MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU: . 1 NỘI DUNG: . 1
A. Khái quát chung về Thuế tiêu thụ đặc biệt: . 1
1. Khái niệm: . 1
2. Đặc điểm: 1
3. Tầm quan trọng của thuế tiêu thụ đặc biệt: . 2
B. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế tiêu
thụ đặc biệt ở Việt Nam hiện nay . 2
I. Những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước 2
II. Yếu tố kinh tế . 3
III. Yếu tố xã hội . 4
IV. Trình độ năng lực quản lý của bộ máy quản lý thuế tiêu thụ đặc biệt . 4
V. Yếu tố tâm lý . 5
1. Tâm lý và lợi ích cá nhân . 6
2. Nhận thức cá nhân và sự trợ giúp 6
3.Mục tiêu đồng thuận với mục đích cá nhân . 7
VI. Mức đồng bộ và hoàn thiện của hệ thống pháp luật nước ta . 7
C. Thực trạng thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt
ở Việt Nam hiện nay 8
I. Những thành tựu đạt được . 8
II. Những hạn chế 9
1. Về mức độ linh hoạt của thuế tiêu thụ đặc biệt . 9
2. Về đối tượng chịu thuế . 9
3. Về thuế suất . 10
4. Về vấn đề miễn giảm thuế 10
5.Về giá tính thuế . 10
6. Về công tác quản lý thu nộp thuế . 11
III. Những ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt. 11
KẾT LUẬN 15
17 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4605 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt và ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đời sống.
+ Có thời kì nền kinh tế của nước ta hầu như không phát triển với cơ chế quản lý bằng kế hoạch hoá tập trung, con người sống và chịu áp đặt của cơ chế và vì vậy trong tư tưởng người ta cũng thấy bóng dáng của sự bao cấp – bao cấp cả trong suy nghĩ…sự trì trệ đó là do cơ sở kinh tế thấp kém, ít phát triển thậm chí ở 1 mức độ nào đó còn có thể khẳng định nhà nước quyết định số hàng hoá cụ thể đối với từng người cụ thể. Công bằng mà nói trong giai đoạn này việc ban hành luật thuế tiêu thụ đặc biệt không thật sự cần thiết, do đó đến năm 1990 luật thuế tiêu thụ mới được đưa vào Việt Nam và áp dụng với những hàng hoá ảnh hưởng đến sức khoẻ con người là chủ yếu
+ Tuy nhiên sự hạn chế của cơ chế kế hoạch hoá tập trung không thể chống lại sự phát triển của kinh tế theo một xu hướng mới – cơ chế thị trường với cơ cấu nhiều thành phần. Cơ chế kinh tế mới đã thức dậy những khả năng tiềm ẩn trong xã hội, đời sống xã hội của người dân tăng lên. Kinh tế phát triển kéo theo sự chạy đua về nhu cầu nhất là tầng lớp thượng lưu trong xã hội. Họ bắt đầu có những nhu cầu mới về đời sống cũng như tinh thần, đặc biệt trong đó có cả nhu cầu về những hàng hoá dịch vụ được quy định trong Luật thuế tiêu thụ đặc biệt…Khi nhu cầu về những hàng hóa này xuất hiện thì người dân càng muốn tìm hiểu về luật thuế tiêu thụ đặc biệt, buộc phải thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt
III. Yếu tố xã hội
Sự phát triển của nền kinh tế đương nhiên sẽ dẫn đến sự thay đổi của xã hội. Các điều kiện xã hội rất phức tạp bao gồm nhiều yếu tố như văn hoá, giáo dục, y tế…Ngay những cái được coi là bản sắc cũng có thể bị mai một, thậm chí còn biến chất trước sự thay đổi các điều kiện mới. Nhờ các điều kiện về kinh tế được nâng lên nên các điều kiện về xã hội cũng có nhiều chuyển biến. Sự chuyển biến này cũng xảy ra theo 2 xu hướng hoặc là tích cực hoặc là tiêu cực. Khi nền kinh tế càng kém phát triển thì sự giao lưu văn hoá, lượng thông tin, tri thức…cũng có nhiều hạn chế và do vậy àm khả năng hiểu biết của con người cũng bị giới hạn. Giới hạn này cũng có thể làm cho con người không được tiếp xúc với pháp luật và vì vậy mà dẫn đến không biết pháp luật mà vi phạm quy định pháp luật. Ngược lại khi có nhiều thông tin nó có thể mang đến ảnh hưởng rất mạnh mẽ và cũng xảy ra theo 2 xu hướng. Xu hướng thứ nhất đem lại hiểu biết cho con người, các kiến thức về pháp luật thường thức, nó tạo ra thói quen sống và làm việc theo pháp luật, thói quen đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực. Xu hướng thứ hai là nó có thể đem lại những hiểu biết có hại, nếu các thông tin được cung cấp là những thông tin không “sạch”, có hại chẳng hạn như : các thông tin về lẩn tránh pháp luật, mặt hạn chế của thuế tiêu thụ đặc biệt với kích động không thực thi thuế...dễ dẫn đến sự lệch chuẩn trong cách ứng xử, trong đó có vi phạm pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt. Do đó, vấn đề kiểm soát thông tin và xây dựng kế hoạch tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật là vấn đề hết sức quan trọng đối với nhà nước.
IV. Trình độ năng lực quản lý của bộ máy quản lý thuế tiêu thụ đặc biệt
Thuế là công cụ quan trọng để nhà nước tồn tại và phát riển, qua đó duy trì trật tự công bằng xã hội. Hiện nay nước ta đang phát triển kinh tế thị trương theo định hướng xẫ hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế. Điều này đòi hỏi phải có một đội ngũ các nhà làm luật có trình độ nhận thức cao, nắm bắt được xu hướng phát triển của đất nước, nhạy bén trước những biến đổi của đời sống kinh tế xã hội trên thế giới.
Như vậy có thể thấy trình độ năng lực của các nhà xây dựng pháp luật thuế có ảnh hưởng lớn đến nội dung của pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt. Bởi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt ban hành phải đảm bảo tính khả thi trong quá trình thực hiện, đáp ứng được những yêu cầu của xã hội. Nếu trình độ của các nhà làm luật cao thì tất nhiên pháp luật thuế sẽ đảm bảo được tính khả thi, phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước, thể hiện được nguyện vọng của nhân dân. Ngược lại, nếu trình độ nhận thức của các nhà làm luật còn hạn chế, không nắm bắt được xu thế phát triển chung thì pháp luật thuế nhập khẩu khó có thể được thực hiện tốt và nghiêm minh, hơn nữa cũng không đảm bảo được sự công bằng xã hội. Như vậy, có nghĩa là luật sẽ không có tính khả thi, tạo sự bất bình đẳng trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế của Nhà nước đối với người dân, đồng thời tạo cho người dân ý thức coi thường pháp luật thuế.
Pháp luật thuế nói chung và pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt nói riêng ban hành phải được tổ chức thực hiện nghiêm túc trên thực tiễn. Nếu pháp luật thuế quá phức tạp, vượt quá trình độ quản lý của bộ máy hành thu thì sẽ dẫn đến tình trạng thất thu hoặc lạm thu, hoặc pháp luật thuế đó không được thực hiện đầy đủ trong thực tế. Bởi vậy, khi ban hành pháp luật thuế về chính sách thuế, quản lý thuế phải tính đến yếu tố này, nhằm đảm bảo tính phù hợp với tính khả thi của nó trong thực tiễn.
Trong những năm qua nhà nước đã chăm lo nhiều đến công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học, phẩm chất đạo đức, tác phong cho đội ngũ cán bộ quản lý thuế, tăng cường các điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho công tác quản lý thuế, đổi mới cơ cấu tổ chức ngành thuế cho phù hợp, đổi mới cải cách thủ tục hành chính… Trong điều kiện nền kinh tế phát triển, diện đối tượng cần quản lý khá rộng, lại đặt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, việc nâng cao khả năng quản lý thuế phụ thuộc rất lớn vào công nghệ thông tin với những phần mềm quản lý hiện đại. Song hiện tại hệ thống thông tin vẫn chưa đáp ứng được một khâu toàn diện trong các khâu quản lý thuế, cũng như ở các địa phương, việc kết nối thông tin giữa các cơ quan quản lý nhà nước còn chưa được thực hiện hoàn chỉnh.
Tuy vậy, dù trình độ năng lực của cán bộ thuế đã được nâng cao song vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu quản lý trong điều kiện mới. Do một số chưa làm tròn trách nhiệm quản lý thuế, thậm chí có những trường hợp tiêu cực, tham nhũng; đồng thời công tác tuyên truyền pháp luật thuế còn hạn chế, các tầng lớp nhân dân trong xã hội còn chưa thật sự nắm được nội dung các sắc thuế hiện hành, cũng như quyền lợi và nghĩa vụ khi nộp thuế, điều này dẫn đến việc thực hiện còn nhiều khó khăn, lúng túng, tình trạng trốn thuế, tránh thuế diễn ra thường xuyên, phổ biến.
Nói chung, nhà nước cần thực hiện các giải pháp nâng cao trình độ năng lực quản lý của cả bộ máy quản lý thuế để tiến đến việc ban hành các quy định mới trong pháp luật thuế như quản lý thuế thực hiện theo cơ chế tự khai, tự nộp; quản lý thuế trên cơ sở dữ liệu thông tin đầy đủ… Thực hiện quản lý thuế hiện đại theo chuẩn mực chung của quốc tế. Nếu Việt Nam không chú trọng đến công tác nâng cao năng lực trình độ, năng lực quản lý thuế của bộ máy hành thu thì sẽ gặp nhiều khó khăn trong quản lý thuế nhập khẩu hiện nay, chẳng hạn đối với quản lý giá tính thuế đối với hàng nhập khẩu hiện nay.
V. Yếu tố tâm lý.
Thực thi pháp luật không chỉ bao gồm hiệu lực theo thời gian, không gian và theo đối tượng mà còn bao hàm các phương thức tác động của quy phạm lên các quan hệ xã hội, lên nhận thức của chủ thể các mối quan hệ, kết quả của các sự tác động đó gắn liền với chúng là yếu tố tâm lý – xã hội và nhiều yếu tố khác tham gia vào quá trình chuyển hoá các quy định của pháp luật thành những hàh vi hợp pháp, thành ý thức pháp luật và văn hoá pháp lý.
1. Tâm lý và lợi ích cá nhân
Vì hành vi của con người được hình thành từ những động cơ mang tính chủ quan, trong quá trình thực thi pháp luật bên cạnh những lợi ích không thể không tính đến mức độ hiểu biết pháp luật, các nhu cầu, nguyện vọng mục đích của chủ thể. Nhấn mạnh yếu tố chủ quan Resetov cho rằng: “ Cần phải làm sao để mỗi công dân nhận thức được một cách rõ ràng cách thức và biện pháp thực thi các quyền của mình, biết vận dụng chúng và hiểu được mối quan hệ không tách rời của quyền và nghĩa vụ. Đây là một kênh cần thiết để củng cố sự thống nhất của các quyền lợi của nhà nước với lợi ích của cá nhân đồng thời cũng nhằm hoàn thiện quá trình thực thi pháp luật”
Mối quan hệ giữa quá trình và thực thi pháp luật với tâm lý con người cũng được Giavadxkaia khẳng định: “ Thực thi pháp luật là bằng chứng cho sự tin tưởng và ủng hộ của xã hội công dân, cuả cộng đồng với cơ quan lập pháp, việc xã hội công nhân và ửng hộ pháp luật góp phần hạn chế những phức tạp trong cơ chế thực thi. Ở đây muốn nói tới ý thức tự nguyện, sự nhiệt tình của mỗi công dân và mỗi tổ chức và cộng đồng với việc thực hiện nghĩa vụ của mình”. Bên cạnh đó Giavadxkaia còn cho rằng, ý thức coi thường pháp luật dẫn đến hàng loạt các văn bản pháp luật mang tính chủ quan, đó là ý thức chống đối ( chủ động hoặc thụ động) của những chủ thể khác nhau, là sự không thừa nhận và coi thường các quy định pháp luật. Tất nhiên là theo đó cả các cơ chế mục đích, các biện pháp…được quy định trong luật cũng sẽ được họ ủng hộ
Thông thường mọi người quan tâm đến một văn bản pháp luật sẽ ảnh hưởng như thế nào đến quyền lợi của cá nhân và quyền lợi của nhóm đối tượng. Trong phần lớn các trường hợp, chủ thể không tiếp nhận một đạo luật và không tự giác thực thi pháp luật đó (ở đây không bao gồm trường hợp chủ thể không biết đến sự tồn tại của văn bản hoặc cố ý vi phạm một cách công khai) mà theo họ đạo luật này không đề cập đến lợi ích cá nhân thiết thực của mình. Vì vậy, những mục đích, lợi ích được thể hiện trong đạo luật và được luật bảo vệ cho có thể hiện tính hữu ích đối với xã hội.
2.Nhận thức cá nhân và sự trợ giúp
Nhận thức pháp luật được hình thành bởi múc độ nắm bắt và khả năng phân tích thông tin pháp luật - điều mà không phải ai cũng được trang bị đầy đủ. Đó chính là kiến thức pháp luật, sự am hiểu các thuật ngữ, các phương pháp giải thích, phương pháp logíc chuyên ngành…Thực thi pháp luật phụ thuộc rất nhiều vào trình độ văn hoá pháp lý của mỗi công dân, nghĩa là phụ thuộc vào mức độ được thông tin trong lĩnh vực pháp luật. Lẽ dĩ nhiên những hiểu biết của cá nhân và các quyền và nghĩa vụ của mình đóng 1 vai trò quan trọng trong quá trình thực thi pháp luật, Tuy nhiên không phải lúc nào chúng ta cũng hiểu một cách chính xác từng câu, từng chữ được thể hiện trong văn bản. Bên cạnh đó, những lập luận của những ngươi không có khả năng chuyên môn giải thích pháp luật cũng có thể dẫn đến những điều không hợp pháp. Chính vì vậy, trong quá trình thực thi pháp luật rất cần có sự tư vấn trợ giúp của các chuyên gia pháp lý cho người dân, những người luôn gặp phải khó khăn trong nhận thức cũng như thực thi các quỳên, lợi ích hợp pháp của mình
“ Trong thực tế, có rất nhiều các quy phạm pháp luật được đón nhận một cách tự nhiên thông qua giáo dục, đặc biệt là những quy phạm trùng hợp với các quy phạm đạo đức. Có những quy phạm thì người tự tìm hiểu bằng chính hiểu biết của mình. Nhưng có những quy định của pháp luật, để hiểu được cần có sự giúp đỡ của các chuyên gia pháp lý”
Tuy nhiên, để phát triển tình cảm pháp chế, ngoài việc có môi trường thuận lợi, công dân cần phải được tiếp cận với pháp luật của nhà nước. Thật khó trông đợi sao sự tuân thủ pháp luật chỉ theo thói quen và sự tôn trọng, khi một người không hề được biết đến những quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ cơ bản của mình. Vì vậy, việc phổ biến những kiến thức pháp luật phổ thông là một yếu tố vô cùng quan trọng đối với việc củng cố tình cảm pháp chế của công dân
3. Mục tiêu đồng thuận với mục đích cá nhân
Một trong những điều kiện bảo đảm cho thực thi pháp luật có kết quả là sự đồng thuận giữa các mục tiêu đặt ra của văn bản và định hướng trong quá trình thực thi. Khi xây dựng các quy phạm pháp luật, nhà làm luật luôn mong muốn sao cho các quy định đó được thực thi một cách tự nguyện. Vì vậy, điều quan trọng là mục tiêu của luật phải hoà nhập được với mục đích của các chủ thể với sự khác biệt thấp nhất. Nếu không, các kết quả thu được của quá trình thực thi pháp luật sẽ xa rời với những dự kiến ban đầu của nhà làm luật. Chẳng hạn: hiện nay nhằm khuyến khích sử dụng ô tô phục vụ sản xuất kinh doanh, vận chuyển hành khách công cộng, hạn chế sử dụng ô tô cá nhân pháp luật quy định ô tô từ 24 chỗ ngồi trở lên không thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, điều này cũng phù hợp với tình hình đất nước cũng như tạo điều kiện thuận lợi nhất cho những doanh nghiệp sản vận tải phục vụ lợi ích công cộng.
VI. Mức đồng bộ và hoàn thiện của hệ thống pháp luật nước ta
Tính đồng bộ giữa các quy phạm pháp luật trong các văn bản pháp luật khác nhau sẽ là cơ sở quan trọng cho việc xây dựng pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt được thuận lợi và có tính đồng bộ cao. Trong những năm qua thuế tiêu thụ đặc biệt đã đạt được nhiều kết quả trong việc thực hiện cải cách, nhưng với mục tiêu đặt ra trong cải cách là nâng cao trình độ quản lý thuế tiêu thụ đặc biệt ngang tầm với các nước tiên tiến trong khu vực thì chúng ta còn chưa làm được. Điều này đòi hỏi chúng ta phải xây dựng một hệ thống pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt chặt chẽ hơn.
Sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật có vai trò chủ chốt đối với việc thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt. Nếu hệ thống pháp luật tiêu thụ đặc biệt, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh trong nước cũng như mục đích chung của cá nhân thì pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt sẽ được đảm bảo thực thi trên thực tế. Ngược lại nếu pháp luật có nhiều lỗ hổng lớn tạo điều kiện thuận lợi cho hành vi trốn thuế diễn ra.
Ngoài ra, pháp luật thuế TTĐB không chỉ định rõ chức trách, quyền hạn của từng cơ quan đơn vị trong thực thi nghĩa vụ của mình mà còn phải quy định đảm bảo sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức đó với các cơ quan thuế trong việc quản lý kiểm soát việc nộp thuế TTĐB. Vì vậy, tính đồng bộ thống nhất giữa các pháp luật chuyên ngành trong cùng hệ thống pháp luật chung của nước ta có ảnh hưởng rất lớn tới quá trình xây dựng và thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt.
C. Thực trạng thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam hiện nay
I. Những thành tựu đạt được
Ở nước ta thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) được ban hành và áp dụng từ năm 1990, sau đó được sửa đổi, bổ sung vào các năm 1993, 1995 , và đến năm 1998 khi thực hiện cải cách thuế bước 2, Luật thuế TTĐB mới được ban hành thay thế cho Luật thuế TTĐB trước đây và được áp dụng từ ngày 1/1/1999 cùng với sự áp dụng Luật thuế giá trị gia tăng (GTGT) và Luật thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN). Qua hơn 10 năm thực hiện, thuế TTĐB đã góp phần quan trọng trong việc hướng dẫn phát triển sản xuất và tiêu dùng xã hội; cùng với các loại thuế khác như thuế GTGT, thuế TNDN và thuế xuất nhập khẩu, bước đầu hình thành nên một hệ thống chính sách thuế mới tương đối đồng bộ trong điều kiện hiện nay ở nước ta, góp phần động viên nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nước, khoản thu từ thuế TTĐB hàng năm chiếm từ 15% đến 18% trong tổng số thuế gián thu và chiếm từ 7% đến 10% tổng thu ngân sách nhà nước về thuế và phí . Với những kết quả đạt được trên, có thể thấy việc ban hành và áp dụng thuế TTĐB ở nước ta trong thời gian qua là hợp lý, đúng đắn. Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng, chính sách thuế TTĐB hiện hành ở nước ta đã đặt ra một số vấn đề cần phải được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tế cuộc sống, phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế- xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế.
II. Những hạn chế
1. Về mức độ linh hoạt của thuế TTĐB.
Tuy luật không quy định cụ thể nhưng “Thuế TTĐB của ta là một loại thuế tính theo tỷ lệ % trên đơn vị giá trị (đồng Việt Nam) của đối tượng chịu thuế, không tính theo đơn vị (lít, chiếc)”. Điều đó có mặt thuận lợi về tâm lý nhưng trong một số trường hợp không phục vụ tốt nhất cho mục tiêu điều tiết, định hướng tiêu dùng. Nếu đó là loại hàng hóa có giá cả biến động nhiều, thì việc tính toán thuế, nhất là việc đối chiếu giữa các kì nộp thuế với nhau sẽ trở nên rất phức tạp. Thực tế cho thấy khi đánh thuế TTĐB tính trên cơ sở hiện vật đối với những loại hàng hóa thích hợp sẽ rất có lợi cho Ngân sách Nhà nước vì khi đó nguồn thu về thuế TTĐB ổn định, không bị biến động theo giá cả thị trường. Hơn nữa vì đơn giản, đánh thuế trực tiếp trên từng đơn vị tiêu dùng nên hiệu quả điều tiết cao. Nhà nước rất dễ điều chỉnh mức thuế để khuyến khích hoặc hạn chế sản xuất, tiêu dùng đối với một mặt hàng nào đó khi cần thiết. Việc quy định đánh thuế trực tiếp trên khối lượng hiện vật như vậy còn tránh được những thắc mắc không đáng có từ phía người sản xuất, kinh doanh.
2. Về đối tượng chịu thuế.
Theo quy định hiện hành thuế TTĐB hiện chỉ thu vào 8 loại hàng hóa và 4 loại dịch vụ. Nhìn chung, đối tượng chịu thuế thuế TTĐB hiện nay ở nước ta còn khá hẹp, đi sâu nghiên cứu, cho thấy: có nhiều loại hàng hóa, dịch vụ lẽ ra phải được điều chỉnh bởi thuế TTĐB nhưng chưa được đưa vào diện chịu thuế như các loại thiết bị điện, điện tử gia dụng cao cấp…; ngược lại, có trường hợp có loại hàng hóa đáng lý ra phải được khuyến khích tiêu dùng do yêu cầu sức khỏe, văn minh đô thị thì lại chưa được xem xét đưa ra khỏi diện chịu thuế TTĐB như xe ôtô từ 16-24 chỗ ngồi; có trường hợp lại thể hiện sự phân biệt đối xử giữa hàng hóa có nguồn gốc nhập khẩu và hàng hóa sản xuất trong nước; …Đó là những hạn chế cơ bản về đối tượng chịu thuế của loại thuế này.
3. Về thuế suất.
Thuế suất thuế TTĐB hiện khá phức tạp. Trong 8 mặt hàng chịu thuế thuế TTĐB có đến 12 mức thuế suất cao thấp khác nhau từ 15% - 100%. Đối với mỗi loại hàng hóa, dịch vụ khác nhau có mức thuế suất tương ứng khác nhau, trong một số trường hợp đối với cùng một loại hàng hóa nhưng lại chia theo các tiêu chí khác nhau để áp dụng các mức thuế suất rất chênh lệch nhau, nên biểu thuế càng thêm phức tạp, làm cho việc xác định mức thuế suất áp dụng chính xác rất khó khăn và dễ bị vận dụng tùy tiện. Ví dụ như cùng một mặt hàng là rượu nhưng có đến 5 mức thuế suất khác nhau từ 15% - 70%: rượu thuốc 15%, rượu dưới 200 là 20%, rượu từ 200 – 300 là 25%, rượu từ 300 – 400 là 55%, rượu trên 400 là 70%; hay đối với mặt hàng thuốc lá, nếu sản xuất chủ yếu bằng nguyên liệu trong nước thì áp dụng thuế suất 45% nhưng sản xuất chủ yếu bằng nguyên liệu nhập khẩu thì thuế suất là 65%; …..
Trong khi đó xu hướng chung ở trên thế giới là thực hiện đơn giản về thuế suất. Theo biểu thuế hiện hành của ta thì cùng một mặt hàng nhưng lại chia thành nhiều mức thuế suất khác nhau và rất chênh lệch nhau làm cho biểu thuế phức tạp và việc xác định mức thuế suất chính xác khó khăn, dễ bị vận dụng tùy tiện. Ví dụ, như mặt hàng rượu có đến 5 mức thuế suất khác nhau và rất chênh lệch nhau. Việc phân biệt mức thuế suất theo nguồn gốc hình thành sản phẩm như mặt hàng thuốc lá là để bảo vệ hàng sản xuất trong nước. Nhưng đây cũng là kẽ hở để các doanh nghiệp khai tăng tỉ lệ nội địa trong sản phẩm của mình để được áp dụng mức thuế suất thấp hơn.
4. Về vấn đề miễn giảm thuế.
Theo quy định hiện hành của chính sách thuế TTĐB thì với các cơ sở sản xuất bia quy mô nhỏ (có công suất dưới 10 triệu lít/năm) đang hoạt động nếu nộp đủ thuế TTĐB mà bị lỗ, thì được xét giảm thuế TTĐB tương ứng với số lỗ trong năm xét giảm thuế. Quy định này trong chừng mực nào đó không khuyến khích các cơ sở sản xuất nói trên nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, đầu tư mở rộng sản xuất. Bên cạnh đó, luật còn quy định: cơ sở lắp ráp sản xuất ô tô trong nước được giảm đến 95% thuế TTĐB phải nộp. Điều này có nghĩa là nếu ô tô nhập khẩu thì phải chịu mức thuế suất TTĐB từ 30% - 100%, còn nếu là ô tô sản xuất trong nước thì được giảm đến 95% thuế TTĐB phải nộp, tức là chỉ nộp thuế TTĐB với mức thuế suất tương ứng từ 1,5% đến 5% mà thôi. Quy định phân biệt này nhằm bảo hộ cho ngành lắp ráp ô tô còn khá non trẻ ở nước ta trong thời gian qua. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, nước ta đang mở cửa hội nhập sâu rộng, đang thực hiện các cam kết theo chương trình CEPT, hiệp định thương mại Việt Mỹ…., quy định đó không còn phù hợp nữa vì đã vi phạm nguyên tắc đãi ngộ quốc gia.
5. Về giá tính thuế.
Theo quy định của Luật thuế TTĐB thì giá tính thuế TTĐB là giá do cơ sở sản xuất bán ra tại nơi sản xuất chưa có thuế TTĐB, tức là giá bán có tính cả chi phí bao bì, vỏ hộp trong đó, thế nhưng trong thực tế thì lại áp dụng không thống nhất, không đúng theo qui định của Luật thuế TTĐB, có loại hàng hóa áp dụng trên cơ sở giá bán có bao bì, có trường hợp áp dụng giá bán không có bao bì nên không đảm bảo công bằng giữa các doanh nghiệp cũng như giữa các hàng hóa cùng loại với nhau. Ví dụ, đối với mặt hàng bia, giá tính thuế đối với bia các loại (trừ bia hộp) thì giá tính thuế TTĐB có tính cả chi phí bao bì trong đó, nhưng đối với bia hộp sản xuất trong nước lại được cho loại trừ chi phí bao bì vỏ hộp là 3.000đ/lít ra khỏi giá bán để làm căn cứ tính thuế thuế TTĐB. Mặt khác, do quy định hiện hành không khống chế về mức giá tính thuế đối với hàng hóa chịu thuế TTĐB nên một số cơ sở sản xuất hàng hóa thuộc diện chịu thuế TTĐB đã lách thuế bằng cách thành lập các cơ sở kinh doanh thương mại hạch toán độc lập với cơ sở sản xuất để từ đó hạ giá bán của cơ sở sản xuất bán cho cơ sở kinh doanh nhằm làm giảm số thuế TTĐB phải nộp vào ngân sách nhà nước.
6. Về công tác quản lý thu nộp thuế TTĐB.
Công tác thực hiện kê khai của các doanh nghiệp chưa được tốt theo quy định của Nhà nước, hơn nữa việc kê khai hiện nay cũng chưa đảm bảo chặt chẽ. Việc quản lý thu thueets TTĐB với rượu, vàng mã, hàng mã do tư nhân sản xuất gặp nhiều khó khăn vì sản xuất nhỏ, phân tán, lén lút, không đăng kí kinh doanh, không đăng kí nộp thuế. Một vấn đề nữa là hóa đơn thuế TTĐB rất khó kiểm soát. Khoản 2, Điều 9 Luật thuế TTĐB qui định: “Việc mua, bán hàng hóa. Dịch vụ và vận chuyển hàng hóa chịu TTĐB phải có hóa đơn, chứng từ theo qui định của pháp luật”.
Qui định này có vẻ cụ thể nhưng thực tế ở nước ta còn nhiều hàng hóa, dịch vụ thuộc diện chịu thuế TTĐB nhưng không thể lập hóa đơn, chứng từ mỗi lần mua bán như vàng mã, hàng mã..Vì vậy, cần phải có hướng dẫn cụ thể, sát thực hơn. Tình trạng thu nộp thuế TTĐB hiện nay vẫn chưa được tốt, nợ đọng thuế khá phổ biến diễn ra ở nhiều doanh nghiệp với số nợ đọng rất lớn.
III. Những ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt
Từ những vấn đề đặt ra trên đây, để thuế TTĐB phù hợp với quá trình hoàn thiện hệ thống chính sách thuế hiện nay của nước ta trong điều kiện mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, theo chúng tôi trong thời gian tới chính sách thuế TTĐB cần được nghiên cứu sửa đổi bổ sung một số điểm sau :
Thứ nhất, nên mở rộng đối tượng chịu thuế TTĐB đối với các loại hàng hóa, dịch vụ sau : các thiết bị điện, điện tử gia dụng cao cấp; điện thoại di động và dịch vụ kinh doanh nó; vật dụng cao cấp làm bằng pha lê, thảm len; mỹ phẩm cao cấp,… không phân biệt đó là hàng hóa sản xuất trong nước hay hàng hóa nhập khẩu. Bởi đây là những loại hàng hóa, dịch vụ cao cấp mà thành phần sử dụng đa số là tầng lớp giàu có. Việc mở rộng diện chịu thuế TTĐB với những loại hàng hóa dịch vụ này sẽ góp phần điều tiết thu nhập, định hướng tiêu dùng, mở rộng thêm được nguồn thu, Ngoài ra, do dự thảo sửa đổi luật thuế GTGT mới có điều chỉnh giảm thuế suất đối với hoạt động xổ số kiến thiết, nên cần bổ sung hoạt động này vào diện chịu thuế TTĐB nhằm khai thác tối đa số thu từ hoạt động này . Qua việc mở rộng đối tượng chịu thuế TTĐB trên đây, sẽ cho phép tăng thu từ loại thuế này góp phần bù đắp cho việc giảm thu từ các loại thuế khác (thuế nhập khẩu , thuế sử dụng đất nông nghiệp…). Ở các nước, hàng hóa dịch vụ thuộc diện chịu thuế TTĐB so với nước ta đều khá rộng, như thuế TTĐB của Malaysia thu vào 17 loại hàng hóa, Hungari thu vào 22 loại hàng hóa, Thụy Điển thu vào 19 nhóm hàng hóa,… Mặt khác, nên đưa mặt hàng ô tô từ 16 đến 24 chỗ ngồi ra khỏi danh mục đối tượng chịu thuế TTĐB vì đây là loại phương tiện lưu thông nhiều chỗ ngồi, thiết nghĩ nên được khuyến khích sử dụng để góp phần giảm thiểu áp lực tình trạng quá tải giao thông trong điều kiện nước ta hiện nay.
*** Trong điều kiện hiện nay, việc cắt giảm thuế xuất nhập khẩu để phù hợp với thông lệ quốc tế như đã cam kết sẽ làm giảm nguồn thu ngân sách nhà nước từ loại thuế này. Do vậy, việc mở rộng diện chịu thuế TTĐB là cần thiết để bù đắp ngân sách bị giảm thu do giảm thuế suất thuế nhập khẩu. Đối tượng chịu thuế TTĐB được mở rộng hợp lý sẽ góp phần tăng thu cho ngân sách Nhà nước đồng thời phát huy mạnh mẽ được tác dụng của thuế trong việc điều tiết sản xuất hướng dẫn tiêu dùng. Xuất phát từ thực trạng kinh tế xã hội của đất nước và những quy định về đối tượng chịu thuế TTĐB còn nhiều điểm chưa phù hợp, chúng ta nên xem xét bổ sung một số loại hàng hóa, dịch vụ sau vào đối tượng chịu thuế.
- Đồ tranh sức bằng vàng, đá quý. Đây là mặt hàng xa xỉ, chỉ những người có thu nhập cao và đa số là dân thành thị mới tiêu dùng. Vì vậy, nên đưa vào danh mục chịu thuế TTĐB để điều tiết, phân phối lại thu nhập.
- Điện thoại di động: Hiện nay mặt hàng này chủ yếu là nhập khẩu phải thực hiện cắt giảm thuế quan theo chương trình của CEPT do vậy nên đưa vào danh mục chịu thuế TTĐB để đảm bảo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước từ mặt hàng này.
- Xe máy: xe máy là phương tiện giao thông cá nhân, sử dụng xe máy vừa tốn kém, vừa không an toàn, gây ô nhiễm môi trường và có rất nhi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nhũng yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam hiên nay và hướng hoàn thiện.doc