Tiểu luận Phân tích mối quan hệ giữa ý thức và vô thức trong hành vi của con người

MỤC LỤC

 

Trang

I. MỞ ĐẦU.2

 

II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.2

1. Tìm hiểu chung về ý thức và vô thức.2

1.1. Các khái niệm cơ bản.2

1.2. Vai trò của ý thức và vô thức trong cuộc sống.2

2. Mối quan hệ giữa ý thức và vô thức.3

2.1. Ý thức kiểm duyệt, kiềm chế hành vi được thúc đẩy bởi cái vô thức.4

2.2. Ý thức có thể giải tỏa, biểu hiện thông qua vô thức.5

2.3. Ý thức và vô thức có thể chuyển hóa cho nhau.7

 

III. Kết luận.8

 

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.9

 

 

 

 

 

 

 

doc9 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 13612 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Phân tích mối quan hệ giữa ý thức và vô thức trong hành vi của con người, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Trang I. MỞ ĐẦU................................................................................................2 II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.......................................................................2 1. Tìm hiểu chung về ý thức và vô thức....................................................2 1.1. Các khái niệm cơ bản..........................................................................2 1.2. Vai trò của ý thức và vô thức trong cuộc sống....................................2 2. Mối quan hệ giữa ý thức và vô thức....................................................3 2.1. Ý thức kiểm duyệt, kiềm chế hành vi được thúc đẩy bởi cái vô thức...4 2.2. Ý thức có thể giải tỏa, biểu hiện thông qua vô thức.............................5 2.3. Ý thức và vô thức có thể chuyển hóa cho nhau.....................................7 III. Kết luận..................................................................................................8 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................9 I. MỞ ĐẦU. Đời sống tâm lý ở con người rất đa dạng, phong phú và phức tạp. Đây luôn là vấn đề được nhiều người quan tâm, tìm hiểu và nghiên cứu. Trong đời sống tâm lý của con người, những hiện tượng tâm lý được ý thức đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống. Ý thức điều chỉnh, điều khiển hành vi của con người, giúp cho con người dễ dàng hòa nhập với xã hội và thành công trong những hoạt động của mình. Song không ít người không biết hoặc không quan tâm nhiều đến vô thức, một hiện tượng tâm lý có mối quan hệ chặt chẽ với ý thức. Để hiểu rõ hơn về vô thức và mối quan hệ của vô thức với ý thức, nhóm 1 chúng em sẽ làm đề tài: “Phân tích mối quan hệ giữa ý thức và vô thức trong hành vi của con người”. II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ. Để phân biệt các hiện tượng tâm lý, ta chia nhận thức thành hai cấp độ: ý thức và vô thức. 1. Tìm hiểu chung về ý thức và vô thức. 1.1. Các khái niệm cơ bản. Ý thức là năng lực hiểu được các tri giác về thế giới khách quan mà con người tiếp thu được và năng lực được thế giới chủ quan trong chính bản thân mình nhờ đó con người có thể cải tạo thế giới khách quan và hoàn thiện bản thân mình. Vô thức là loại hiện tượng tâm lí trong đó chủ thể không có nhận thức, không tỏ được thái độ và không thể thực hiện được sự kiểm tra có chú ý đối với chúng. 1.2. Vai trò của ý thức và vô thức trong cuộc sống. Ý thức và vô thức có vai trò quan trọng trong cuộc sống. Chức năng của ý thức bao gồm những gì chúng ta nhận biết một cách tự giác, những điều chúng ta tự nguyện và hiểu rõ "một cách có ý thức" rằng chúng ta nên làm, dựa trên cơ sở nhận thức lý tính, tri thức, giá trị, lô-gíc và các giác quan thông thường. Ý thức cho phép chúng ta lựa chọn những gì chúng ta lĩnh hội, tập trung và kiểm soát được. Ý thức giúp chúng ta ghi nhớ và cho phép chúng ta chỉ quan tâm đến những gì liên quan đến mình, loại trừ những thông tin không cần thiết. Ý thức cũng giúp chúng ta biết dừng lại, phản ánh, suy ngẫm về bản thân và sử dụng những bài học trong quá khứ để cân nhắc những hồi đáp khác nữa, đánh giá và hình dung được hiệu quả của chúng trong tương lai. Ở phần còn lại, vô thức ghi nhớ một cách vô thức tất cả những trải nghiệm của cuộc đời chúng ta: những gì chúng ta đã từng nhìn thấy, cảm nhận hay những việc chúng ta đã từng làm - những điều tốt và xấu, những niềm vui và nỗi đau. Tất cả đều được lưu trữ trong vô thức. Chúng ta cũng có thể tìm được trong ngân hàng ký ức khổng lồ này những niềm tin, quan điểm và truyền thống văn hóa của mình. 2. Mối quan hệ giữa ý thức và vô thức. Ý thức và vô thức là hai lĩnh vực, hai hình thức, hai cấp độ phản ánh trong đời sống. Nhưng ý thức và vô thức có mối quan hệ chặt chẽ và phức tạp: vừa xung đột, kiềm chế, vừa bổ sung, hỗ trợ, chuyển hóa cho nhau. 2.1. Ý thức kiểm duyệt, kiềm chế hành vi được thúc đẩy bởi cái vô thức. Có nghĩa là, trong mỗi hành vi của con người, nếu con người vẫn đang thực hiện khả năng ý thức của mình thì con người có thể kiềm chế, kiểm duyệt hành vi được thúc đẩy bởi cái vô thức. Chẳng hạn, ngồi trong lớp học nóng nực, chúng ta muốn đi ra ngoài chơi cho thoải mái, nhưng nhờ ý thức được nghĩa vụ của bản thân và những hậu quả có thể xay ra nếu ta bỏ giờ học mà chúng ta vẫn ngồi lại lớp. Như vậy trong ví dụ này ta thấy vô thức khiến chúng ta muốn đi ra ngoài chơi cho thoải mái, nhưng ý thức giúp ta nhận thức được rằng hành vi của mình là không nên, có thể sẽ gây hậu quả xấu nên ta không đi nữa mà ngồi trong lớp . Hoặc khi đi học về, chúng ta đang rất đói, thấy hộp bánh trên bàn, chúng ta muốn bóc ra ăn, nhưng nhờ ý thức được rằng ta không biết hộp bánh đó là của ai, cho ta hay là gửi, nếu của bố, mẹ mua thì mua để làm gì, mua để cho chúng ta ăn, để mang đi cho hoặc hôm nay là ngày rằm còn phải thắp hương…. Nên chúng ta sẽ không bóc, ăn bánh. Ở đây, vô thức khiến chúng ta không nhận thức được hành vi của mình, do đói, ta sẽ bóc bánh ra ăn. Nhưng nhờ có ý thức, ta nhận thức được hành vi của mình là không nên, là chưa được phép , nếu tiếp tục làm cóa thể chúng ta sẽ bị mắng , nên ta dừng lại. Hoặc sáng nay là lịch học của ta nhưng thấy ngoài trời mưa to, đường lầy lội nên ta rất muốn nghỉ buổi học này, nhưng nhờ ý thức được nghĩa vụ của bản thân là phải đến trường học, để cha mẹ không phụ công nuôi ta ăn học… và ý thức được hậu quả xấu có thể phải gánh chịu từ việc tự ý bỏ buổi học như phải viết bản kiểm điểm, bị kỷ luật trước toàn trường… mà chúng ta vẫn quyết tâm đạp xe đến trường học bình thường. Qua ví dụ này chúng ta có thể biết được, nhờ có ý thức cao trong học tập, tinh thần tự giác, quyết tâm, cố gắng đến lớp của chúng ta đã kiềm chế được hành vi sai lầm đó là tự ý bỏ buổi học và được thúc đẩy bởi cái vô thức. Hoặc một sinh viên A nhà rất nghèo, để có tiền ăn học người đó đã phải làm việc rất vất vả. Một hôm, khi chuẩn bị đi học A thấy trên bàn có một chiếc ví, trong đó có năm triệu. Ngay lập tức trong đầu người này hiện ra ý muốn giấu số tiền này, nhưng khi suy nghĩ lại A thấy đây có thể là tiền của bạn cùng phòng được bố mẹ gửi lên. A nghĩ nếu mình lấy số tiền này thì người bạn đó sẽ rất lo lắng và không có tiền tiêu dùng, A lại càng không muốn trở thành một tên trộm. Vì vậy, A đã xóa bỏ ý nghĩ đó và đi học. Như vậy, ý thức đã đóng vai trò quan trọng trong việc kiềm chế ham muốn lấy trộm tiền của bạn. 2.2. Ý thức có thể giải tỏa, biểu hiện thông qua vô thức. Trong đời sống hằng ngày chúng ta thường nói: “có tật giật mình”. Ở đây, “tật” dùng để chỉ một điểm yếu, một thông tin bất lợi nào đó mà chủ thể muốn che giấu (tức là có thể ý thức) thế nhưng nó lại được bộc lộ thông qua “giật mình”- một phản ứng do vô thức điều khiển. Trong giao tiếp, những phản ứng cảm xúc biểu hiện qua ánh mắt, nét mặt, giọng nói, cử chỉ, những lời nói bột phát tưởng như vô tình ở người đối thoại có thể ẩn chứa những thông tin mà chúng ta quan tâm. Trong khoa học điều tra hình sự, đây chính là cơ sở để các nhà điều tra xây dựng những phương pháp, những thủ thuật xét hỏi trong trường hợp đối tượng khai báo không thành khẩn. Để hiểu rõ hơn về khía cạnh này, chúng ta có thể lấy một vài ví dụ cụ thể trong đời sống: B là một học sinh nghiện chơi điện tử. Do một lần không có tiền để thỏa mãn ham muốn của mình, B đã mở tủ lấy trộm tiền của bố mẹ và sử dụng hết. Vì hành vi đó mà mỗi lần nghe bố mẹ hỏi xem mình có còn tiêu vặt không (bố mẹ B vẫn chưa biết chuyện ), B đã “thót tim” và trả lời ấp úng vì lo sợ bị bố mẹ phát hiện. Trong ví dụ này, ta thấy mặc dù B đã luôn ý thức phải giấu chuyện mình ăn cắp, nhưng vẫn để lộ sự lo lắng bị phát hiện thông qua trạng thái “thót tim”, trả lời ấp úng chính là phản ứng cảm xúc do vô thức điều khiển Ví dụ thứ hai chứng minh cho luận điểm ý thức có thể được giải tỏa, biểu hiện thông qua vô thức là trong giờ học, cô giáo giao bài tập cho cả lớp. Mặc dù đã làm xong bài nhưng khi bạn bè hỏi mượn để tham khảo cách giải, do tính ích kỉ của bản thân, C đã nói dối là chưa làm được. Đến giờ ra chơi, khi các bạn bàn nhau chuyện bài tập khó, C liền buột miệng nói: “Bài đó có gì mà khó chứ”. Trong ví dụ này, ý thức thể hiện ở việc C tuy làm được bài không muốn cho bạn bè xem, còn câu nói của C chỉ là bộc phát, do vô thức điều khiển. Anh D yêu chị E từ lâu nhưng do thấy điều kiện gia đình mình không phù hợp với gia cảnh nhà chị E và cũng là do sự nhút nhát nên anh không nói ra với chị E và cũng không muốn để ai biết chuyện. Một hôm trong buổi liên hoan với bạn bè, do uống nhiều rượu, anh D không kiểm soát được suy nghĩ của mình nên đã nói ra tình cảm đó. Ý thức thể hiện ở việc anh D yêu chị E nhưng muốn giấu, nhưng ý thức đó đã được biểu hiện qua những lời nói vô thức khi uống rượu. Trong giờ kiểm tra, F có những hành vi gian lận và không muốn ai biết. F đã thực hiện được hành vi của mình, nhưng khi thu bài giáo viên nói nếu phát hiện thêm được hành vi giam lận nào thì sẽ phạt nặng. Vì vậy, mỗi lần nghe nhắc đến việc gian lận trong thi cử, F lại “giật mình”, lo lắng. Ở đây, việc F giam lận trong thi cử là do ý thức điều khiển, còn cái “giật mình” chính là một phản xạ do vô thức điều khiển. Như vậy, ý thức đã được biểu hiện thông qua vô thức. Trong khoa học điều tra hình sự, việc vận dụng mối quan hệ này của ý thức và vô thức cũng rất cần thiết. Ví dụ trong một vụ án giết người, để tìm ra hung thủ, cơ quan điều tra đã khoanh vùng, tìm ra các đối tượng có liên quan đến nạn nhân. Trong số những người này có đối tượng C có những biểu hiện lạ. Mỗi khi nhắc đến nạn nhân, C đều nói năng không thống nhất, đổ mồ hôi, sợ hãi. Những dấu hiệu trên đều là vô thức. Hành vi giết người (hoặc che dấu tội phạm giết người) của C (ý thức) đã bị biểu hiện ra ngoài bằng những hành động vô thức. 2.3. Ý thức và vô thức có thể chuyển hóa cho nhau. Một hiện tượng vốn lúc đầu nằm ở lĩnh vực vô thức nhưng dần dần có thể được chúng ta ý thức. Ngược lại, một hiện tượng vốn ban đầu được ý thức nhưng sau đó có thể chuyển sang lĩnh vực vô thức. Cũng do sự chuyển hóa từ ý thức sang vô thức mà chúng ta có thể quên đi những chuyện buồn, những kí ức mà gợi lại sẽ gây cảm xúc khó chịu. Đơn giản có thể hiểu như sau: trẻ em tư duy chủ yếu bằng vô thức, lớn lên mới bổ sung dần dần ý thức. Vô thức có từ khi lọt lòng mẹ hay có thể từ khi còn ở trong bụng mẹ. Do vậy các bác sĩ thường khuyên các bà mẹ nghe nhạc cổ điển nhẹ nhàng, những bức tranh phong thủy vì thai nhi tiếp thu thông tin về thế giớiqua người mẹ ngay từ khi đang ở trong bụng mẹ, thông qua hoạt động vô thức của não. Khi bắt đầu đi học, chúng ta học số đếm, số nhân, số chia… chẳng hạn như bảng cửu chương 2×2=4, 5×5=25…ý thức đã dần hình thành trong con người chúng ta và đã trở thành vô thức thông qua hoạt động học tập lặp đi lặp lại từ lúc nào. Bỉểu hiện của sự chuyển hóa từ ý thức sang vô thức này là khi một ai đó hỏi ta 2×2 bằng bao nhiêu, hay 5×5 bằng bao nhiêu thì ta không cần phải nhớ lại hay không cần xem lại bảng cửu chương nữa mà ta có thể trả lời ngay 2×2=4 và 5×5=25 không cần đắn đo suy nghĩ nữa, không cần sự giám của ý thức nữa. Việc học bảng cửu chương là 1 hành vi có ý thức và khi chuyển hóa sang vô thức đó là sự trả lời những gì mình đã học 1 cách tự nhiên mà không cần phải nhớ, tư duy lại. Còn vô thức có thể chuyển hóa thành ý thức không, ta hãy xét ví dụ sau: một đứa trẻ thích một món quà gì đó và đòi mẹ mua cho bằng được bằng cách chỉ tay vào món quà đó và khóc nhưng nó không biết được rằng vì sao nó lại thích, muốn món quà đó. Nhưng khi lớn lên thì nó mới ý thức được nó cần vật đó không và vì sao nó lại cần lại cần. Như vậy hành động đòi mua quà của đứa trẻ là hành vi đòi hỏi của đứa trẻ là vô thức bởi nó không thể ý thức được hành vi của mình. Nhưng khi nó lớn lên thì nó đã ý thức được vấn đề, nó đã có sự đánh giá chọn lựa cho của riêng nó đối với món quà đó. Nó biết vì sao nó thích và nó có nên mua không, hành vi có ý thức thể hiện sự đánh giá, chọn lựa của con người đối với đối tượng. Như vậy, giữa ý thức và vô thức không tồn tại một ranh giới rõ ràng. Chúng không ngừng giải tỏa, chuyển hóa lẫn nhau và có mối quan hệ chặt chẽ này chính là cơ chế giúp đời sống tinh thần của chúng ta cân bằng, không căng thẳng quá tải. III. Kết luận. Tóm lại, ý thức và vô thức luôn đi liền với nhau, có mối quan hệ chặt chẽ. Nhờ mối quan hệ này mà đời sống tinh thần của con người luôn ở trạng thái cân bằng. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhân tích mối quan hệ giữa ý thức và vô thức trong hành vi của con người.doc
Tài liệu liên quan