí hành chính nhà nước ở địa phương. Các cơ quan khác trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước (như bộ, cơ quan ngang bộ,…) đều do cơ quan quyền lực nhà nước trực tiếp hay gián tiếp quyết định việc thành lập, thay đổi hay bãi bỏ. Trong hoạt động, các cơ quan hành chính nhà nước luôn chịu sự chỉ đạo, giám sát của hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước và chịu trách nhiệm báo cáo hoạt động của mình trước cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp. Tất cả sự phụ thuộc này nhằm đảm bảo cho hoạt động của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước phù hợp với ý chí, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân lao động. Đồng thời đó chính là việc đảm bảo tập trung quyền lực vào hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước – cơ quan do dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Bên cạnh đó yếu tố dân chủ thể hiện rõ nét trong việc cơ quan quyền lực nhà nước trao quyền chủ động sáng tạo cho các cơ quan hành chính nhà nước trong việc chỉ đạo thực hiện hiến pháp, luật và các văn bản khác của cơ quan quyền lực nhà nước. Các cơ quan quyền lực nhà nước không can thiệp vào hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước mà tạo điều kiện thuận lợi cần thiết để các cơ quan này hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của mình là quản lí hành chính nhà nước trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Sự phục tùng của cấp dưới đối với cấp trên, địa phương đối với trung ương Sự phục tùng của cấp dưới đối với cấp trên, địa phương đối với trung ương biểu hiện ở phương diện tổ chức cũng như hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước. Tất cả các yêu cầu, mệnh lệnh do cấp trên và trung ương đưa ra cấp dưới và địa phương có nghĩa vụ phải thực hiện. Sự phục tùng ở đây là sự phục tùng những mệnh lệnh hợp pháp trên cơ sở quy định của pháp luật. Đồng thời, cấp trên, trung ương cũng phải tôn trọng ý kiến của cấp dưới, địa phương về công tác tổ chức, hoạt động và về các vấn đề khác của quản lí hành chính nhà nước; phải tạo mọi điều kiện để cấp dưới, địa phương phát huy sự chủ động, sáng tạo nhằm huy động mọi khả năng về trí tuệ, lao động,… để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Sự phục tùng của cấp dưới đối với cấp trên, của địa phương đối với trung ương đảm bảo cho cấp trên, trung ương tập trung quyền lực để chỉ đạo, giám sát hoạt động của cấp dưới, địa phương. Sự phục tùng này nhằm tạo ra sự quản lí tập trung, thống nhất và đạt hiệu quả cao nhất trong quản lý hành chính nhà nước. Sự phục tùng này còn nhằm khắc phục tình trạng quan liêu, áp đặt ý chí, làm mất đi tính chủ động sáng tạo, tự chịu trách nhiệm của địa phương và cấp dưới. Thiếu sự phục tùng đó sẽ dẫn đến việc buông lỏng sự lãnh đạo, quản lí tập trung của trung ương và cấp trên, làm nảy sinh tình trạng tùy tiện, vô chính phủ, cục bộ địa phương. Việc phân cấp quản lí Phân cấp quản lí là sự chuyển giao thẩm quyền từ cấp trên xuống cấp dưới nhằm đạt được một cách có hiệu quả mục tiêu chung của hoạt động quản lí hành chính nhà nước. Khi tiến hành phân cấp quản lí, đã có sự phân định rõ chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn của các cấp trong bộ máy hành chính nhà nước. Mỗi cấp quản lí có những mục tiêu, nhiệm vụ, thẩm quyền và những phương tiện cần thiết để thực hiện tốt những mục tiêu, nhiệm vụ của cấp mình. Trong phạm vi thẩm quyền được giao mỗi cấp quản lí được phép tiến hành những hoạt động nhất định nhằm phát huy tính năng động sáng taọ của mình. Phân cấp quản lí là một biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ. Tuy nhiên, việc phân cấp quản lí cần đảm bảo những yêu cầu sau: Việc phân cấp quản lí phải đảm bảo cho trung ương có quyền quyết định trong những lĩnh vực then chốt, những vấn đề có ý nghĩa chiến lược nhằm đảm bảo sự phát triển cân đối và hài hòa của toàn xã hội, bảo đảm sự quản lí tập trung và thống nhất của Nhà nước trong phạm vi toàn quốc. Mạnh dạn giao quyền cho các địa phương, các đơn vị cơ sở để phát huy tính chủ động tích cực và sáng tạo trong quản lí, tích cực phát huy sức người, sức của, đẩy mạnh sản xuất và phục vụ đời sống, trên cơ sở đó hoàn thành mọi nhiệm vụ được trung ương và cấp trên giao phó. Mạnh dạn phân cấp cho địa phương và cơ sở là biện pháp đảm bảo tập trung, tránh cho trung ương và cấp trên phải ôm đồm các công việc mang tính sự vụ thuộc về chức trách của địa phương và cơ sở. Việc phân cấp quản lí phải thật cụ thể, rõ ràng, hợp lí trên cơ sở những quy định của pháp luật, phù hợp với thực tế cuộc sống. Hạn chế tình trạng cấp trên gom quá nhiều việc, khi không làm xuể công việc ấy thì giao lại cho cấp dưới. Phân cấp quản lý phải xác định chức năng cơ quan. Mỗi loại việc chỉ được thực hiện bởi một cấp cơ quan, hoặc một vài cấp cơ quan. Cấp trên không phải lúc nào cũng thực hiện được một số chức năng một cách có hiệu quả như cấp dưới. Sự phân cấp phải được thực hiện bằng văn bản đúng pháp luật trong đó xác định rõ trách nhiệm của các cấp. Có cơ chế kiểm tra rõ ràng và xử lí nghiêm minh, kịp thời khi có vi phạm. Hướng về cơ sở Hướng về cơ sở chính là việc các cơ quan hành chính nhà nước mở rộng dân chủ trên cơ sở quản lí tập trung đối với hoạt động của toàn bộ hệ thống các đơn vị kinh tế, văn hóa – xã hội trực thuộc. Các đơn vị đó, trước hết là những tế bảo của nền kinh tế quốc dân, nơi trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, được Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu các tài sản hợp pháp, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, đồng thời cũng được Nhà nước hướng dẫn, giúp đỡ về vật chất, tinh thần. Các đơn vị văn hóa – xã hội của hệ thống các đơn vị cơ sở luôn được Nhà nước quan tâm, cung cấp những trang thiết bị cần thiết để hoạt động, giúp đỡ về vật chất, tinh thần nhằm tạo ra những điều kiện tốt nhất để các đơn vị này hoạt động có hiệu quả. Nhà nước cũng có các chính sách và biện pháp quản lí một cách thống nhất và chặt chẽ tổ chức và hoạt động của hệ thống các đơn vị cơ sở. Từ đó thúc đẩy mọi hoạt động của các đơn vị kinh tế, văn hóa – xã hội phát triển một cách mạnh mẽ theo đúng định hướng của Nhà nước. Sự phụ thuộc hai chiều của các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương đều được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc phụ thuộc hai chiều. Sự phụ thuộc này thể hiện ở cả hai mặt tổ chức và hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương và được pháp luật quy định một cách cụ thể. Ở địa phương, ủy ban nhân dân các cấp trước hết phụ thuộc vào hội đồng nhân dân cùng cấp (mối phụ thuộc ngang). Đồng thời chúng còn phụ thuộc vào cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung ở cấp trên trực tiếp (mối phụ thuộc dọc). Mối phụ thuộc ngang tạo điều kiện cần thiết cho cấp dưới phát huy dân chủ, phát huy thế mạnh của địa phương để hoàn thành nhiệm vụ mà cấp trên đã giao phó. Mối phụ thuộc dọc giúp cho cấp trên có thể tập trung quyền lực nhà nước để chỉ đạo hoạt động của cấp dưới, tạo nên một hoạt động chung thống nhất. Nguyên tắc phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương nhằm đảm bảo sự thống nhất giữa lợi ích chung của cả nước với lợi ích của địa phương, giữa lợi ích ngành với lợi ích vùng lãnh thổ. Nguyên tắc tập trung dân chủ không chỉ bác bỏ tình trạng lạm của cấp dưới mà cả thực tế cơ quan cấp trên “làm thay”, “lấn sân” vào thẩm quyền cơ quan cấp dưới đồng thời cũng phủ định việc cơ quan cấp dưới ỷ lại, đùn đẩy công việc cho cấp trên và khuyến khích cấp dưới tham gia vào việc giải quyết vấn đề chung thuộc thẩm quyền cấp trên, đề xuất những kiến nghị hợp lý để giải quyết chúng. Ý nghĩa của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay Nguyên tắc tập trung dân chủ thể hiện bản chất của nhà nước pháp quyền xã hôi chủ nghĩa, thể hiện sự thống nhất về cơ cấu tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Trước hết cần khẳng định rằng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước kiểu mới được xây dựng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là một Nhà nước đại đoàn kết toàn dân, dựa trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định : "Nước ta là một nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích là vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều là của dân, chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương đều do dân cử". Cương lĩnh Đảng Cộng sản Việt Nam và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đều khẳng định : "Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân". Nhà nước pháp quyền, nói một cách khái quát là hệ thống các tư tưởng, quan điểm đề cao pháp luật, pháp chế trong tổ chức, hoạt động của bộ máy Nhà nước và trong đời sống xã hội. Nhà nước pháp quyền là Nhà nước quản lý xã hội theo pháp luật và đề cao quyền của con người, quyền của công dân. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là cách thức cơ bản để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm mọi quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Đó là Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế, xử lý nghisêm minh, kịp thời mọi vi phạm pháp luật nhằm thực hiện và bảo vệ các quyền tự do dân chủ và lợi ích hợp pháp của công dân, ngăn ngừa mọi sự tùy tiện lạm quyền từ phía cơ quan Nhà nước và cán bộ viên chức Nhà nước, ngăn ngừa hiện tượng dân chủ cực đoan, vô kỷ luật kỷ cương, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Đó là Nhà nước mà tất cả các cơ quan Nhà nước, các tổ chức, kể cả tổ chức Đảng đều phải hoạt động theo pháp luật, tuân thủ pháp luật, chịu trách nhiệm trước nhân dân về các hoạt động của mình. Mọi công dân đều có nghĩa vụ chấp hành hiến pháp và pháp luật, phải sống và làm việc theo pháp luật. Quyền lực Nhà nước ở nước ta là quyền lực Nhà nước thống nhất. Đó là sự thống nhất ở mục tiêu chung phục vụ lợi ích của nhân dân, của đất nước, của dân tộc. Xét theo thể chế tổ chức thì quyền lực Nhà nước tập trung vào những cơ quan đại diện cho nhân dân, do tuyệt đại đa số cử tri bầu ra và do đó là quyền lực của nhân dân giao phó cho các đại diện của mình. Ở nước ta, đó là Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Quốc hội có thẩm quyền lập hiến và lập pháp; quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước; quyền quyết định kế hoạch phát triển đất nước và những vấn đề quốc kế dân sinh về đối nội, đối ngoại quan trọng nhất; quyền lập ra các cơ quan và chức vụ quốc gia cao nhất. Các cơ quan và những người có chức vụ cao nhất ấy phải chịu trách nhiệm và báo cáo trước Quốc hội. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan Nhà nước cấp trên. Một trong những điểm cơ bản của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân là quyền lực Nhà nước thống nhất trên cơ sở phân công và phối hợp trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Có thể hiểu rằng, sự thống nhất là nền tảng, sự phân công và phối hợp là phương thức để đạt được sự thống nhất của quyền lực Nhà nước. Sự lãnh đạo của Đảng cũng nhằm đảm bảo cho sự phân công và phối hợp đó được thông suốt, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, đưa Cương lĩnh, chủ trương, đường lối của Đảng vào cuộc sống. Tóm lại, nguyên tắc tập trung – dân chủ góp phần xác định rõ bản chất Nhà nước ta; xác định sự lãnh đạo của Đảng, của Nhà nước về một đất nước vì dân, lấy dân làm gốc; hiện thực hóa những quy định trong các văn bản pháp luật mà Nhà nước đã ban hành về nguyên tắc này; thể hiện cụ thể Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Kết luận Trên đây là một số những biểu hiện cụ thể của nguyên tắc tập trung – dân chủ trong quản lí hành chính. Qua đó, ta có thể hiểu rõ hơn về quản lí hành chính ở nước ta cũng như tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước ở nước ta hiện nay. Từ đó, ta có thể đánh giá được việc áp dụng nguyên tắc tập trung – dân chủ vào thực tiễn quản lý đã được thực hiện tốt, triệt để, phù hợp hay chưa và rút ra những thiếu xót, những điểm còn hạn chế trong vấn đề này ở thực tiễn quản lý hành chính địa phương cũng như trung ương. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Nxb. CAND, Hà Nội, 2008. Khoa Luật – Đại học Quốc Gia Hà Nội, Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Nxb. ĐHQGHN, 2005. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001. Trang web: www.hanhchinh.com.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước.doc
Tài liệu liên quan