Kế hoạch và đầu tư để được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Đối với những doanh nghiệp kinh doanh ngành nghề có điều kiện thì phải có giấy phép kinh doanh do cơ quan nhà nước có thẩm quyền (các cơ quan quản lý nhà nước trong các lĩnh vực chuyên môn) cấp. Vấn đề ở đây là nếu coi hoạt động kinh doanh dịch vụ xét xử của trọng tài là ngành nghề kinh doanh có điều kiện thì nên trao cho Bộ (hoặc Sở) Tư pháp xác nhận đủ điều kiện thành lập trọng tài. Tuy nhiên, xuất phát từ bản chất của cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, chúng tôi cho rằng không nên coi hoạt động trọng tài là ngành nghề kinh doanh có điều kiện, bởi những lý do sau:
7 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1945 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Những nguyên lý cơ bản của cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và áp dụng xây dựng Luật trọng tài ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Những nguyên lý cơ bản của cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và áp dụng xây dựng Luật trọng tài ở Việt Nam
Trong một hình thái kinh tế - xã hội, pháp luật là yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng, do vậy pháp luật phải xuất phát từ thực tế và phải dựa trên những quy luật khách quan của các quan hệ xã hội mà chúng hướng đến điều chỉnh. Thực tiễn pháp luật Việt Nam đã cho thấy, nhiều quy định của pháp luật sau khi ban hành đã không được thực hiện do pháp luật không phù hợp với thực tế cuộc sống. Pháp luật trọng tài thương mại ở Việt Nam sẽ chỉ phát huy hiệu quả cao nhất nếu được ban hành phù hợp với những nguyên lý cơ bản của cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Việc sửa đổi Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003 đòi hỏi chúng ta phải cùng nhìn nhận và phân tích những nguyên lý cơ bản của cơ chế giải quyết tranh chấp này.
1. Nguyên lý về tính chất tư trong hoạt động xét xử của trọng tài
Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là phương thức theo đó các bên thỏa thuận lựa chọn một chủ thể không phải là tòa án giúp mình giải quyết tranh chấp đã phát sinh. Chủ thể được lựa chọn gọi là trọng tài và sẽ ra phán quyết về tranh chấp giữa các bên có liên quan. Có hai loại trọng tài là trọng tài vụ việc (ad-hoc) và trọng tài thường trực. Điểm khác biệt cơ bản giữa hai mô hình này là ở chỗ, trọng tài vụ việc chỉ được thành lập khi phát sinh tranh chấp và sẽ tự giải thể khi tranh chấp được giải quyết xong. Trong khi đó, trọng tài thường trực - như chính tên gọi của nó - tồn tại có tính chất ổn định, có trọng tài viên riêng, có điều lệ và quy tắc tố tụng riêng. Trọng tài thường trực là một thực thể pháp lý độc lập với đầy đủ các dấu hiệu của một pháp nhân, trong đó dấu hiệu quan trọng nhất là có tài sản riêng và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của chính mình. Việc lựa chọn hình thức trọng tài nào để giải quyết tranh chấp hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của các bên. Tuy nhiên, dù là trọng tài thường trực hay trọng tài vụ việc thì đều không phải là cơ quan thuộc bộ máy nhà nước, do vậy trong hoạt động xét xử, trọng tài không được sử dụng quyền lực công như tòa án. Chính vì hoạt động xét xử của trọng tài không gắn với quyền lực công nên trọng tài được coi là cơ quan tài phán tư.
Với tư cách là cơ quan tài phán tư thì điều quan trọng cần xem xét là trọng tài có hoạt động vì mục đích lợi nhuận hay không. Trả lời câu hỏi này cần quay trở lại với bản chất của trọng tài. Trọng tài được lập ra nhằm mục đích giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại và có thể giải quyết cả các tranh chấp dân sự khác. Tổ chức trọng tài hoạt động xét xử mang tính chất chuyên nghiệp nên sự tồn tại của nó hoàn toàn phụ thuộc vào doanh thu từ hoạt động xét xử (phí trọng tài). Nói cách khác, trọng tài là một tổ chức kinh tế được lập ra để kinh doanh dịch vụ xét xử. Với quan điểm này thì rõ ràng trọng tài hoạt động vì mục đích lợi nhuận, tức là đổi lại việc thu phí từ khách hàng - là các bên tranh chấp, trọng tài cung cấp dịch vụ xét xử và bảo đảm cho chất lượng của dịch vụ ấy tốt nhất thông qua việc bảo đảm tính khách quan, công bằng, vô tư với chi phí thấp, thủ tục đơn giản và độ bảo mật cao khi tiến hành xét xử. Vì vậy, có thể coi tổ chức trọng tài chính là một chủ thể kinh doanh tồn tại dưới dạng doanh nghiệp cung ứng dịch vụ xét xử. Nhận diện đúng yếu tố này sẽ giúp cho việc quản lý nhà nước đối với trọng tài trở nên phù hợp và hiệu quả hơn.
Hơn nữa, trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn dựa trên sự thống nhất thỏa thuận của các bên nên cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thực hiện theo nguyên tắc bình đẳng, thỏa thuận giữa các bên tranh chấp. Nguyên tắc này làm phát sinh hai yêu cầu: thứ nhất, ở chừng mực mà các thỏa thuận không trái pháp luật và đạo đức xã hội thì Nhà nước phải thừa nhận những thỏa thuận đó. Thứ hai, pháp luật phải bảo đảm đến mức tối đa cơ hội cho các bên thỏa thuận về phương thức giải quyết tranh chấp. Bảo đảm hai yêu cầu này chính là sử dụng phương pháp điều chỉnh bình đẳng, thỏa thuận của ngành luật dân sự và luật kinh tế - một tiêu chí đã và đang được sử dụng để xác định ngành luật theo lý thuyết về phân định ngành luật ở Việt Nam hiện nay.
2. Nguyên lý về sự hỗ trợ lẫn nhau giữa tài phán công và tài phán tư
Hoạt động xét xử của trọng tài là một phương thức hữu hiệu giảm tải công việc cho tòa án. Tuy nhiên, trọng tài là cơ quan tài phán tư không thể tồn tại nếu không có sự hỗ trợ của tòa án - cơ quan tài phán công. Thực tế cho thấy, giải quyết bằng trọng tài rất phù hợp với những tranh chấp liên quan đến các vấn đề về kỹ thuật đòi hỏi kiến thức chuyên sâu của một ngành hoặc một lĩnh vực cụ thể như xây dựng, tàu biển, khai thác, thăm dò dầu khí… Đó là vì các bên tranh chấp có thể lựa chọn trọng tài viên là những chuyên gia có kiến thức uyên thâm về những lĩnh vực đang tranh chấp nên họ sẽ có những nhận định, đánh giá dựa trên cơ sở khoa học chặt chẽ, chính xác. Chẳng hạn như, với tranh chấp trong lĩnh vực xây dựng, các bên có thể mời kỹ sư xây dựng hoặc kiến trúc sư làm trọng tài viên. So với thẩm phán của tòa án, những người này thường có kiến thức sâu sắc hơn về lĩnh vực xây dựng nên sẽ dễ dàng tiếp cận vấn đề để đưa ra quyết định cuối cùng. Thực tế cho thấy, với những vụ việc tranh chấp về một lĩnh vực chuyên sâu nhất định, tòa án cũng thường phải tham vấn chuyên gia của lĩnh vực đó trước khi tiến hành xét xử. Do đó, nếu những chuyên gia được lựa chọn để trực tiếp xét xử thì cũng tạo ra những thuận lợi nhất định trong việc xem xét và tiếp cận vấn đề. Trong trường hợp này, trọng tài được lập ra đã giúp tòa án giảm tải đáng kể việc giải quyết các tranh chấp, đặc biệt là tranh chấp mang tính chuyên sâu của một ngành, đòi hỏi phải có hiểu biết về kỹ thuật của ngành đó mới có thể giải quyết được.
Tuy nhiên, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài có những hạn chế nhất định như việc thành lập trọng tài không phải lúc nào cũng có thể tiến hành được do các bên không đạt được thỏa thuận cuối cùng về trọng tài viên. Hơn nữa, trọng tài viên có thể là chuyên gia trong nhiều lĩnh vực khác nhau nhưng đôi khi không có kiến thức chuyên sâu về pháp luật. Vì vậy, hoạt động xét xử của trọng tài viên có thể gặp khó khăn do thiếu kỹ năng nghiên cứu và phân tích chứng cứ khi giải quyết tranh chấp. Hơn nữa, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đòi hỏi chi phí tương đối cao so với giải quyết thông qua tòa án. Cuối cùng, điều đặc biệt quan trọng là quyết định trọng tài không được bảo đảm thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước do trọng tài là cơ quan tài phán tư, vì thế nếu các bên không tự giác thi hành thì phán quyết của trọng tài cũng không có giá trị trên thực tế. Để khắc phục hạn chế này, pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật nhiều nước đã sử dụng cơ chế hỗ trợ lẫn nhau giữa trọng tài (tài phán tư) và tòa án (tài phán công). Vì tài phán tư ra đời góp phần làm giảm tải hoạt động xét xử của tài phán công thì đổi lại tài phán công - với khả năng sử dụng quyền lực công của mình - cũng cần hỗ trợ tài phán tư trong hoạt động xét xử. Sự hỗ trợ lẫn nhau giữa hai cơ chế tài phán này là tất yếu, vấn đề đặt ra là pháp luật cho phép hoặc thừa nhận sự hỗ trợ giữa hai hình thức tài phán này đến đâu và ở mức độ nào mà thôi. Chúng ta cần thừa nhận nguyên tắc là ở chừng mực có thể và nếu mang lại hiệu quả thì pháp luật nên cho phép tối đa hóa sự hỗ trợ lẫn nhau giữa hai cơ chế tài phán này. Sự hỗ trợ nên được thực hiện xuyên suốt từ giai đoạn xét xử cho đến giai đoạn thi hành phán quyết trọng tài.
3. Một số đề xuất hoàn thiện pháp luật trọng tài ở Việt Nam
- Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài
Hiện nay trên thế giới có hai quan điểm cơ bản về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài. Chẳng hạn như pháp luật của Liên bang Nga chỉ trao cho trọng tài thẩm quyền giải quyết tranh chấp thương mại - đó là những tranh chấp phát sinh khi có ít nhất một bên trong tranh chấp thực hiện hoạt động tìm kiếm lợi nhuận. Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 của Việt Nam cũng quy định theo hướng này. Chính vì giới hạn thẩm quyền của trọng tài như trên nên ở những nước này trọng tài được hiểu là trọng tài thương mại. Khác với quan điểm này, nhiều quốc gia mở rộng thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài theo đó cơ quan tài phán tư không chỉ giải quyết các tranh chấp về thương mại mà còn giải quyết các tranh chấp khác phát sinh trong các lĩnh vực dân sự, lao động, bao gồm cả các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng và tranh chấp phát sinh ngoài hợp đồng. Do thẩm quyền của trọng tài không chỉ giới hạn ở việc giải quyết tranh chấp thương mại nên cơ quan này không gọi là “trọng tài thương mại” mà chỉ gọi là “trọng tài”. Có nhiều quốc gia theo quan điểm thứ hai như Trung Quốc, Vương quốc Anh, Thụy Điển, Hoa Kỳ, Singaopre... Hiện nay, Dự thảo Luật Trọng tài của Việt Nam cũng theo xu hướng này, với lập luận như sau: “Luật Trọng tài không chỉ quy định thẩm quyền giải quyết các vụ tranh chấp thương mại mà còn cần quy định trong một phạm vi rộng hơn trong lĩnh vực dân sự, lao động theo yêu cầu của các bên và các bên tranh chấp không chỉ là tổ chức, cá nhân kinh doanh. Với tính cách là hình thức tài phán tư, trọng tài cần được tạo điều kiện để có thể giải quyết tất cả các tranh chấp tư, bao gồm cả các tranh chấp hợp đồng và ngoài hợp đồng, trừ những quan hệ liên quan tới lợi ích công cộng và trật tự công cộng. Theo nghĩa đó, Luật Trọng tài sẽ phù hợp hơn nữa với nguyên tắc quyền tự do định đoạt của các bên, bao gồm cả quyền tự do định đoạt phương thức giải quyết tranh chấp” (1).
Với quan điểm rộng hơn nữa, các chuyên gia của Dự án STAR làm việc trong chương trình Hỗ trợ kỹ thuật cho Việt Nam thực hiện Hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ và gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) cho rằng, trọng tài không chỉ giải quyết các tranh chấp dân sự theo nghĩa rộng mà còn nên được trao thẩm quyền giải quyết cả những tranh chấp hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan hành chính. STAR bình luận như sau: “Việc sử dụng trọng tài để giải quyết các tranh chấp hành chính là thông lệ được phép ở một số nước khác. Chẳng hạn, Mục 575 của Luật Thủ tục hành chính cho phép giải quyết tranh chấp hành chính bằng trọng tài nếu “tất cả các bên đồng ý”. Việt Nam cũng nên xem xét điều này. Tại sao lại không cho phép một cơ quan đứng ra làm trọng tài nếu cơ quan đó cho rằng, đó là cách tốt nhất để giải quyết tranh chấp?”(2).
Như vậy, có nhiều quan điểm khác nhau về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài. Có lẽ, với bản chất là cơ quan tài phán tư, chúng ta không nên nhận diện thẩm quyền xét xử của trọng tài rộng đến mức bao gồm cả những tranh chấp thuộc lĩnh vực luật công như quan điểm của các chuyên gia STAR. Đặc điểm của quan hệ pháp luật hành chính là một bên chủ thể luôn là Nhà nước, do đó, hoạt động quản lý hành chính nhà nước mang tính chấp hành và điều hành. Phương pháp bình đẳng, thỏa thuận không được sử dụng để điều chỉnh các quan hệ xã hội này, vì thế không cho phép các bên thỏa thuận lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp. Chính vì vậy, tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước cần phải được giải quyết tại tòa án - cơ quan tài phán công.
Quan điểm trọng tài có thẩm quyền giải quyết tất cả các tranh chấp tư có sức thuyết phục hơn bởi đặc trưng của quan hệ pháp luật tư là sự bình đẳng thỏa thuận và trọng tài là hình thức tài phán tư do các bên lựa chọn. Việc quy định thẩm quyền của trọng tài chỉ trong lĩnh vực tranh chấp thương mại là không thể hiện được hết bản chất của quan hệ pháp luật tư - tức là quan hệ pháp luật được điều chỉnh bằng phương pháp bình đẳng thỏa thuận, cho phép các bên thỏa thuận về nội dung quan hệ pháp luật cũng như phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh, miễn là những thỏa thuận đó không vi phạm pháp luật và đạo đức xã hội. Chính vì vậy, nên trao cho trọng tài thẩm quyền giải quyết tất cả các quan hệ pháp luật thuộc lĩnh vực tư.
Tuy nhiên, nếu tranh chấp tư được giải quyết bằng trọng tài thì vai trò của tòa án trong lĩnh vực này còn cần thiết không? Chúng ta cần lưu ý rằng, xét đến cùng trọng tài không thể tồn tại biệt lập mà luôn cần sự hỗ trợ từ phía tòa án. Do đó, các bên trong tranh chấp tư vẫn cần có cơ hội tiếp cận tòa án ngay cả khi đã có phán quyết trọng tài thông qua việc yêu cầu tòa án hủy hoặc công nhận quyết định trọng tài. Như vậy, sự tồn tại của trọng tài không phủ nhận vai trò của tòa án trong xét xử các tranh chấp tư mà là sự bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau trong hoạt động xét xử. Đồng thời sự tồn tại của trọng tài cũng là để đáp ứng đầy đủ yêu cầu của phương pháp bình đẳng, thỏa thuận được sử dụng để điều chỉnh các quan hệ pháp luật tư.
- Về cách thức quản lý nhà nước đối với trọng tài
Trọng tài được thành lập như thế nào và cơ quan nhà nước nào nên được trao quyền trực tiếp quản lý nhà nước đối với hoạt động trọng tài? Có ý kiến cho rằng nên trao cho Bộ Tư pháp quyền trực tiếp quản lý nhà nước đối với trọng tài, đặt trong sự phối hợp với Hội Luật gia Việt Nam. Bên cạnh đó, có ý kiến ủng hộ quan điểm cho rằng không nên đặt ra vấn đề quản lý nhà nước đối với trọng tài với tính cách là một lĩnh vực hoạt động chuyên biệt, do đó, không nhất thiết phải trao cho Bộ Tư pháp thẩm quyền này. Quan điểm thứ nhất được ghi nhận trong Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 và vẫn tiếp tục được khẳng định trong Dự thảo Luật Trọng tài. Tuy nhiên, nếu nhìn nhận trọng tài là một tổ chức kinh tế được thành lập để kinh doanh dịch vụ xét xử thì trọng tài cũng là một chủ thể kinh doanh (có thể và nên tồn tại dưới hình thức doanh nghiệp). Như vậy thì cần đặt việc thành lập trọng tài trong mối quan hệ với việc thành lập doanh nghiệp kinh doanh trong các lĩnh vực khác. Theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005 thì doanh nghiệp sẽ đăng ký kinh doanh tại Sở Kế hoạch và đầu tư để được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Đối với những doanh nghiệp kinh doanh ngành nghề có điều kiện thì phải có giấy phép kinh doanh do cơ quan nhà nước có thẩm quyền (các cơ quan quản lý nhà nước trong các lĩnh vực chuyên môn) cấp. Vấn đề ở đây là nếu coi hoạt động kinh doanh dịch vụ xét xử của trọng tài là ngành nghề kinh doanh có điều kiện thì nên trao cho Bộ (hoặc Sở) Tư pháp xác nhận đủ điều kiện thành lập trọng tài. Tuy nhiên, xuất phát từ bản chất của cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, chúng tôi cho rằng không nên coi hoạt động trọng tài là ngành nghề kinh doanh có điều kiện, bởi những lý do sau:
Trước hết, Bộ Tư pháp không cần quản lý nghiệp vụ xét xử của trọng tài bởi vì bản thân hoạt động của trọng tài đã có một cơ chế giám sát nó, đó là niềm tin của khách hàng vào chất lượng dịch vụ xét xử và sự hỗ trợ, giám sát của thiết chế tài phán công - tòa án. Khi trọng tài hoạt động với tư cách của doanh nghiệp thì chất lượng dịch vụ xét xử tốt sẽ tạo cho nó khả năng đứng vững trong quá trình cạnh tranh giữa các tổ chức trọng tài. Nếu không, trọng tài sớm muộn cũng sẽ bị đào thải trước sự cạnh tranh vô tận của thị trường. Hơn nữa, bản thân trọng tài không đứng độc lập mà ở chừng mực nhất định còn có sự hỗ trợ, giám sát của tòa án. Tòa án, nếu có căn cứ, vẫn có quyền ra quyết định hủy hoặc không hủy quyết định trọng tài. Đối với trọng tài viên, Bộ Tư pháp cũng rất khó có thể thẩm định được năng lực của họ bởi vì trọng tài viên không nhất thiết phải là người có trình độ luật học mà có thể là chuyên gia của nhiều lĩnh vực khác nhau.
Theo quy định của Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 và Dự thảo Luật Trọng tài thì tổ chức trọng tài có nhiệm vụ phải báo cáo định kỳ hàng năm hoạt động của tổ chức với Bộ Tư pháp và Sở Tư pháp, nơi tổ chức trọng tài đăng ký hoạt động. Điều này là không cần thiết bởi vì nguyên tắc hoạt động của tổ chức trọng tài khi xét xử là bảo mật, do đó không nên yêu cầu trọng tài phải báo cáo định kỳ với Bộ hoặc Sở Tư pháp, mà chỉ nên quy định nghĩa vụ này đối với tổ chức trọng tài nếu có yêu cầu bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong trường hợp cần thiết. Cùng nhận định như vậy, các chuyên gia của dự án STAR cho rằng “Yêu cầu về việc các tổ chức trọng tài phải cung cấp bản sao các quyết định trọng tài cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền là rất khó hiểu. Một trong các lợi ích cơ bản của việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là lời cam kết bảo mật toàn bộ quy trình thủ tục và phán quyết trọng tài. Tất nhiên, có những trường hợp cơ quan nhà nước có thể hỏi xin bản sao các phán quyết trọng tài và trong những trường hợp đó, cơ quan nhà nước có yêu cầu phải có văn bản chính thức, chẳng hạn thông qua một trát yêu cầu của tòa” (3).
Một lý do khác chứng minh cho việc không nên coi hoạt động của trọng tài là ngành nghề kinh doanh có điều kiện đó là theo quy định của pháp luật hiện hành thì hồ sơ xin phép thành lập tổ chức trọng tài bao gồm đơn đề nghị thành lập, dự thảo điều lệ của tổ chức trọng tài và văn bản giới thiệu của Hội Luật gia Việt Nam. Chúng ta chưa rõ cơ sở của việc quy định các loại giấy tờ trên khi xin phép thành lập tổ chức trọng tài là gì nhưng có lẽ Bản Dự thảo điều lệ của tổ chức trọng tài sẽ là văn bản mà Bộ Tư pháp quan tâm nhất bởi sau khi được thông qua, Bản Điều lệ sẽ đưa ra những quy định về quy tắc tố tụng, phí trọng tài, danh sách trọng tài viên... Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là liệu những vấn đề này có cần phải được thẩm định trước khi thành lập tổ chức trọng tài hay không? Có lẽ không cần thiết phải làm như vậy, bởi vì Bản Điều lệ chỉ quy định những vấn đề về quy tắc tố tụng, phí trọng tài, tức là liên quan đến luật thủ tục mà không quy định về luật nội dung, do khi giải quyết tranh chấp, trọng tài phải căn cứ vào luật nội dung do Nhà nước ban hành. Những quy định về luật thủ tục nói trên nên được coi là những điều khoản của một hợp đồng theo mẫu, tức là hợp đồng cung ứng dịch vụ xét xử, do tổ chức trọng tài đưa ra. Các bên tranh chấp nếu thấy chấp nhận được những điều khoản này thì gia nhập hợp đồng cung ứng dịch vụ để yêu cầu trọng tài giải quyết tranh chấp. Trong trường hợp này, hợp đồng theo mẫu trong việc cung ứng dịch vụ xét xử tương tự như hợp đồng bảo hiểm với các điều khoản được doanh nghiệp bảo hiểm quy định sẵn trong các bản Điều lệ bảo hiểm (4). Nếu những quy định về tố tụng trọng tài trái với pháp luật và đạo đức xã hội thì sau đó phán quyết của trọng tài sẽ không được tòa án có thẩm quyền công nhận, tức là sẽ bị bác trên thực tế.
Từ những lý do trên có thể đi đến khẳng định rằng, khi thành lập, trọng tài chỉ cần tuân thủ quy định của pháp luật về thành lập doanh nghiệp như các doanh nghiệp hoạt động trong những lĩnh vực khác mà không cần phải xin phép Bộ Tư pháp như quy định của pháp luật hiện hành.
- Về số lượng tổ chức trọng tài sẽ được thành lập
Khi đã coi trọng tài là tổ chức kinh tế được thành lập để kinh doanh dịch vụ xét xử thì việc thành lập doanh nghiệp là quyền tự do của công dân. Nhà nước có nghĩa vụ thừa nhận quyền ấy bằng việc cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho các cá nhân, tổ chức có đủ năng lực hành vi theo quy định của pháp luật. Hơn nữa, bản chất của trọng tài là cơ quan tài phán tư được lập ra để đáp ứng nhu cầu giải quyết các tranh chấp phát sinh từ quan hệ pháp luật tư. Chính vì có nhu cầu nên mới có sự ra đời của tổ chức trọng tài. Cạnh tranh giữa các tổ chức trọng tài sẽ là yếu tố làm cho hoạt động xét xử của tổ chức này đạt hiệu quả hơn và kết quả là người tiêu dùng - các bên tranh chấp - khi sử dụng dịch vụ xét xử được lợi hơn. Quá trình cạnh tranh buộc các tổ chức trọng tài phải nâng cao chất lượng xét xử, giảm tối đa thủ tục hành chính đồng thời xác định mức phí hợp lý để thu hút khách hàng. Quá trình cạnh tranh tất yếu sẽ đào thải các tổ chức trọng tài hoạt động không hiệu quả, do đó chúng ta nên để cho thị trường tự cân bằng số lượng tổ chức trọng tài mà không nên giới hạn bằng các quy định của pháp luật. ở đây chúng tôi đồng ý với quan điểm của các chuyên gia STAR khi bình luận về Dự thảo Luật Trọng tài như sau: “Dự thảo này đưa “tình hình phát triển kinh tế xã hội của địa phương” vào các nội dung cân nhắc khi xem xét yêu cầu thành lập tổ chức trọng tài. Trong các dự thảo trước không có quy định này. Chúng tôi không hiểu tại sao lại phải bổ sung tiêu chí về tình hình phát triển kinh tế xã hội của địa phương vào nội dung xem xét. Theo như cách dự thảo hiện tại thì quy định của điều này có vẻ như dự tính về vai trò của Chính phủ trong việc thành lập các tổ chức trọng tài và vai trò đó sẽ không chỉ dừng ở việc cấp phép cho các tổ chức có đủ điều kiện. ở hầu hết các nước trên thế giới, các trung tâm hoặc tổ chức trọng tài là các tổ chức phi chính phủ và các Chính phủ không quản lý về số lượng cũng như địa điểm của các tổ chức hay trung tâm này. Cho tới nay, ở Việt Nam đã có một số tổ chức trọng tài tư nhân - và đây là một xu hướng đáng khuyến khích” (5). Lập luận trên cho thấy rằng, pháp luật không nên giới hạn số lượng tổ chức trọng tài sẽ được thành lập trong tương lai.
(1) GS.TSKH. Đào Trí Úc, Những vấn đề cơ bản của Luật Trọng tài, Bài trình bày tại Hội thảo “Góp ý vào Dự thảo I Luật Trọng tài thương mại” do Hội Luật gia Việt Nam tổ chức ngày 10 - 11/7/2008 tại Hà Nội.
(2) STAR - Vietnam, Bình luận về Dự thảo Luật Trọng tài, Bài phát biểu tại Hội thảo “Góp ý vào Dự thảo I Luật Trọng tài thương mại” do Hội Luật gia Việt Nam tổ chức ngày 10 - 11/7/2008 tại Hà Nội.
(3) STAR -Vietnam, Bình luận về Dự thảo Luật Trọng tài, Bài phát biểu tại Hội thảo “Góp ý vào Dự thảo I Luật Trọng tài thương mại” do Hội Luật gia Việt Nam tổ chức ngày 10-11/7/2008 tại Hà Nội, tr. 18.
(4) Điều 407 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về hợp đồng theo mẫu như sau: “1. Hợp đồng theo mẫu là hợp đồng gồm những điều khoản do một bên đưa ra theo mẫu để bên kia trả lời trong một thời gian hợp lý; nếu bên được đề nghị trả lời chấp nhận thì coi như chấp nhận toàn bộ nội dung hợp đồng theo mẫu mà bên đề nghị đã đưa ra.
2. Trong trường hợp hợp đồng theo mẫu có điều khoản không rõ ràng thì bên đưa ra hợp đồng theo mẫu phải chịu bất lợi khi giải thích điều khoản đó.
3. Trong trường hợp hợp đồng theo mẫu có điều khoản miễn trách nhiệm của bên đưa ra hợp đồng theo mẫu, tăng trách nhiệm hoặc loại bỏ quyền lợi chính đáng của bên kia thì điều khoản này không có hiệu lực, trừ trường hợp có thoả thuận khác”.
(5) STAR –Vietnam, Bình luận về Dự thảo Luật Trọng tài, Bài phát biểu tại Hội thảo “Góp ý vào Dự thảo I Luật Trọng tài thương mại” do Hội Luật gia Việt Nam tổ chức ngày 10-11/7/2008 tại Hà Nội, trang 16.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Những nguyên lý cơ bản của cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và áp dụng xây dựng Luật trọng tài ở Việt Nam.doc