Tiểu luận Những hiểu biết chung về VOCs và thực trạng nghiên cứu về vấn đề ở trên thế giới và Việt Nam

Cuộc nghiên cứu Total Exposure Assessment Methodology (TEAM) năm 1985 của Cơ quan Bảo vệ Môi Sinh Hoa Kỳ (US Environmental Protection Agency=EPA) đã thay đổi cách đánh giá về phẩm chất của không khí mà chúng ta hít thở trong nhà. Bản nghiên cứu này cho thấy sự tiếp xúc quan trọng nhất của mỗi cá nhân với những chất hữu cơ dễ bay hơi không phải do ở không khí bên ngoài trời như chúng ta thường nghĩ mà chính là do không khí trong nhà ! EPA đã theo dõi sự hiện diện của 20 loại VOCs (thường là những dung môi hữu cơ) trong không khí bên trong nhà, ngoài trời, không khí hít thở và không khí bao quanh từng cá nhân nơi 780 người. Không khí bao quanh từng cá nhân được ghi nhận bằng cách đặt những hệ thống thu hút mẫu trên quần áo của người đó: không khí này cho thấy có sự tiếp xúc rất cao với 11 loại VOCs, nồng độ hóa hất trong không khí này cao hơn rất nhiều so với không khí ngoài trời. Các hợp chất hữu cơ bay hơi thường gặp trong mẫu hơi thở: Chloroform, 1,1,1-Trichloroethane,Benzene,tetrachloride,Carbon,Trichloroethylene,Tetrachloroethylene, Styrene, m,p-Dichlorobenzene, Ethylbenzene, o-Xylene, m,p-Xylene.

doc22 trang | Chia sẻ: netpro | Lượt xem: 14447 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Những hiểu biết chung về VOCs và thực trạng nghiên cứu về vấn đề ở trên thế giới và Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
0,1 triệu tấn VOC thải ra. Còn trên thế giới hiện nay lượng sơn tiêu thụ vào khoảng 23 triệu tấn. Ở các loại sơn hữu cơ thông thường, hàm lượng chất rắn chiếm 13%, phần còn lại chủ yếu là VOC tương đương 600 - 840 g/l.[2] Cơ thể mỗi chúng ta có một mùi đặc trưng, giống như mỗi ngón tay có một dấu vân riêng, và nó không thay đổi ngay cả khi chúng ta chuyển sang chế độ ăn khác. Giới khoa học biết rằng động vật có vú, như chuột, sóc, hươu và cả con người, có mùi cơ thể đặc trưng được quy định trong gene. Mùi cơ thể giúp chúng nhận ra một cá thể trong đám đông, thậm chí trong việc tìm bạn tình. Mùi cơ thể được quyết định một phần bởi các gene đóng vai trò quan trọng đối với hệ miễn dịch và được tìm thấy trong phần lớn động vật có xương sống. Thông tin về mùi được truyền khắp cơ thể thông qua các dịch lỏng như nước tiểu và mồ hôi. Những dịch lỏng này chứa nhiều hợp chất hữu cơ dễ bay hơi có khả năng giải phóng mùi. Những người từng tập thể thao trong một căn phòng nhỏ và kín có thể cảm nhận được sự tồn tại của các hợp chất hữu cơ dễ bay hơi. VOCs được sinh ra từ các hoạt động sinh hoạt hàng ngày trong gia đình, có trong các sản phẩm tẩy rửa hay chất làm lạnh. Chúng còn có trong công nghệ làm sạch khô của các nghành công nghiệp. Các nghành công nghiệp sử dụng các nguồn nhiên liệu hóa thạch tạo ra VOCs trực tiếp từ các sản phẩm như xăng,dầu…hoặc gián tiếp từ các sản phẩm phụ như khí thải ô tô. Con người sản xuất phát thải khoảng 10% mức phát thải của tự nhiên,nên việc hạn chế là vô cùng khó khăn.. II. Thực trạng nghiên cứu vấn đề trên thế giới và Việt Nam II.1 Trên thế giới Vấn đề ô nhiễm môi trường, đặc biệt là sự suy giảm chất lượng không khí hiện đang là mối quan tâm hàng đầu trên thế giới, nhất là tại các quốc gia có nền công nghiệp phát triển. Một lượng lớn các hợp chất hữu cơ dễ bay hơi khác nhau VOCs được thải vào khí quyển hàng ngày. Trong những năm gần đây, ngưỡng cho phép của hàm lượng VOCs trong khí thải đã được giảm xuống rất nhiều nhờ những nỗ lực tích cực của thế giới trong việc bảo vệ môi trường. Chính phủ các nước đang ngày càng thắt chặt các quy định liên quan đến hàm lượng các chất gây ô nhiễm trong các nguồn khí thải ra môi trường. Hoa Kỳ VOCs là hợp pháp theo quy định tại các luật khác nhau và mã số theo đó họ ban hành các quy định. Cơ quan Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ (EPA) quy định VOC trong không khí, nước và đất. Các Đạo luật nước uống an toàn thực hiện bao gồm một danh sách có nhãn VOCs phải có ghi các chất hữu cơ và được ổn định. Ngoài nước uống, VOCs được quy định tại nước cần xử lý (xử lý nước thải và xử lý nước mưa), chất thải nguy hại, Sở Lao động Hoa kỳ ban về nghề nghiệp của mình và an toàn quản lý sức khỏe (OSHA) quy định VOC tiếp xúc ở nơi làm việc. Các hợp chất hữu cơ dễ bay hơi có chất độc hại sẽ được quy định bởi các Cục An toàn Vật liệu độc hại . Hoa Kỳ hiện nay, lượng VOC có trong sơn được quy định ở cấp liên bang là 250 gram/lít, và sẽ là 100 gram/lít sau ngày 01-01-2011. Qua nhiều thập niên, từ năm 1975-2009, lượng VOC trong sơn đã giảm dần từ 750 xuống 560 – 450 – 300 – 100 – 50 và mới đây, vào năm 2008-2009 rất nhiều hãng sơn đã thành công trong việc sản xuất ra những dòng sơn không có VOC. Các hợp chất hữu cơ dễ bay hơi (VOC) là một mối quan tâm chính của Cơ quan Bảo vệ Môi trường (EPA) và không khí được cảnh báo về sự nguy hiểm trên toàn nước Mỹ. Là một yếu tố tạo nên ozone, một chất gây ô nhiễm không khí thông thường mà đã được chứng minh là gây nguy hiểm y tế công cộng. Các hợp chất hữu cơ dễ bay hơi sẽ phản ứng với sự có mặt của ánh sáng mặt trời với các oxit nitơ (NOx) để tạo thành ôzôn. Ozone này có năng lượng thấp kết hợp với các hạt mịn của bụi và các vật liệu khác và góp phần hình thành sương khói. Trong sương mù đó có chứa ozon (O3), alđehyt, peoxyt axetyl nitrat và một lượng nhỏ các chất oxy hóa. Phản ứng quang hóa học dưới tác dụng của nitơ oxit phân hủy dung môi hữu cơ tạo ra những tác nhân oxy hóa: VOC + ánh sáng + NO2 + O2 —> O3 + NO + CO2 + H2 Ngoài ra trong phản ứng trên ta còn thấy sản phẩm sinh ra còn có cả CO2 loại khí gây hiện tượng hiệu ứng nhà kính. Trong khi ozone trong không khí phía trên là có lợi, ozone ở mặt đất là hoàn toàn ngược lại. Tầng ôzôn của khí quyển giúp bảo vệ chúng ta khỏi nguy hiểm của tia cực tím mặt trời,tuy nhiên khi chúng ở gần ta thì theo các nghiên cứu EPA nó hoạt động như một chất kích thích phổi, gây ra vấn đề sức khỏe cho tất cả sự sống, bao gồm cả động vật và thực vật. Những nghiên cứu này cho thấy hít thở không khí với nồng độ ozone trên các tiêu chuẩn chất lượng không khí sẽ gây trầm trọng thêm các triệu chứng của những người bị bệnh phổi và dường như tăng tỷ lệ các mắc bệnh suyễn. Ngoài ra còn có bằng chứng cho thấy kéo dài tiếp xúc với ôzôn gây hại lâu dài đến mô phổi và cản trở hoạt động của hệ thống miễn dịch. California là tiểu bang đầu tiên ban hành luật hạn chế các nội dung VOC trong sơn và chất phủ. New York, New Jersey, Texas and Arizona đã tham gia California với pháp luật khu vực của riêng họ, và dự kiến sẽ sớm có các tiểu bang khác cùng tham gia. Theo truyền thống, các quy tắc môi trường của California đã đặt ưu tiên cho các quy định liên bang, cũng như những người của các quốc gia khác. EPA hiện đang tham gia trong một quá trình đàm phán điều tiết để phát triển một quy định VOC quốc gia mà sẽ có hiệu quả trong tất cả các nước. California Board (CARB) và một số tiểu bang phía đông bắc là thành viên của Ủy ban Giao thông vận tải Ozone (OTC) hiện nay quy định về VOC cấp nhiều sản phẩm tiêu dùng,với mục tiêu cải thiện chất lượng không khí. Sản phẩm tiêu dùng được định nghĩa rất rộng rãi trong các quy định này và bao gồm cả thương mại và tổ chức nhiều sản phẩm bao gồm sản phẩm chăm sóc xe, ngoài các sản phẩm gia dụng hiện nay. California đã được điều chỉnh VOC nội dung người tiêu dùng trong một số sản phẩm trong nhiều năm. Ngược lại VOC quy định tại các bang miền đông bắc có hiệu lực vào năm 2005. Các quy tắc áp dụng cho các VOC là 350 gam / lít. EPA Hoa Kỳ ban hành luật mới liên quan đến những giới hạn về các hợp chất hữu cơ dễ bay hơi (VOC) cho các kiến trúc và bảo dưỡng công nghiệp (AIM) ngành công nghiệp. Các luật này đã được ghi vào Sổ đăng ký Liên bang vào tháng 11,1998 và hiệu lực vào ngày 13 Tháng 9, 1999. California Giới hạn VOC mới 12/31/08 (12/31/09 cho sản phẩm đăng ký EPA) Danh mục sản phẩm Giới hạn VOCs(% trọng lượng VOCs) Chất kết dính: Xây dựng, Panel và Tầng Che 7 Anti-Static sản phẩm: Thuốc 80 Phòng tắm và làm sạch Tile: Non-Thuốc 1 Cân các loại phanh 20 Bộ chế hòa khí hoặc nhiên liệu khí Máy phun Intake 20 Thuốc khử trùng: Thuốc 70 Thuốc khử trùng: Non-Thuốc 1 Bảo trì sản phẩm nội thất: Non-Sol khí, trừ dán / rắn 3 Mục đích chung Cleaners: Aerosol 8 Mục đích chung Degreasers: Aerosol 20 Tinh bột giặt là / Định kích thước / Vải Finish sản phẩm 4.5 Máy giặt: Non-Sol khí bao gồm máy bơm xịt và các chất lỏng 1 Thuốc Khử trùng: 70 Sanitizer: Non-Thuốc 1 Theo Cơ quan Bảo vệ Môi sinh của Mỹ thì 9% hợp chất gây ô nhiễm môi trường là do hàm lượng VOC từ trong sơn thải ra. Tất cả các loại sơn đều có 4 thành phần chính: Tinh bột, chất liên kết, phụ gia và dung môi. Trong đó, dung môi và phụ gia là 2 thành phần chính thải ra VOC. [3] Nhiều kết quả nghiên cứu trên thế giới đã chứng minh rằng: Một số hóa chất được tìm thấy trong những dòng sơn không tốt đã gây tác hại xấu đến thai nhi. Con người dễ bị dị ứng, đau đầu, chóng mặt, nhức mắt, khó thở khi vừa tiếp xúc với các loại sơn đó. Theo báo cáo của của Hiệp hội các bệnh về phổi ởMỹ (American Lung Association), VOC có thể gây khó chịu mắt và da, các vấn đề liên quan đến phổi và đường hô hấp, gây nhức đầu, chóng mặt, các cơ bị yếu đi hoặc gan và thận bị hư tổn. Do vậy, mối quan tâm về an sinh, sức khỏe ngày càng tăng cao của xã hội đã tác động đến ngành xây dựng, tạo nên một xu hướng mới mang ý nghĩa vươn tới một “ngôi nhà xanh – green building”. Ảnh hưởng của sự tiếp xúc với các dung môi hữu cơ trong không khí trên sức khỏe và các phương thức tự bảo vệ: Không khí trong nhà: Môi trường trong nhà có khoảng 100 hợp chất hữu cơ bay hơi từ nhiều nguồn khác nhau như vật liệu xây dựng, đồ đạc, mỹ phẩm, chất tẩy rửa, thuốc trừ sâu... Quần áo giặt khô có thể còn chứa dư lượng dung môi. Nhiều hợp chất hữu cơ bay hơi có thể gây nghiện và dẫn đến làm suy nhược hệ thần kinh TƯ gây kích ứng cho mắt, mũi và họng, gây nhức đầu, choáng váng, rối loạn thị giác và nhiều tổn hại khác. Nhiều hợp chất hữu cơ bay hơi đo được trong nhà có khả năng gây ung thư cho người và động vật. Cuộc nghiên cứu Total Exposure Assessment Methodology (TEAM) năm 1985 của Cơ quan Bảo vệ Môi Sinh Hoa Kỳ (US Environmental Protection Agency=EPA) đã thay đổi cách đánh giá về phẩm chất của không khí mà chúng ta hít thở trong nhà. Bản nghiên cứu này cho thấy sự tiếp xúc quan trọng nhất của mỗi cá nhân với những chất hữu cơ dễ bay hơi không phải do ở không khí bên ngoài trời như chúng ta thường nghĩ mà chính là do không khí trong nhà ! EPA đã theo dõi sự hiện diện của 20 loại VOCs (thường là những dung môi hữu cơ) trong không khí bên trong nhà, ngoài trời, không khí hít thở và không khí bao quanh từng cá nhân nơi 780 người. Không khí bao quanh từng cá nhân được ghi nhận bằng cách đặt những hệ thống thu hút mẫu trên quần áo của người đó: không khí này cho thấy có sự tiếp xúc rất cao với 11 loại VOCs, nồng độ hóa hất trong không khí này cao hơn rất nhiều so với không khí ngoài trời. Các hợp chất hữu cơ bay hơi thường gặp trong mẫu hơi thở: Chloroform, 1,1,1-Trichloroethane,Benzene,tetrachloride,Carbon,Trichloroethylene,Tetrachloroethylene, Styrene, m,p-Dichlorobenzene, Ethylbenzene, o-Xylene, m,p-Xylene. Những hợp chất thường gặp nhất là: paradichlorobenzene (chất tẩy mùi), styrene (nhựa plastic, bọt cao-su=foam rubber, chất độn bảo vệ nhiệt độ =insulation), tetrachloro ethylene (dùng trong tẩy-giặt khô =dry cleaning), vinylidene chloride (nhựa plastic), xylene (sơn), benzene và ethlbenzene trong xăng-dầu. Các nồng độ này cao hơn trong khí hít thở của những người hút thuốc (so với người không hút), điều này phù hợp với các nghiên cứu cho rằng hút thuốc gây sự tồn đọng các hóa chất hít vào trong tế bào phổi. Các ghi nhận khác cho thấy nồng độ benzene, xylene và tetracholoethylene trong mẫu thử cá nhân, tăng cao hơn, mỗi khi người này ghé trạm xăng hay đến tiệm giặt dry clean. Công nhân làm việc tại tiệm giặt, dĩ nhiên có nồng độ hóa chất hít thở cá nhân, cao hơn là khách hàng, tuy nhiên những công nhân này cũng còn mang tetrachloroethylene (hay perchloroethylene) về nhà theo..quần áo, tóc và hơi thở trong phổi! Nồng độ tetrachloro ethylene trong nhà của những công nhân làm nghề dry-clean ở mức cao đáng kể, đưa đến tình trạng có thể bị nhiễm độc của những người cùng sống chung trong nhà! Các nghiên cứu trước đó, khi đối chiếu với nghiên cứu TEAM, đều cho thấy những kết quả tương đối ổn-định nơi 800 nhà được đo không khí. Tất cả đều cho thấy nồng độ các hóa chất trong số 40 loại VOCs nghiên cứu đều ở mức độ cao hơn bên trong nhà so với không khí bên ngoài, có khi gấp 10 lần. Nguồn gốc của các hóa chất độc hại này có thể là từ vật liệu xây cất, bàn ghế trong nhà, quần áo dry-clean, thuốc lá, xăng dầu, chất tẩy rửa..Ngoài ra các kết quả còn ghi nhận những người đã từng bị nhiễm độc khi tiếp xúc với các hóa chất trước đó, nếu sau này tiếp xúc lại..thì phản ứng sẽ gia tăng hơn nhiều! Các chất biến dưỡng từ dichlorobenzene được tìm thấy trong nước tiểu của 96 % trẻ em tại Arkansas và trong 98% mẫu thử nơi 1000 nguời (chọn một cách may rủi) trong toàn Hoa Kỳ (Arch Environ Health No 50-1995)[4] Nồng độ cao của các hóa chất độc hại kể trên trong không khí bên trong nhà có thể do ở hai yếu tố: + Thứ nhất: Do ở hậu quả của cuộc 'khủng hoảng xăng-dầu' trong những năm 70, kỹ thuật xây cất nhà cửa tại Hoa Kỳ thay đổi, tập trung vào việc tìm cách làm nhà thật kín, để tiết kiệm năng lượng. Nhà được xây cất với mục đích giảm thiểu tối đa sự trao đổi không khí giữa trong nhà và bên ngoài, để bớt dùng năng lượng cần thiết để giữ nhiệt độ không thay đổi. Hău quả là những nhà mới xây..giữ lại nhiều hóa chất VOCs hơn những nhà cũ, vốn thông thoáng hơn! + Thứ hai: Cũng trong thời kỳ này, có sự gia tăng trong việc xử dụng những hợp chất có chứa VOCs trong vật liệu xây cất, vải bọc, bàn ghế, vật liệu trong nhà. Việc xử dụng gỗ được thay bằng ván vụn ép có chứa nồng độ cao formaldehyd và VOC, Sà nhà , trước đây bằng gỗ nguyên nay cũng được thay bằng gỗ ghép chứa formaldehyd. Sàn nhà được thay từ gỗ cứng bằng ván phủ thảm..cũng giữ lại các VOCs. Thập kỷ 70 cũng cho thấy những thay đổi trong vật liệu làm bàn ghế trong nhà đem thêm các VOCs vào bên trong nhà. Các chất bột polyurethane và sợi polyester thay thế các vật liệu cũ trong nệm ghế ,sofa; sợi nhân tạo thay cho bông gòn. Rayon thay cho lụa để bọc ghế. Các vải bọc ghế chứa formaldehyde để giúp không bị nhăn khi ngồi lên trên ghế. Các vật dụng bằng plastic, vốn chứa phthalates nay xuất hiện đầy trong nhà. Văn phòng lảm việc tại nhà, có máy computer, máy fax, máy sao chụp copier. Càng làm tăng ozone, hơi plastic và VOCs trong nhà. Ngoài các loại vật dụng trên, còn có sơn, keo dính, sưởi nóng bằng hơi gaz, bếp gaz các nhà để xe lại là nơi tồn trữ sơn thừa, nước pha sơn, xăng dầu, thuốc trừ sâu, diệt cỏ nấm mốc tất cả đã tạo thành một môi trường độc hại ngay bên trong nhà. Sự thật, tuy không tốt đẹp, nhưng chúng ta phải chấp nhận..là dù sống trong nhà, ngoài trời..tại nơi làm việc.chúng ta luôn luôn phải hít thở các dung môi và 2 nơi nguy hại nhất lại là nhà chúng ta ở và nơi làm việc mà chúng ta sẽ tiếp xúc ít nhất là 8 giờ mỗi ngày. Thảm, một nguồn thải ra các hóa chất gây ô nhiễm bên trong nhà: Thảm lót sàn trong nhà có thể là một yếu tố đáng chú ý trong việc thải ra các VOCs và tồn giữ các chất diệt sâu bọ còn đọng lại. Khi EPA điều tra về nguyên do gây ra sự độc hại tại Trụ sở Trung Ương (1988), kết quả cho thấy là những nồng độ cao VOC là do những thảm mới lót, sau khi thay hết 27,000 yard vuông thảm không khí bên trong trụ sở trở nên khá hơn. Điểm nên chú ý những hóa chất này cũng là những hóa chất mà EPA tìm được trong cuộc nghiên cứu TEAM, và sau đó cũng tìm thấy trong nghiên cứu của Thụy Điển. Rất nhiều hợp chất, như 4-phenylcyclohexene, TCE, Benzene, Xylene, Toluene, Sturene và các me thylbenzenes được biết là các chất gây độc hại thần kinh. Vì thảm lót sàn có thể gây những tác dụng độc hại thần kinh bằng cách phóng thích các hợp chất kể trên nên Phòng thí nghiệm Anderson đã tìm cách thử nghiệm tác động của thảm đối với Hệ miễn nhiễm: Chuột thử nghiệm được sống trong không khí đã thổi qua thảm và sau đó được theo dõi phản ứng; kết quả ghi nhận nơi 400 mẫu thử: có sự hiện diện của độc tố trong 90 % mẫu, kể cả những độc tố gây ra tử vong cho chuột (Informed Consent No 1-1993). Thảm và bụi trong nhà đều là những vật chứa đựng các hóa chất trừ sâu bọ. Vào năm 1993, bản phúc trình NOPES (Non-Occupational Pesticide Exposure Study), do EPA bảo trợ được công bố (Arch Environ Contam Toxicol No 26-1994). Bản phúc trình này xác nhận những kết quả của những nghiên-cứu trước đó về tác dụng độc hại của không khí bên trong nhà (hơn là ngoài trời); tuy nhiên bản phúc trình NOPES chú trọng vào các hóa chất trừ sâu nhiều hơn. Các nhà nghiên cứu của EPA tìm thấy là nồng độ chất trừ sâu trong không khí bên trong nhà cao nhất vào mùa hè và thấp nhất vào mùa đông, phù hợp với phương thức xử dụng chất trừ sâu tùy theo mùa. Các loại thuốc trừ sâu bọ trong bụi thảm (theo NOPES): -Heptachlor -DDT - Chlorpyrifos  -ortho-Phenylphenol - Aldrin - Dieldrin    -Diazinon - Chlordane - Carbaryl - Atrazine Các mẫu thảm chứa trung bình 12 loại hóa chất trừ sâu (trong số các hóa chất định tìm), trong khi đó mẫu không khí chứa trung bình 7.5 loại. 13 loại thuốc trừ sâu tìm thấy trong bụi thảm, nhưng không thấy trong không khí: những chất này kém bay hơi nên thường ở tại chỗ sau khi rơi xuống. Trẻ em và trẻ sơ sinh chịu ảnh hưởng nhiều nhất vì tiếp xúc với thảm và bụi chứa thuốc trừ sâu: chúng bò lê cả ngày trên thảm và nhặt các vật rơi trên thảm đưa vào miệng và theo NOPES thì phương thức tiếp xúc này khiến trẻ sơ sinh và trẻ em nhận đủ mọi độc chất như DDT, aldrin, atrazine và carbaryl. Do đó phụ huynh nên tìm những biện pháp phòng ngừa như thay, bỏ thảm (nếu có thể), lau sạch các ống thổi hơi sưởi, đặt thêm hệ thống làm sạch không khí, bỏ giầy dép ngoài nhà, tránh dùng thuốc trừ sâu trong vườn. Không khí ngoài trời:Một số người khi cho rằng không khí tại nơi làm việc, trong nhà..không được tốt, nên ra ngoài trời để hít thở 'không khí trong lành hơn' nhưng chắc họ sẽ phải thất vọng khi biết rõ hơn về không khí mà họ định hít thở! Tuy Hoa Kỳ đã có Sắc luật 'Clean Air Act', nhưng chưa hẳn vì thế mà không khí được trong lành. Đa số các dữ kiện về vấn đề ô nhiễm của không khí ngoài trời được công bố đều được soạn bởi các công ty kỹ-nghệ. Các số liệu do kỹ nghệ đưa ra có thể không phản ảnh rõ về toàn cảnh số liệu được phân tích theo những kiểu mẫu phân tán, vận tốc gió, hướng gió, điều kiện khí tượng, và sự ổn định của bầu khí quyển. Các kết quả cho thấy nồng độ trong không khí (ngoài trời) của các chất benzene, formaldehyde, và 1,3-butadiene cao hơn những nồng độ tiêu chuẩn của ung thư trong hơn 90% các kết quả theo dõi trong nội địa Hoa Kỳ. Ngoài ra khoảng 10% các kết quả theo dõi (đa số bên phía Đông HK) ước lượng nồng độ của những chất gây ung thư trong không khí ô nhiễm cao hơn mức độ báo động từ 1 trong 10,000.(Environ Health Perspect No 106-1998). Các tác hại của các Dung môi trên sức khỏe: Các dung môi hữu cơ có nhiều ảnh hưởng khác nhau trên sức khỏe. Trong phần trước chúng ta đã xét qua bản phúc trình National Human Adipose Tissue của EPA trong đó 4 loại dung môi xylene, dichlorobenzene, ethylphenol và styrene đã hiệndiện trong toàn bộ mẫu thử (100%). Các dung môi hữu cơ (VOCs) là những độc tố gây hại cho hệ thần kinh trung ương và ngoại vi: các tác hại trên thần kinh trung ương gồm giảm trí nhớ, giảm khả năng nhận thức, giảm khả năng phối hợp các động tác giữa mắt và tay, giữa mắt và chân, khả năng giữ thăng bằng. Sự tiếp xúc lâu dài đưa đến thay đổi tâm tính, trầm cảm, dễ cáu giận, mệt mỏi, các tác hại trên thần kinh ngoại vi có thể gồm run rẩy tay, tê tay, các động tác mất khéo léo để thành vụng về. VOCs có thể gây hư hại thận gây những vấn đề về miễn nhiễm kể cả gia tăng tỷ lệ ung thư làm hạ nồng độ testosterone và LH (Luteinizing Hormone). Chúng được xem là có thể gây hiếm muộn, làm giảm lượng tinh trùng và gây gia tăng các trường hợp dị dạng cho bào thai. Ngoài ra VOCs cũng liên hệ đến các hư hại về máu huyết, gây tăng các tỷ lệ tử vong vì bệnh tim-mạch. Tỷ lệ VOCs trong không khí bên trong nhà và formaldehyde liên hệ mật thiết với sự gia tăng các trường hợp Suyễn và Sưng phổi kinh niên, nhất là nơi trẻ em . Các phương thức phòng ngừa và chữa trị Việc tiếp xúc hàng ngày với các dung môi bay hơi là điều không thể tránh được trong đời sống..nhưng chúng ta có thể tìm một số phương cách để giới hạn được càng nhiều càng tốt. Ngòa việc cố giới-hạn sự tiếp xúc, nên đưa không khí sạch hơn vào nhà để giúp thải bớt VOCs, có thể dùng thêm các hệ thống lọc không khí. Một số cây trồng trong nhà cũng có những tác dụng giúp lọc không khí. Cơ quan Không gian HK NASA đã nghiên cứu và tìm được một số cây thanh lọc không khí, giảm được nồng độ benzene, trichloroethylene và formaldehyde, Các cây đáng chú ý gồm: - Gerbera jasemoni (Cúc đồng tiền) - Chrysanthemum morifolium(Cúc hoa trắng hay Bạch cúc) - Hedera helix (English Ivy rất thông thường tại Hoa-Kỳ) - Sansevieria trifascita (Cây lưỡi cọp lá vàng=Hổ vĩ mép lá vàng) - Dracaena deremansis (Cây phát dụ) - Dracaena marginata (Phát dụ Madagascar) - Spathiphyllum aracacea (Cây buồm trắng) - Aglaonema modestum ( Cây vạn niên = Minh ty) - Chamaedorea sefrizii (Parlor Palm, loại cọ trồng trong nhà) Giai đoạn kế tiếp sau khi cố tránh những tiếp xúc không cần thiết với các dung môi, dùng hệ thống lọc để giúp không khí trong sạch hơn là giúp cơ thể thải loại các VOCs sau khi chúng đã vào cơ thể. Khả năng thải loại các dung môi cũng thay đổi tùy cơ thể: có người loại bỏ được chất độc nhanh chóng nhưng cũng có người loại bỏ chậm hơn. Có nhiều yếu tố gây ra suy yếu trong việc thải loại độc chất như : ăn uống thiếu dưỡng chất cần thiết cho cơ thể để biến đổi các độc chất, uống rượu, uống thuốc như aspirin, hay đã có sẵn những dung môi tồn lại trong cơ thể, ăn thiếu protein hay ăn quá nhiều chất đường, khiếm khuyết biến dững bẩm sinh, cơ thể bị nhiễm các kim loại nặng làm nồng độ glutathion xuống thấp. Giai đoạn 1 của sự Sinh biến đổi (Biotransformation) Đây là giai đoạn đầu tiên khi cơ thể thanh lọc các hợp chất độc hại khỏi máu. Các dung môi hữu cơ VOCs bị oxy-hóa bởi các men trong nhóm Cytochrome P450. Vài loại dung môi như Toluene, Xylene được biến đổi thành benzoic acid . Styrene có thể thành benzoic mandelic, hay phenylglyoxylic acid. Hexane bị oxy-hóa thành 2,5- hexanediol. Có những bằng chứng cho thấy những biến đổi về gene đưa đến sự khác biệt về hoạt động của những men cyclooxegenase(J.Clin Pharmacol No 9-1980): những khiếm khuyết về gene này có thể sẽ làm cho cơ thể của một số người mất bớt khả năng khởi động các tiến trình thanh lọc các VOCs khỏi máu. Phương thức ăn uống có những ảnh hưởng khá quan trọng trên việc thải loại chất độc khỏi cơ thể, Phẩm chất của protein cũng giữ một vai trò, ví dụ như người Á châu ăn chay do ở sự không cân bằng tỷ lệ protein trong rau-quả, nên việc thải loại chất độc bị giảm sút. Những trạng thái acid thấp (hypochlorhydria) hay không có acid (achlorhydria) trong bao tử, gặp ở những người dị ứng với hóa chất, có những ảnh hưởng xấu với vấn đề sinh-khả dụng của các acid amin trong chế độ ăn uống, dù ăn thật nhiều protein: do đó nên cho những người hay tiếp xúc với VOCs, dùng những protein từ nước sữa (whey) đã thủy giải một phần (partially hydrolyzed), chế phẩm này không những cung cấp protein toàn diện cần thiết cho sự biến dưỡng các hóa chất từ bên ngoài nhập vào cơ thể, đồng thời gia tăng lượng glutathione trong gan. Ngoài vấn đề cung cấp cho đủ các protein cần thiết, cũng cần giảm thiểu việc ăn uống chất đường: tại Hoa-Kỳ mức tiêu thụ đường trung bình cho mỗi đầu người lên đến 150 gram/ ngày cùng với tình trạng ô nhiễm môi sinh do dung môi hữu cơ có lẽ đã tạo ra tình trạng. ngộ độc tiềm ẩn trên toàn quốc? (Annu Rev Nutr No 11-1991). Ăn nhiều những loại rau có họ cải (cruciferous), chứa nhiều indol-3-carbinol, rất tốt cho việc thải loại độc chất. Một số các dưỡng chất dạng vi lượng (micro-nutrients) cũng giúp ích cho Giai đoạn 1 của tiến trình thải loại: Đa số những vitamins nhóm B (như Thiamine=B1; Riboflavine =B2, Niacin, Pyridoxine=B6) cần thiết cho hoạt động của hệ men cyclooxygenase khi thiếu những vitamin này, sự loại chất độc giảm xuống. Các Vitamin E, C; các khoáng chất Magnesium, Selenium đều có ảnh hưởng trên tiến trình thải loại (Nutritional Toxicology Vol 2- Academic Press 1987). Giai đoạn 2 của sự Sinh biến-đổi: Sau khi các dung môi hữu cơ (VOCs) đã bị oxy-hóa ở giai-đoạn 1, chúng sẽ được kết nối (conjugated) với các acid amin trong Giai đoạn 2: đây là những tiến trình acyl hóa hay kết nối. Các acid amin thường dùng nhất để kết nối là glycine (cho toluene và xylene), taurine, và glutamine. Taurine cũng yểm trợ cho Tiến trình sulfat hóa..mà một số VOCs được thải loại. Một số VOCs khác lại bị thải theo tiến trình kết nối với glutathione. Sự khiếm khuyết acid amin này có thể làm suy giảm sự thải loại của những VOCs khỏi máu. Có thể giúp nâng nồng độ glutathion bằng cách dùng thêm Vitamin C, protein từ nước sữa (whey protein), cây milk thistle, acid alpha lipoic, selenium và N-acetylcystein (dùng glutathione trực tiếp bằng cách uống lại không có tác dụng! vì glutathione khi vào đường tiêu hóa bị thủy phân ngay bởi gamma-glutamyltransferase trong ruột và gan, trung hòa mất khả năng hoạt động – (European Journal of Clinical Pharmacology No 43-1992). Ngoài vai trò giúp gia tăng nồng độ glutathione trong cơ thể, acid alpha-lipoic còng giúp loại trừ thủy ngân (một chất ức chế glutathione); acid alpha-lipoic còn có khả năng bảo vệ chống các tổn hại thần kinh gây ra bởi hexane... Ở Canada Y tế Canada cho rằng lớp VOCs là hợp chất hữu cơ có điểm sôi khoảng trong khoảng từ 50 đến 250 ° C (122-482 ° F). Và được nhấn mạnh là nó sẽ có ảnh hưởng đến chất lượng không khí.[5] Liên minh châu Âu VOC là hợp chất hữu cơ có một điểm sôi ban đầu ít hơn hoặc bằng 250 ° C đo được tại một áp suất không khí tiêu chuẩn 101,3 kPa chúng có thể làm hư hỏng, cảm nhận thị giác.[5] II. Việt Nam Việt Nam là nước đang phát triển nên việc hạn chế các VOCs là còn rất hạn chế. Tại thị trường Việt Nam hiện nay, nhiều loại sơn có tác hại xấu đến sức khỏe và môi trường sống vẫn đang được sử dụng để sơn nhà ở, nơi làm việc, các tòa cao ốc, các căn hộ cao cấp… Đó là nhữ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNhững hiểu biết về VOCs- Mai Duy Khánh.doc
Tài liệu liên quan