Tiểu luận Những ưu điểm, những hạn chế và hướng hoàn thiện đối với các quy định về công ty hợp danh của Luật Doanh nghiệp Việt Nam

Xét từ góc độ lợi ích của thành viên hợp danh, thì sự tồn tại của tư cách pháp nhân của công ty hợp danh và chế độ chịu trách nhiệm vô hạn không mang lại lợi ích lớn. ở một chừng mực nào đó, nó còn là sự cản trở.

Ở hầu hết các nước, do việc xác định hợp danh là sự liên kết của hai hay nhiều người cùng hùn vốn, tạo tài sản chung, chia sẻ quyền điều hành, cùng chịu lỗ hưởng lãi nên pháp luật đề cao sự thỏa thuận, không bắt buộc phải đăng ký kinh doanh. Với điều kiện như vậy, pháp luật nhiều nước không đánh thuế thu nhập đối với công ty hợp danh, từng thành viên chịu thuế với phần thu nhập cá nhân của riêng mình. Lợi ích của những cá nhân tham gia vào hợp danh thông thường là những cá nhân này sẽ không phải chịu thuế hai lần. Khác với loại hình hợp danh ở các nước khác, công ty hợp danh ở Việt Nam do có tư cách pháp nhân nên đương nhiên phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp.

doc12 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3793 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Những ưu điểm, những hạn chế và hướng hoàn thiện đối với các quy định về công ty hợp danh của Luật Doanh nghiệp Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài làm: I. Đặt vấn đề. Công ty hợp danh là một loại hình doanh nghiệp mới xuất hiện tại Việt Nam và chiếm một tỷ lệ nhỏ trong cơ cấu các loại hình doanh nghiệp trong cả nước. Tuy nhiên, tại nhiều quốc gia phát triển, công ty hợp danh là một mô hình kinh doanh đã xuất hiện từ lâu và có một vị thế không nhỏ trong nền kinh tế. Để đảm bảo cho sự cạnh tranh và phát triển lành mạnh của loại hình doanh nghiệp mới này, Luật Doanh nghiệp Việt Nam 2005 đã dành toàn bộ chương V để quy định những vấn đề pháp lý liên quan đến công ty hợp danh. Do tính chất mới mẻ của đối tượng tác động, những quy định của Luật Doanh nghiệp chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, bất cập. bài viết này xin được làm rõ một vài ý kiến của người viết về những ưu điểm, những hạn chế và hướng hoàn thiện đối với các quy định về công ty hợp danh của Luật Doanh nghiệp Việt Nam. II. Giải quyết vấn đề. 1. Khái niệm và đặc điểm của công ty hợp danh. Công ty hợp danh là loại hình công ty trong đó các thành viên cùng nhau tiến hành hoạt động thương mại dưới một hãng chung và cùng chịu trách nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ của công ty. Công ty hợp danh hay còn gọi là công ty góp danh là loại hình đặc trưng của công ty đối nhân, trong đó có ít nhất hai thành viên (đều là cá nhân hoặc thương nhân) cùng tiến hành hoạt động thương mại dưới một hãng chung và cùng liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ của công ty. Theo Luật Doanh nghiệp 2005 quan niệm về Công ty hợp danh ở nước ta hiện nay có một số điểm khác với cách hiểu truyền thống về công ty hợp danh. Theo đó, công ty hợp danh được định nghĩa là một doanh nghiệp với những đặc điểm pháp lý cơ bản sau: - Phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung (gọi là thành viên hợp danh); ngoài các thành viên hợp danh, có thể có thành viên góp vốn. - Thành viên hợp danh phải là cá nhân chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. - Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. - Công ty hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. - Trong quá trình hoạt động, công ty hợp danh không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào. Như vậy, nếu căn cứ vào tính chất thành viên và chế độ chịu trách nhiệm tài sản, thì công ty hợp danh theo Luật Doanh nghiệp có thể được chia thành hai loại. loại thứ nhất là những công ty giống với công ty hợp danh theo pháp luật các nước, tức là chỉ bao gồm thành viên hợp danh (chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản của công ty). loại thứ hai là những công ty có cả thành viên hợp danh và thành viên góp vốn (chịu trách nhiệm hữu hạn). Loại công ty này pháp luật các nước gọi là công ty hợp vốn đơn giản (hay hợp danh hữu hạn) và cũng là một loại của công ty đối nhân. Có thể thấy khái niệm công ty hợp danh theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam có nội hàm của khái niệm công ty đối nhân theo pháp luật của các nước. Với quy định về công ty hợp danh, Luật Doanh nghiệp đã ghi nhận sự tồn tại của các công ty đối nhân ở Việt Nam. 2. công ty hợp danh tại Việt nam và ý nghĩa những quy định của Luật Doanh nghiệp về công ty hợp danh. Công ty hợp danh là một loại hình doanh nghiệp có từ lâu trong lịch sử loài người. nhưng loại hình này mới chỉ được ghi nhận tại Việt Nam chưa lâu. Lần đầu tiên loại hình này được ghi nhận là ở Luật Doanh nghiệp 1999. Những quy định hiện hành về công ty hợp danh tập trung tại Luật Doanh nghiệp 2005. trước đây, Luật công ty chỉ đề cập đến hai loại hình công ty chủ yếu là công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần. Sau một thời gian thực hiện Luật Công ty thực tế cho thấy hai loại hình doanh nghiệp này phù hợp với tực tiễn đầu tư và kinh doanh tại Việt Nam nhưng vẫn chưa bao quát được hết loại hình công ty quan trọng theo yêu cầu phát triển kinh doanh ngày càng đa dạng, phong phú. Vì vậy, Luật Doanh nghiệp đã bổ sung loại hình công ty hợp danh và tiếp tục hoàn thiện những quy định về công ty hợp danh tại Luật Doanh nghiệp 2005. Bổ sung hình thức công ty hợp danh vào trong hệ thống công ty tại Việt Nam hiện nay xuất phát từ một số lý do sau: a. sự có mặt của hai loại công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần là kịp thời và cần thiết nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn. Luật Doanh nghiệp Việt Nam phải tạo ra được thêm những mô hình doanh nghiệp phong phú, thông dụng và phổ biến cho nhà kinh doanh được lựa chọn. b. Công ty hợp danh có những lợi thế hơn hẳn nhiều loại hình kinh doanh khác khiến cho nó trở nên hấp dẫn đối với các nhà kinh doanh. Những lợi thế đó là: - Về phía các đối tác, so với các công ty có chế độ trách nhiệm hữu hạn thì các đối tác thường thích làm ăn với các công ty trách nhiệm vô hạn hơn do ở chỗ, trong các công ty vô hạn, các thành viên chịu mọi trách nhiệm về các khoản nợ của công ty không chỉ bằng tài sản công ty mà còn bằng tài sản của cá nhân mình. - Về phía mình, các chủ của công ty hợp danh cũng tìm thấy khá nhiều lợi thế của loại công ty này, đó là: do chế độ chịu trách nhiệm vô hạn, chủ công ty có nhiều khả năng được ngân hàng cho vay vốn hoặc hoãn nợ. - Công ty hợp danh có cơ cấu tổ chức đơn giản, gọn nhẹ, ít chịu sự ràng buộc của pháp luật. Pháp luật dành quyền rộng rãi cho cho các thành viên thảo thuận với nhau về việc tổ chức, điều hành, đại diện của công ty. c. Trong thực tiễn cuộc sống, dù có được pháp luật nhìn nhận hay không thì dưới dạng này hay dạng khác, công ty hợp danh vẫn tồn tại. Vì vậy, nếu không đưa công ty hợp danh vào hệ thống doanh nghiệp tại Việt Nam là khoác cho nó một “cái áo” pháp lý thì khi có tranh chấp, rất khó giải quyết hậu quả. Các chủ nợ sẽ không biết phải kiện tới đâu nếu chẳng may con nợ trốn tránh nghĩa vụ, những người làm công tác thừa hành pháp luật sẽ rất lúng túng không biết giải quyết tranh chấp theo hướng nào, xử lý tranh chấp ra sao, áp dụng mô hình doanh nghiệp nào. Điều đó tất yếu sẽ dẫn đến hiện tượng công dân mất long tin ở pháp luật của nhà nước và tạo môi trường cho “luật rừng” phát triển, không đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. d. Trong điều kiện hiện này, khi các doanh nghiệp vừa thiếu vốn, ít kinh nghiệm thực tiễn, môi trường kinh doanh có độ rủi do cao thì sự có mặt cả công ty hợp danh sẽ giải quyết được phần nào những khó khăn đó. Do được bảo vệ bằng trách nhiệm vô hạn, công ty hợp danh là loại hình doanh nghiệp dễ thuyết phục được ngân hàng khi nhất khi cần vay vốn. tính an toàn pháp lý của loại công ty nay cao hơn hẳn so với các doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn. 3. Bình luận những quy định của Luật Doanh nghiệp về công ty hợp danh. a. những ưu điểm chủ yếu của Luật Doanh nghiệp về công ty hợp danh. Pháp luật về công ty hợp danh tuy còn nhiều khiếm khuyết nhưng nhìn chung đã tạo thành một tập hợp các quy định tương đối hoàn chỉnh, đồng bộ, đề cập được hầu hết các vấn đề cơ bản liên quan đến việc góp vốn, đáng ký kinh doanh, quyền và nghĩa vụ của thành viên hợp danh, quyền và nghĩa vụ của thành viên góp vốn, việc tổ chức, quản lý, điều hành công ty, điều kiện chấm dứt tu cách thành viên hợp danh… - Luật Doanh nghiệp đã ghi nhận những quyền cơ bản của công ty hợp danh, tạo ra điều kiện để các công ty hợp danh thực hiện quyền năng chủ thể một cách bình đẳng trước pháp luật. + Quyền cơ bản đầu tiên của công ty hợp danh là quyền tự do kinh doanh. quyền này cho phép các chủ thể của công ty hợp danh khi có đủ những điều kiện do pháp luật quy định đều có quyền thực hiện việc tự do kinh doanh, bao gồm việc tự do lựa chọn ngành nghề, quy mô kinh doanh, địa điểm đầu tư… + Quyền thứ hai, rất quan trọng đối với công ty hợp danh (cũng như đối với các loại hình doanh nghiệp khác) là quyền tự chủ, tự quyết định các công việc của mình cũng được Luật Doanh nghiệp ghi nhận một cách chính thức. theo quy định hiện hành, công ty hợp danh sau khi đăng ký kinh doanh, có quyền kinh doanh hợp pháp. Trong quá trình kinh doanh đó, các công ty hợp danh được định đoạt theo ý chí của mình những vấn đề liên quan đến quản lý tài sản, tài chính, tiền lương, giá cả, lao động… Tính tự chủ, tự quyết, sự hành động trước hết vì lợi ích của mình luôn là động lực phát triển của các doanh nghiệp, và suy cho cùng cũng là sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. + Một trong những quyền không kém phần quan trọng của các công ty hợp danh là quyền được bình đẳng trước pháp luật. Đặc điểm của cơ chế thị trường là tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật. Tuy nhiên, sẽ không có được trên thực tế các quyền tự do đó nếu như thiếu các tiền đề đảm bảo cho chúng được thực hiện. Một trong số những tiền đề đó là quyền của các chủ thể kinh doanh được đối xử bình đẳng với nhau trước pháp luật. Rõ ràng, sẽ không có sự cạnh tranh thực sự - động lực của sự phát triển kinh tế nếu có sự phân biệt đối xử giữa các loại hình doanh nghiệp với nhau trước pháp luật. Bình đẳng trước pháp luật có nghĩa là trong những điều kiện và hoàn cảnh như nhau, các doanh nghiệp đều có những cơ hội và khả năng hành động như nhau. - Ưu điểm thứ ba của các quy định Luật Doanh nghiệp về công ty hợp danh là ở chỗ, tập hợp các quy định này không chỉ tạo ra động lực cho sự hoạt động có hiệu quả của công ty hợp danh mà còn thiết kế được nhiều cơ chế được nhiều cơ chế nhằm tăng cường trách nhiệm của các thành viên hợp danh với công ty hợp danh. một trong những cơ chế hữu hiệu là quy định về chấm dứt tư cách thành viên hợp danh. b. Những điểm hạn chế và hướng hoàn thiện các quy định của Luật Doanh nghiệp về công ty hợp danh. b.1. Về quy định thành lập công ty hợp danh. Luật Doanh nghiệp đã cho phép các nhà đầu tư có thể thành lập công ty hợp danh nhưng lại quy định phải có ít nhất hai thành viên hợp danh, ngoài các thành viên hợp danh có thể có các thành viên góp vốn. Trong khi đó, luật cũng quy định thành viên hợp danh phải là cá nhân có trình độ chuyên môn và uy tín nghề nghiệp, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty, còn thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn góp vào công ty. Như vậy, từ những phân tích trên, trong công ty hợp danh có cả thành viên góp vốn chỉ cần có một thành viên hợp danh và một thành viên góp vốn là đủ đọ tin cậy đối với các đối tác khác của công ty. b.2. Tư cách pháp nhân của thành viên hợp danh. Theo Điều 130, Luật Doanh nghiệp, thành viên hợp danh phải là cá nhân. Vậy, theo Luật Doanh nghiệp, thành viên hợp danh không thể là một pháp nhân. Tại sao một pháp nhân không thể là thành viên hợp danh của công ty hợp danh? Trong thực tế pháp lý nhiêù nước trên thế giới, nhất là trong lĩnh vực tín dụng, bất động sản hay thương mại quốc tế, phần lớn công ty hợp danh do các thành viên là pháp nhân thành lập. Vì vậy, chúng ta nên xem xét lại khi chỉ cho phép cá nhân là thành viên hợp danh. b.3. Vấn đề về tư cách pháp nhân của công ty hợp danh. * Dưới góc độ lợi ích của công ty. Khi nào thì luật pháp cần phải quy định cho một tổ chức có tư cách pháp nhân? Quy định tư cách pháp nhân cho một tổ chức có lợi ích cơ bản gì? Việc quy định tư cách pháp nhân cho một tổ chức hay đúng hơn là việc hình thành khái niệm pháp nhân đem lại nhiều lợi ích. Giáo sư Jean Claude Ricci dẫn ra đây hai lợi ích cơ bản sau đây Thứ nhất, việc hình thành pháp nhân làm cho đời sống pháp luật được đơn giản hóa. Pháp nhân cho phép đơn giản hóa pháp luật. Chúng ta hãy đặt giả thiết là không có pháp nhân mà chỉ có các thể nhân. Khi đó, mỗi thể nhân thành viên đều sẽ phải tham gia vào việc ký kết các giao dịch pháp lý. Hậu quả sẽ rất phức tạp. Thứ hai, việc hình thành pháp nhân làm cho đời sống pháp luật được ổn định lâu dài. Đây là một yếu tố hết sức quan trọng. Người ta thường hay nói rằng, pháp nhân không gặp phải những thay đổi bất ngờ như thể nhân. Thời gian tồn tại của một pháp nhân thường dài hơn cuộc sống của một con người. Và hoạt động của pháp nhân có thể kéo dài, thậm chí rất dài. Pháp nhân không bị ảnh hưởng bởi những biến cố xảy ra đối với thành viên của nó. Nếu đối chiếu bản chất của loại hình công ty hợp danh vào hai lợi ích được dẫn ra trên, thì có thể thấy sự không phù hợp cơ bản khi quy định công ty hợp danh có tư cách pháp nhân. Đối chiếu với lợi ích thứ nhất, công ty hợp danh không cần đến tư cách pháp nhân để làm đơn giản hóa pháp luật. Bản chất của các quy định của công ty hợp danh là tôn trọng tính thỏa thuận giữa các thành viên hợp danh và các nguyên tắc về đại diện. Số lượng thành viên hợp danh trong công ty hợp danh rất ít. Đặc biệt, theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005, mô hình công ty hợp danh ở Việt Nam là mô hình đóng kín giữa những thân hữu có thể tin tưởng lẫn nhau. Một thành viên có quyền đại diện cho các thành viên còn lại trong việc ký kết giao dịch với bên thứ ba mà không gặp trở ngại nào. Đối chiếu với lợi ích thứ hai, khác với các loại hình công ty cổ phần hay công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh trong trường hợp gặp sự cố đối với thành viên hợp danh thì có thể chấm dứt sự tồn tại của nó. Chẳng hạn, nếu công ty hợp danh chỉ có hai thành viên hợp danh mà một người đột ngột qua đời thì công ty hợp danh đứng trước nguy cơ giải thế rất cao nếu thành viên còn lại không tìm được người để tiếp tục hợp danh. * Dưới góc độ lợi ích của thành viên hợp danh. Xét từ góc độ lợi ích của thành viên hợp danh, thì sự tồn tại của tư cách pháp nhân của công ty hợp danh và chế độ chịu trách nhiệm vô hạn không mang lại lợi ích lớn. ở một chừng mực nào đó, nó còn là sự cản trở. Ở hầu hết các nước, do việc xác định hợp danh là sự liên kết của hai hay nhiều người cùng hùn vốn, tạo tài sản chung, chia sẻ quyền điều hành, cùng chịu lỗ hưởng lãi nên pháp luật đề cao sự thỏa thuận, không bắt buộc phải đăng ký kinh doanh. Với điều kiện như vậy, pháp luật nhiều nước không đánh thuế thu nhập đối với công ty hợp danh, từng thành viên chịu thuế với phần thu nhập cá nhân của riêng mình. Lợi ích của những cá nhân tham gia vào hợp danh thông thường là những cá nhân này sẽ không phải chịu thuế hai lần. Khác với loại hình hợp danh ở các nước khác, công ty hợp danh ở Việt Nam do có tư cách pháp nhân nên đương nhiên phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp. Khoản lợi nhuận sau thuế chia cho thành viên hợp danh có thể sẽ bị đánh thuế một lần nữa. Lợi ích của các thành viên rõ ràng là bị ảnh hưởng lớn, trong khi họ đồng thời phải chịu chế độ trách nhiệm vô hạn về các nghĩa vụ của công ty. Trong một nỗ lực giải quyết tính kém hấp dẫn của mô hình công ty hợp danh, Dự thảo Luật Thuế thu nhập cá nhân quy định thành viên hợp danh không phải nộp thuế thu nhập cá nhân đối với phần lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp của công ty hợp danh. Tuy nhiên, cách xử lý này bị phản đối gay gắt, và ngày 20/11/2007, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật Thuế thu nhập cá nhân, vói quy định thành viên hợp danh vẫn phải chịu thuế thu nhập cá nhân. b.4. Vấn đề thừa kế phần vốn của thành viên đã chết hoặc mất tích. sự hình thành của công ty hợp danh dựa trên quan hệ đã có giữa các thành viên. Đây chính là một đặc trưng cơ bản phân biệt nó với các loại hình công ty khác – các loại công ty hình thành không có tính chất đối nhân mà chỉ có tính chất đối vốn. Cũng chính đặc trưng đó tạo nên cơ chế khép kín của loại công ty này. việc thu nhận thành viên phải dựa trên sự quen biết và được tất cả các thành viên khác tán thành. Ở Luật Doanh nghiệp, nhà làm luật đã quá chú trọng đến điểm này, vì thế coi việc góp vốn, sở hữu vốn góp với việc trở thành thành viên công ty hợp danh hoàn toàn khác nhau. Điểm h, khoản 1, Điều 134 quy định: “Trường hợp thành viên hợp danh chết hoặc bị tòa án tuyên bố là đã chết thì người thừa kế của thành viên được hưởng phần phần giá trị tài sản tại công ty sau khi đã trừ đi phần nợ thuộc trách nhiệm của thành viên đó. người thừa kế có thể trở thành thành viên hợp danh nếu được Hội đồng thành viên chấp thuận.” Như vậy, để trở thành thành viên công ty hợp danh phải được Hội đồng thành viên chấp thuận, nếu không họ sẽ buộc phải bán lại phần vốn góp của mình cho công ty hoặc cho thành viên hợp danh của công ty. luật sẽ giải quyết như thế nào nếu trong trường hợp người đó không bán được phần vốn của mình (công ty không có khả năng mua và những người khác cũng không muốn mua)? Họ có thể được coi là chủ nợ của công ty hay bắt buộc phải tìm người mua khác? Rõ ràng trong cố gắng tạo những thuận lợi cho thành viên công ty hợp danh, quy định này lại gây khó khăn cho họ khi chuyển nhượng vốn. vì vậy cần đặt vấn đề chuyển nhượng vốn trong mối quan hệ với các chế định khác như quy chế thành viên, cơ cấu tổ chức…đồng thời cần có quy định bổ sung cách thức giải quyết các tranh chấp kiểu như vậy. Có thể đặt ra một số điều kiện nhất định, theo đó công ty hợp danh buộc phải thu nhận thành viên mới hoặc xây dựng một thủ tục thỏa thuận bắt buộc, buộc các đương sự phải đi đến thảo hiệp. Có như vậy quyền lợi của các bên liên đới mới có thể được đảm bảo đầy đủ. b.5. Vấn đề trình độ chuyên môn và kinh nghiệm của thành viên hợp danh. Pháp luật nên có quy định thành viên hợp danh trong một số lĩnh vực nhất định phải có trình độ chuyên môn và kinh nghiệm nghề nghiệp như: tư vấn pháp lý, khám chữa bệnh, công ty kiểm toán… Trong công ty hợp danh, trách nhiệm cá nhân của thành viên hợp danh đòi hỏi rất cao, buộc họ phải ý thức trách nhiệm và tính cẩn trọng cao nhất trong việc đảm bảo chất lượng dịch vụ. Thực tế cho thấy mấy năm vừa qua, trong cơ chế thị trường, một số loại hình tư vấn pháp lý, khám chữa bệnh, công ty kiểm toán…đã và đang phát triển dưới nhiều hình thức khác nhau. Đây là những loại hình dịch vụ mà người tiêu dung khó có thể kiẻm tra chất lượng cung cấp dịch vụ, nhưng nó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của người sử dụng dịch vụ. kinh nghiệm cho thấy ở các nước, họ quy định những ngành nghề bắt buộc phải thành lập công ty hợp danh như: luật sư, kiểm toán, bác sĩ…và quy định 2 điều kiện cơ bản để được kinh doanh dịch vụ này nhằm đảm bảo chất lượng cho người sử dụng dịch vụ, bao gồm: - cá nhân cung cấp dịch vụ phải có trình độ chuyên môn. - Hình thức kinh doanh phải là công ty hợp danh hoặc doanh nghiệp tư nhân. Chính vì vậy, việc quy định những ngành nghề trên nếu muốn hoạt động kinh doanh dịch vụ phải thành lập công ty hợp danh là rất cần thiết. bởi tính chịu trách nhiệm của loại hình công ty này là điều kiện để cung cấp dịch vụ sẽ đảm bảo chất lượng cho người tiêu dùng, đồng thời còn góp phần cho cơ quan quản lý nhà nước và cơ quan chuyên ngành dễ dàng theo dõi và giám sát các hoạt động của công ty cung ứng các loại hình dịch vụ này, hạn chế những thiệt hại nghiêm trọng có thể xảy ra, đảm bảo lợi ích cho mọi công dân. b.6. Vấn đề quản lý và thực hiện hoạt động của công ty hợp danh. Điểm a, khoản 2, Điều 134 quy định: “2. Thành viên hợp danh có các nghĩa vụ sau đây: a) Tiến hành quản lý và thực hiện công việc kinh doanh một cách trung thực, cẩn trọng và tốt nhất bảo đảm lợi ích hợp pháp tối đa cho công ty và tất cả thành viên.” Căn cứ vào Điều khoản này: Luật bắt buộc giám đốc phải là thành viên hợp danh của công ty hợp danh. thiết nghĩ thuê giám đốc điều hành, đó là một quyền của các loại hình doanh nghiệp, nếu họ có nhu cầu. Song trong trường hợp này, pháp luật đã ràng buộc và cũng đồng nghĩa với việc công ty hợp danh không được quyền thuê giám đốc. Trong khi đó đại diện theo pháp luật của công ty là tất cả thành viên hợp danh chứ không phải là giám đốc công ty. Cũng phải nói thêm rằng, các thành viên hợp danh có thể đáp ứng được yêu cầu của pháp luật về trình độ chuyên môn song chưa hẳn việc “làm giám đốc” mà họ có thể đáp ứng một cách dễ dàng. Trong khi đó xu thế chung hiện nay giám đốc được coi là một nghề có đào tạo cơ bản. Các nhà làm luật cũng có thể xuất phát từ lí do: công ty hợp danh là một loại hình doanh nghiệp mới mẻ, hiện tại họ muốn gắn trách nhiệm của các thành viên hợp danh với công ty một cách chặt chẽ hơn nên quy định như vậy. Nhưng về lâu dài nên có chiều hướng sửa đổi điều khoản này, công ty hợp danh cũng có quyền thuê giám đốc. Có như vậy mới tạo ra một sân chơi bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp. b.7. Vấn đề cho phép công ty hợp danh được phát hành trái phiếu. theo quy định của một số nước trên thế giới, công ty hợp danh chỉ không được phát hành cổ phiếu, còn các loại trái phiếu khác được phép phát hành. Việc nới lỏng quyền này hoàn toàn phù hợp cả về mặt lí luận và thực tế. về lí luận, đối với cổ phần thì người mua là chủ công ty, còn đối với trái phiếu thì người mua chỉ là chủ nợ công ty, do đó việc phát hành trái phiếu không ảnh hưởng đến tính chất đóng, hạn chế tiếp nhận thành viên của loại công ty này. Quy định này phù hợp với thực tế hiện nay ở chỗ: khi các công ty hợp danh ở nước ta chủ yếu là loại doanh nghiệp vừa và nhỏ lại mang bản chất đối nhân nên việc thiếu vốn là điều dễ hiểu. Các doanh nghiệp này phải đi vay của các tổ chức tín dụng và của các công ty khác để tiến hành hoạt động kinh doanh của mình trong khi đó luật pháp lai không cho phép công ty hợp danh vay từ công chúng. Các văn bản pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán cho phép một khi công ty đã đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật thì sẽ được phép phát hành trái phiếu. Luật Doanh nghiệp nên củng cố thêm cơ sở pháp lí cho hoạt động này, vừa đảm bảo cho người mua chứng khoán của công ty, vừa giúp công ty có thêm được vốn để hoạt động kinh doanh và đồng thời đem lại nguồn thu cho nhà nước. b.8. về vấn đề tổ chức lại công ty hợp danh. tổ chức lại doanh nghiệp nói chung và tổ chức lại công ty hợp danh nói riêng là vấn đề đã được thực tiễn đặt ra từ lâu nhưng Luật Doanh nghiệp 2005 chưa có điều nào quy định về việc giải quyết vấn đề này. Điều đó đã gây khó khăn cho việc cơ cấu lại nền kinh tế, cơ cấu lại, cải tổ, đổi mới hoặc loại bỏ những doanh nghiệp yếu kém, trì trệ, thua lỗ kéo dài để làm lành mạnh nền kinh tế. Khắc phục tình trạng này, Luật Doanh nghiệp đã có quy định về việc chuyển đổi công ty trách nhiệm hữu hạn sang công ty cổ phần hoặc ngược lại và chuyển đổi công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, song không có một điều khoản nào quy định việc chuyển đổi công ty dành cho công ty hợp danh, mặc dù Luật Doanh nghiệp thừa nhận công ty hợp danh là một loại hình doanh nghiệp. Tuy nhiên, trên thực tế, nhà đầu tư cũng có thể có nhu cầu chuyển đổi trong trường hợp sau đây: - Công ty hợp danh sang công ty trách nhiệm hữu hạn. Trong trường hợp này, các thành viên hợp danh chỉ việc chuyển đổi trách nhiệm của mình từ trách nhiệm vô hạn sang hữu hạn. - Công ty trách nhiệm hữu hạn sang công ty hợp danh. (Ở đây thì nghĩa vụ ngược lại trường hợp ở trên) - Công ty hợp danh sang doanh nghiệp tư nhân. thiết nghĩ đây là một trong những trường hợp mà cần dự liệu và quy định cụ thể. VD: Nếu một công ty hợp danh được thành lập từ hai thành viên hợp danh A và B. Trong khi công ty đang làm ăn phát đạt chẳng may B chết, nếu trong thời gian quy định mà A không tìm được một thành viên khác thay thế B, như vậy công ty buộc phái giải thể. - Doanh nghiệp tư nhân sang công ty hợp danh. Bởi vậy, Luật Doanh nghiệp cần có những quy định đầy đủ và rõ ràng hơn về thủ tục chuyển đổi các loại hình công ty này. Khi chuyển đổi, tất cả các quyền và nghĩa vụ cũng được chuyển đổi theo. Song muốn được như vậy cũng như đảm bảo quyền lợi cho những người có quyền và nghĩa vụ liên quan, luật cần có những quy định cụ thể và chặt chẽ hơn nữa về việc chuyển đổi này. III. Kết thúc vấn đề. Theo thống kê doanh nghiệp của Sở Kế hoạch và đầu tư Hà Nội, cho đến ngày 20/11/2007, Hà Nội chỉ có 17 công ty hợp danh so với 33.327 công ty trách nhiệm hữu hạn, 21.061 công ty cổ phần, 2.921 doanh nghiệp tư nhân, 2.137 công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Như vậy, có thể thấy số lượng công ty hợp danh là quá ít ỏi so với số lượng các doanh nghiệp thuộc các loại hình khác. Điều này cũng phần nào phản ánh những quy định của pháp luật về công ty hợp danh chưa thực sự tạo ra sức hút đối với nhà đầu tư và công ty hợ danh là một loại hình doanh nghiệp kém hấp dẫn. Chúng ta sẽ buộc phải nhìn nhận vấn đề này một cách nghiêm túc và khoa học hơn khi mà tại các nước phát triển khác trên thế giới, công ty hợp danh la loại hình doanh nghiệp hết sức phổ biến và có sức hút lớn với các nhà đầu tư.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBình luận các quy định của pháp luật hiện hành về công ty hợp danh.doc
Tài liệu liên quan