MỤC LỤC
CHƯƠNG I: TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM TRONG THÁNG 4 5
1. THẾ GIỚI 5
1.1 Nhật Bản hậu Fukushiuma 5
1.2 Chiến tranh Libya 6
1.3 Nội chiến Trung Đông – Bắc Phi 7
2. VIỆT NAM 8
2.1 Tin đồn thất thiệt ăn cá rô đầu vuông bị ung thư 8
2.2 Vụ kiện giữa Việt Nam Airline va ông Dương Minh Khương 8
2.3 Quyết định 24/2011 của Thủ tướng Chính phủ về điều chỉnh giá bán điện theo cơ chế thị trường 9
2.4 Phiên họp thứ 39 của UBTVQH 10
CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM THÁNG 4 12
1. THẾ GIỚI 12
1.1 Mỹ 12
1.2 Châu Âu 13
1.3 Châu Á 14
1.3.1 Trung Quốc 14
1.3.2 Nhật Bản 15
2. VIỆT NAM 16
2.1 Tình hình lạm phát 17
2.2 Các chỉ số kinh tế 17
2.2.1 Chỉ số FDI 17
2.2.2 Chỉ số CPI 18
2.2.3 Chỉ số tăng trưởng tín dụng 22
2.3 Nợ công 22
2.4 Xuất nhập khẩu 24
2.4.1. Xuất khẩu 24
2.4.2. Nhập khẩu 26
2.4.3. Cán cân thương mại 28
2.5 Lãi suất 30
2.6 Tỉ giá 33
2.7 Giá vàng, giá dầu 33
CHƯƠNG III: TÌNH HÌNH THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THÁNG 4 37
1. CHỨNG KHOÁN THẾ GIỚI 37
2. CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM 41
CHƯƠNG IV: NHỮNG CHÍNH SÁCH ĐIỀU TIẾT CỦA NHÀ NƯỚC 44
1. CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA 44
2. CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 44
2.1 Tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc (CRR) lên 2 điểm phần trăm 44
2.2. Khống chế mức trần lãi suất huy động USD 45
2.3 Giảm giới hạn cho cá nhân trong việc mang USD ra nước ngoài mà không có tờ khai hải quan 45
2.4 Ban hành các biện pháp hành chính để kiểm soát việc vay USD của các đơn vị xuất/nhập khẩu 45
CHƯƠNG V: “BỨC TRANH” KINH TẾ THÁNG 4 VÀ DỰ BÁO TÌNH HÌNH THÁNG 5 47
TÀI LIỆU THAM KHẢO 50
47 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1536 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Phân tích thông tin tài chính, kinh tế, chính trị, xã hội tháng 4 của thế giới và Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
óa toàn cầu tăng mạnh. Nỗi lo lạm phát cùng với chính sách thắt chặt tiền tệ chi phối hoàn toàn hoạt động trên thị trường chứng khoán với đà giảm điểm đóng vai trò chủ đạo, VN - index có lúc giảm về gần mức 450 điểm, HNX- index về dưới mức 85 điểm.
CHỈ SỐ GIÁ TIÊU DÙNG
CHỈ SỐ GIÁ VÀNG VÀ CHỈ SỐ GIÁ ĐÔLA MỸ CẢ NƯỚC
KHU VỰC THÀNH THỊ
Tháng 4 năm 2011
Đơn vị tính: %
CHỈ SỐ GIÁ THÁNG 4 NĂM 2011 SO VỚI
Bốn tháng đầu năm 2011 so với cùng kỳ năm 2010
Kỳ gốc năm 2009
Tháng 4 năm 2010
Tháng 12 năm 2010
Tháng 3 năm 2011
CHỈ SỐ GIÁ TIÊU DÙNG
127.24
117.20
109.40
103.32
113.77
I. Hàng ăn và dịch vụ ăn uống
137.18
124.37
112.94
104.48
119.28
1- Lương thực
136.76
122.30
108.55
102.53
117.03
2- Thực phẩm
138.17
127.07
114.96
105.65
121.40
3- Ăn uống ngoài gia đình
135.01
119.93
112.00
103.43
116.20
II. Đồ uống và thuốc lá
121.28
111.37
105.84
100.96
110.56
III. May mặc, mũ nón, giầy dép
117.94
111.61
105.87
101.67
110.19
IV. Nhà ở và vật liệu xây dựng (*)
140.61
120.12
110.31
104.55
117.79
V. Thiết bị và đồ dùng gia đình
111.49
108.29
103.88
101.37
107.15
VI. Thuốc và dịch vụ y tế
106.54
104.98
102.20
100.96
104.36
VII. Giao thông
132.07
116.55
115.82
106.09
108.56
VIII. Bưu chính viễn thông
89.49
95.62
100.06
100.06
95.13
IX. Giáo dục
125.07
121.56
104.07
100.36
120.70
X. Văn hoá, giải trí và du lịch
114.21
108.37
104.18
101.21
107.61
XI. Hàng hoá và dịch vụ khác
124.60
111.85
105.10
100.90
111.21
CHỈ SỐ GIÁ VÀNG
191.54
140.70
103.33
98.80
137.97
CHỈ SỐ GIÁ ĐÔ LA MỸ
121.46
110.55
102.03
98.39
110.54
(*) Nhóm này bao gồm: tiền thuê nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng
2.2.3 Chỉ số tăng trưởng tín dụng
Tính đến 21/4/2011, tín dụng đối với nền kinh tế ước tăng 0,11% so với tháng trước, trong đó tín dụng bằng VND tăng 0,14%, tín dụng bằng ngoại tệ tăng 0,02%. So với cuối năm trước, tín dụng đối với nền kinh tế ước tăng 5,01%.
Kết quả trên cho thấy các ngân hàng đang gặp khó khăn trong huy động vốn. Tăng trưởng huy động tính từ đầu năm ở mức thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng tín dụng. Tuy nhiên, mức tăng trưởng tín dụng tính từ đầu năm vẫn nằm trong mục tiêu kiềm chế chung dưới 20% cho cả năm. Riêng tín dụng ngoại tệ đã giảm tốc rõ rệt do định hướng kiểm soát chặt của Ngân hàng Nhà nước, cũng như cơ chế cho vay mới vừa áp dụng.
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) công bố đến ngày 27-4-2011 tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống đạt 5,63% so với cuối năm ngoái. Con số tăng trưởng tín dụng ba tháng đầu năm được cơ quan quản lý ngành ngân hàng đưa ra trước đó là 4,81%. Tính ra tháng 4 tăng trưởng tín dụng chỉ có 0,82% và là tháng đầu tiên kể từ cuối quí 3-2010 tín dụng hãm đà tăng. Điều này có thể hiểu được do lãi suất cho vay từ tháng 4 đến nay tăng vọt, có ngân hàng cho vay tới 26%/năm.
Không doanh nghiệp làm ăn chân chính nào có thể chịu được lãi suất như thế! Phát biểu trong một cuộc họp với giới chức ngân hàng tại TPHCM mới đây, đại diện Tổng công ty Thương mại Sài Gòn (Satra) khẳng định: “Chỉ có những đơn vị đánh quả chớp nhoáng mới dám chạm đến lãi suất vay hiện nay. Ngay cả những doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả, lợi nhuận biên 20% cũng không thể “thở” được với lãi suất”.
2.3 Nợ công
Bồ Đào Nha ngày 6/4 vừa phải xin cứu trợ vỡ nợ từ Liên minh châu Âu (EU), gã khổng lồ kinh tế thứ tư trong khu vực là Tây Ban Nha cũng “hắt hơi, sổ mũi” Hy Lạp có nguy cơ phải cơ cấu lại nợ công dù đã được EU và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) hỗ trợ tài chính.
Khác với trường hợp của Hy Lạp và Ireland, gói cứu trợ trị giá 80 tỷ euro (116 tỷ USD) dành cho Bồ Đào Nha đã được EU và IMF thông qua nhanh chóng.
Nhiều nhà phân tích gợi ý Hy Lạp cơ cấu lại một nửa số nợ hiện nay, tập trung vào các chủ nợ tư nhân để khôi phục kinh tế trong vòng 15-20 năm tới. Tuy nhiên, giải pháp này khó khả thi vì EU đã cam kết không thanh toán cho bất kỳ chủ nợ tư nhân nào trước năm 2013.
Trong bối cảnh kinh tế Khu vực đồng euro còn mong manh, quyết định như vậy sẽ tạo “hiệu ứng domino” cơ cấu lại nợ công với các con bài tiếp theo là Hy Lạp và Ireland, đồng thời đe dọa cán cân thanh toán của các ngân hàng trong khu vực.
Dù có thể giúp Hy Lạp nới lỏng “thòng lọng” nợ công và chấm dứt nhanh các biện pháp khắc khổ không được lòng dân, giải pháp cơ cấu lại nợ sẽ khiến Athens phải trả giá đắt là khó có khả năng vay vốn trên thị trường trong tương lai, và giáng “đòn chí tử” vào những ngân hàng đang nắm một lượng lớn trái phiếu chính phủ của Hy Lạp.
Hồi đầu tháng Tư năm nay (ngày 4/4), Bộ Tài chính Mỹ dự đoán, trong khoảng thời gian từ 15/4 đến 31/5, nợ công của nước này sẽ chạm tới mức trần 14.300 tỷ USD mà pháp luật liên bang cho phép. Ngày 19/4, với tư cách là chủ nợ chính của Mỹ, Trung Quốc đã lên tiếng kêu gọi Mỹ cần đưa ra những “biện pháp có trách nhiệm” để bảo vệ các nhà đầu tư.
Nếu Quốc hội chậm hành động, thì nguy cơ lớn hơn đối với nước Mỹ, các nhà đầu tư ở đây cũng như trên khắp thế giới sẽ đánh mất niềm tin vào khả năng thực hiện các cam kết và nghĩa vụ của Mỹ.
Việt Nam Mức nợ dư Chính phủ và nợ công tiến sát mức trần cho phép.
Ảnh hưởng nợ công đến nên kinh tế đến Châu Âu và thế giới:
Khủng hoảng nợ công làm tổn thương đồng EURO: Ttrái phiếu, cổ phiếu có “quốc tịch” Châu Âu và đồng tiền sử dụng trong Eurozone cũng bị giới đầu tư “hắt hủi”. Điều này sẽ làm mất ổn định lãi suất liên ngân hàng của đồng Euro, khiến nhà đầu tư mất lòng tin vào đồng tiền chung Euro và có thể liên đới đến các nước có tình trạng nợ công tương tự như Bồ Đào Nha, Ý và Tây Ban Nha.
Khủng hoảng nợ phủ bóng đen lên phục hồi kinh tế thế giới:
- Trước tiên, có thể thấy sự phục hồi kinh tế ở khu vực châu Âu sẽ chậm hơn và khá khiêm tốn khi mà Đức và Pháp sẽ phải chia sẻ gánh nặng lớn từ gói cứu trợ những thành viên khó khăn trong cộng đồng do vậy nguồn lực cho những chính sách tài khóa trong nước họ.
- Một số nước cho vay trong khu vực lại lo ngại rằng các vấn đề của châu Âu sẽ gâytác động tiêu cực tới toàn bộ hệ thống tài chính, khiến các ngân hàng thắt chặt cho vay trong thời gian ngắn hạn và làm cho các khoản tiền cứu trợ của chính phủ khó tiếp cận doanh nghiệp và người tiêu dùng.
Ảnh hưởng đến nền kinh tê Việt Nam: Gánh nặng vay nợ gia tăng cộng với thiếu sự bù đắp từ ngoại hối có thể dẫn đến các biện pháp như tăng thuế, tăng vay nợ và giảm đầu tư cho các chương trình phát triển xã hội.
2.4 Xuất nhập khẩu
2.4.1. Xuất khẩu
Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá tháng 4 ước đạt 7,3 tỷ USD, giảm 2,0% so với tháng 3, trong đó, xuất khẩu của doanh nghiệp trong nước ước đạt 2,9 tỷ USD, giảm 14,5%; xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 4,4 tỷ USD, tăng 8,5%. So với tháng 4/2010, kim ngạch xuất khẩu có tốc độ tăng trưởng 33,7%, trong đó, xuất khẩu của doanh nghiệp trong nước tăng 16,2%; xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài kể cả dầu thô tăng 48,5% (không kể dầu thô - tăng 36,2%).
Tính chung 4 tháng so với cùng kỳ, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 26,94 tỷ USD, tăng 35,7%, trong đó, xuất khẩu của doanh nghiệp trong nước ước đạt 11,75 tỷ USD, tăng 34,0%; xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài kể cả dầu thô đạt 15,19 tỷ USD, tăng 37,0% (không kể dầu thô - tăng 36,2%) (Phụ lục 3).
Xét theo nhóm hàng, so với cùng kỳ, nhóm nông lâm thủy sản ước đạt 6,47 tỷ USD, tăng 50%, chiếm tỷ trọng 24,0% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước; nhóm nhiên liệu và khoáng sản ước đạt 3,52 tỷ USD, tăng 30,8%, chiếm 13,1%; nhóm công nghiệp chế biến ước đạt 12,6 tỷ USD, tăng 24,4%, chiếm 46,8% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước; hàng hóa khác ước đạt 4,36 tỷ USD, tăng 59,5%.
Xét theo mặt hàng, so với cùng kỳ, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản tăng 27,8%; gạo tăng 17,4% về lượng và tăng 9,5% về kim ngạch; cà phê tăng 37,3% về lượng và tăng 1,12 lần về kim ngạch; sắn và sản phẩm sắn tăng 72,6% về lượng và tăng 1,2 lần về kim ngạch; cao su tăng 32,9% về lượng và tăng 1,15 lần về kim ngạch; dầu thô tăng 2,5% về lượng và tăng 41,4% về kim ngạch; than đá giảm 40,2% về lượng và giảm 20% về kim ngạch; hàng dệt và may mặc kim ngạch tăng 33,1%; giầy, dép các loại kim ngạch tăng 26,4%; gỗ và sản phẩm gỗ kim ngạch tăng 12,9%; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện kim ngạch tăng 11,4%; ...
Xét theo giá, giá hầu hết các mặt hàng xuất khẩu tiếp tục tăng đóng góp vào tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu. Cụ thể: giá hạt điều tăng 40,0%, cà phê tăng 54,1%, chè các loại 4,6%, hạt tiêu tăng 66,1%, sắn và sản phẩm từ sắn tăng 27,5%, than đá tăng 32,9%, dầu thô tăng 38,0%, cao su tăng 62,7%, xăng dầu các loại tăng 36,4%, sắt thép tăng 26,1%.... Riêng giá gạo giảm 6,6% so với cùng kỳ.
Xét theo thị trường, xuất khẩu vào thị trường Châu Á tăng 39,1%, chiếm tỷ trọng 50,5% tổng kim ngạch xuất khẩu, trong đó: xuất khẩu vào ASEAN tăng 19,9%, xuất khẩu vào Trung Quốc tăng 57,3%; xuất khẩu vào thị trường Châu Âu tăng 51,8%, chiếm tỷ trọng 19,5%, trong đó xuất khẩu vào EU tăng 51,7%; thị trường Châu Mỹ tăng 25,8%, chiếm tỷ trọng 21,1%, trong đó, thị trường Mỹ tăng 23,7%; thị trường Châu Phi tăng 12,0%, chiếm tỷ trọng 1,2%; thị trường Châu Đại Dương giảm 17,5%, chiếm tỷ trọng 2,5%.
2.4.2. Nhập khẩu
Kim ngạch nhập khẩu tháng 4 ước đạt 8,7 tỷ USD, giảm 1,8% so với tháng 3 nhưng tăng 30,2% so với tháng 4/2010, trong đó, nhập khẩu của doanh nghiệp 100% vốn trong nước ước đạt 4,8 tỷ USD, giảm 1,6% so với tháng 3 nhưng tăng 25,6% so với tháng 4/2010; nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 3,9 tỷ USD, giảm 2,0% so với tháng 3 nhưng tăng 36,4% so với tháng 4/2010.
Tính chung 4 tháng, kim ngạch nhập khẩu ước đạt 31,83 tỷ USD, tăng 29,1% so với cùng kỳ, trong đó, nhập khẩu của doanh nghiệp 100% vốn trong nước ước đạt 17,95 tỷ USD, tăng 24,5%; kim ngạch nhập khẩu của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đạt 13,88 tỷ USD, tăng 35,5% .
Xét theo nhóm hàng, nhóm hàng hoá cần nhập khẩu ước đạt 26,09 tỷ USD, tăng 28,8%, chiếm tỷ trọng 81,9% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước; nhóm hàng hoá cần kiểm soát nhập khẩu ước đạt 1,66 tỷ USD, tăng 23,2%, chiếm tỷ trọng 5,2%; nhóm hàng cần hạn chế nhập khẩu ước đạt 2,03 tỷ USD, tăng 17,4%, chiếm tỷ trọng 6,4%; các hàng hoá khác ước đạt 2,06 tỷ USD, tăng 53,7%, chiếm tỷ trọng 6,5% trong tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước.
Xét theo mặt hàng, xăng dầu tăng 17,9% về lượng và tăng 64,2% về kim ngạch; thép các loại giảm 8,6% về lượng nhưng tăng 17,2% về kim ngạch; phân bón tăng 7,8% về lượng và tăng 1,3% về kim ngạch; giấy các loại tăng 22,7% về lượng và tăng 36,4% về kim ngạch; chất dẻo nguyên liệu tăng 18,1% về lượng và tăng 39,6% về kim ngạch; kim ngạch máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng tăng 17%; kim ngạch máy tính, điện tử và linh kiện tăng 29,4%; kim ngạch vải các loại tăng 42,1%; nguyên phụ liệu dệt may, da, giầy tăng 20,8%,v.v...
Xét theo giá, cũng như xuất khẩu, giá nhập khẩu bình quân của nhiều mặt hàng tiếp tục tăng ảnh hưởng đáng kể đến mức tăng kim ngạch nhập khẩu của cả nước: giá xăng dầu các loại tăng 39,4%, khí đốt hóa lỏng tăng 31,7%, chất dẻo nguyên liệu tăng 18,3%, sợi các loại tăng 38,8%, thép các loại tăng 28,3%, lúa mỳ tăng 39,7%, v.v...
Xét theo thị trường, nhập khẩu từ thị trường Châu Á tăng 34,0%, trong đó: nhập khẩu từ ASEAN tăng 41,2%, nhập khẩu từ Trung Quốc tăng 24,8%; nhập khẩu từ thị trường Châu Âu tăng 2,1%, trong đó: nhập khẩu từ EU tăng 7,0%; nhập khẩu từ thị trường Châu Mỹ tăng 21,8%; nhập khẩu từ thị trường Châu Phi tăng 34,8%; nhập khẩu từ thị trường Châu Đại Dương tăng 77,2%.
2.4.3. Cán cân thương mại
Nhập siêu tháng 4 ước khoảng 1,4 tỷ USD, chiếm khoảng 19,2% kim ngạch xuất khẩu; tính chung 4 tháng khoảng 4,9 tỷ USD, chiếm 18,2% kim ngạch xuất khẩu.
Khối doanh nghiệp đầu tư nước ngoài xuất siêu trên 1,3 tỷ USD (không kể dầu thô - nhập siêu 1,15 tỷ USD). Tuy nhiên, do kim ngạch nhập khẩu từ Trung Quốc, ASEAN vẫn tiếp tục tăng mạnh nên nhập siêu từ Trung Quốc gần 4 tỷ USD và từ ASEAN khoảng 2,6 tỷ USD.
Tình trạng nhập siêu quá lớn từ một số thị trường nước ngoài do nước ta trong giai đoạn đang đầu tư phát triển, đầu tư cho sản xuất với phần lớn máy móc phải nhập khẩu, sản xuất chưa đủ hay chưa tự sản xuất được... đã đẩy thâm hụt thương mại của nước ta ngày càng tăng, ảnh hưởng không nhỏ đến ổn định kinh tế vĩ mô và kiềm chế lạm phát.
Khi chúng ta nhập siêu lớn thì tác động đến dự trữ ngoại hối, cung cầu ngoại tệ, chi tiêu quốc gia và tác động đến giá thực của đồng tiền Việt Nam. Nhập siêu là một trong những nguyên nhân làm cho kinh tế vĩ mô không ổn định.
Hạn chế nhập siêu cần phải xây dựng hàng rào kỹ thuật, phân tích rõ cơ cấu nhập khẩu số lượng lớn hàng tiêu dùng không thiết yếu để biết được những mặt hàng nào trực tiếp phục vụ sản xuất và những mặt hàng gì chỉ phục vụ cho cuộc sống hằng ngày của người dân. Trên cơ sở đó, cơ quan quản lý sẽ định hướng chính sách rà soát để có cơ sở cấp vốn vay nhập hàng, cũng như sử dụng các biện pháp khác, trong đó có việc cấp giấy phép tự động, nhằm hạn chế nhập khẩu những mặt hàng tiêu dùng không thiết yếu.
Nếu siết mạnh quản lý nhập khẩu sẽ gây trở ngại cho phát triển của nền kinh tế trên mọi phương diện, do đó việc xuất khẩu và kiềm chế nhập siêu phải được tiến hành một cách thận trọng nhất là trong bối cảnh hội nhập hiện nay, khi sức cạnh tranh của nền kinh tế nói chung cũng như của doanh nghiệp nói riêng và của một số sản phẩm hàng hóa đã không cạnh tranh được với hàng nước ngoài, nếu chúng ta siết quá mạnh, quá đột ngột, sẽ làm tắc nghẽn hoạt động kinh tế trên mọi phương diện, tác động sẽ nguy hại hơn. Cho nên việc điều hành xuất nhập khẩu và kiềm chế nhập siêu phải được tiến hành rất thận trọng, có tính toán để giảm thiểu tác động đến kinh doanh và xuất nhập khẩu.
Để hạn chế nhập siêu trong bối cảnh kinh tế hiện nay, việc tăng rào cản thuế và phi thuế đối với hàng nhập khẩu không thiết yếu phục vụ sản xuất tiêu dùng cần phải tuân thủ lộ trình giảm thuế đã được cam kết. Cần rà soát lại các khoản thuế, dòng thuế với các hàng hóa nhập khẩu, nhất là nhóm hàng hạn chế nhập khẩu và áp dụng đến mức cao nhất mà lộ trình cam kết với Tổ chức thương mại thế giới.
2.5 Lãi suất
Tuần đầu tiên trong tháng 4 từ 2/4 - 8/4/2011, lãi suất tiền gửi tiết kiệm có nhiều biến động,trong đó tập trung chủ yếu vào lãi suất không kỳ hạn, các nhà băng nhỏ ra sức “cạnh tranh” giữ chân khách hàng bằng những “cách riêng”.
Mức lãi suất huy động trung bình đối với VNĐ là +- 13,41% /năm (lĩnh lãi cuối kỳ), không có nhiều biến động
. Tuy nhiên, lãi suất trung bình không kỳ hạn tăng cao, tăng gần 1% so với tuần trước, mức trung bình hiện tại là 4,29%/năm, cao nhất đang thuộc về ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội ( Habubank) 12%/năm, kế tiếp là các nhà băng như: MDB, KienlongBank, Southern bank, TRUSTBank, GiadinhBank, VietA Bank, Nam Á Bank với mức huy động từ 5,5% đến 10%/năm, đặc biệt có sự tham gia của ngân hàng liên doanh Việt Thái (Vinasiambank) với mức huy động Không kỳ hạn (KKH) khá cao 10%/năm.
Thực tế này đã khiến nhiều tổ chức, cá nhân thay vì lựa chọn hình thức gửi tiền có kỳ hạn, thì nay đã chuyển sang thành không kỳ hạn để linh hoạt trong việc rút vốn và lãi khi có nhu cầu.
Bên cạnh những biến động của lãi suất KKH thì lãi suất có kỳ hạn “êm ắng” hơn, đối với VNĐ lãi suất cao nhất đang thuộc về các ngân hàng như: ACB, SeAbank, Habubank, SCB, ABBank, Techcombank, Vietcombank, VietinBank, Agribank,…; Đối với USD, mức lãi suất cao nhất đang thuộc về SeABank, GiaDinhBank,Navibank, TienPhongBank,…mức lãi suất dao động từ +- 5.5% đến +- 6.2%/năm ( lĩnh lãi cuối kỳ) chủ yếu ở các kỳ hạn từ 3 tháng đến 6 tháng và trong tuần qua, lãi suất USD có dấu hiệu giảm nhẹ ở các kỳ hạn.
Với các kỳ hạn tuần VNĐ: 1 tuần, 2 tuần, 3 tuần mức lãi suất cao nhất đang thuộc về SeABank, Habubank, VietinBank, Vietcombank, ACB với mức huy động 14%/năm.
Lãi suất huy động vàng, mức cao nhất đang thuộc về các ngân hàng như: ACB, OCB, SouthernBank, DongA Bank,…
Sang đến tuần lễ thứ 2, 9/4 - 15/4/2011, lãi suất tiền gửi tiết kiệm VNĐ có kỳ hạn không có nhiều thay đổi, ngoại trừ lãi suất không kỳ hạn và sự thay đổi mạnh của lãi suất USD .
Mức lãi suất huy động trung bình đối với VNĐ là +- 13.42% /năm ( lĩnh lãi cuối kỳ). Mức lãi suất huy động trung bình không kỳ hạn là 4,29%/năm ( theo thông số 39 ngân hàng đang niêm yết trên website www.laisuat.vn ), cao nhất đang thuộc về ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội ( Habubank) 12%/năm, kế tiếp là các nhà băng như: MDB, KienlongBank, Southern bank, TRUSTBank, GiadinhBank, VietA Bank, NamÁ Bank với mức huy động từ 5,5% đến 10%/năm, đặc biệt có sự tham gia của ngân hàng liên doanh Việt Thái ( Vinasiambank) với mức huy động Không kỳ hạn (KKH) khá cao 10%/năm.
Với sự tăng mạnh của lãi suất không kỳ hạn đã khiến nhiều tổ chức, cá nhân thay vì lựa chọn hình thức gửi tiền có kỳ hạn, thì nay đã chuyển sang thành không kỳ hạn để linh hoạt trong việc rút vốn và lãi khi có nhu cầu và đây cũng là nguyên nhân tạo nên làn sóng cạnh tranh giữa các nhà băng nhằm giữ chân khách hàng.
Tuần lễ thứ 3 từ 16/4 - 22/4/1011 mức lãi suất huy động trung bình đối với VNĐ là +- 13.43% /năm ( lĩnh lãi cuối kỳ). Cao nhất vẫn đang thuộc về các kỳ hạn ngắn hạn từ 1 tháng đến 3 tháng với mức huy động trung bình là 13.96%/năm.
Mức lãi suất huy động trung bình không kỳ hạn là 4,29%/năm, cao nhất đang thuộc về ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội ( Habubank) 12%/năm, kế tiếp là các nhà băng như: MDB, Kienlong Bank, Southern Bank, TRUSTBank, GiadinhBank, VietA Bank, NamÁ Bank với mức huy động từ 5,5% đến 10%/năm, đặc biệt có sự tham gia của ngân hàng liên doanh Việt Thái ( Vinasiambank) với mức huy động không kỳ hạn (KKH) khá cao 10%/năm.
Khách hàng vẫn đang chú trọng lựa chọn các kỳ hạn ngắn hạn: tuần, 1 -3 tháng để gửi tiết kiệm và thương lượng mức lãi suất mong muốn.
Tuần lễ cuối cùng từ 23/4 - 29/4/2011 lãi suất huy động trung bình đối với VNĐ là +13.43% /năm (lĩnh lãi cuối kỳ), không khác so với tuần trước, nhưng thị trường tiền gửi lại đang nóng lên từng ngày, các ngân hàng đang dần phá vỡ “trần huy động”.
Căn cứ theo bảng niêm yết, các nhà băng vẫn đang giữ mốc huy động theo quy định chung là 14%/năm (lãi suất có kỳ hạn)
. Tuy nhiên, đây chỉ là mức lãi suất công bố, lãi suất thực lại là một con số “thỏa thuận” khác. Riêng mức lãi suất không kỳ hạn theo bảng niêm yết, cao nhất đang thuộc về ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội ( Habubank) 12%/năm, MDB, Kienlong Bank, Southern Bank, TRUSTBank, GiadinhBank, VietA Bank, NamÁ Bank, Vinasiambank …. Tuy nhiên, tuần qua vẫn có ngân hàng vì muốn giữ chân “khách hàng ruột” đã nâng mức KKH lên 14% ngang bằng với “trần huy động” có kỳ hạn.
Nhìn vào bảng niêm yết của một ngân hàng TMCP, khách hàng có thể dễ dàng thấy 1 đường thẳng đồng nhất: KKH, 1 tuần, 2 tuần, 3 tuần, 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng đều là 14%/năm. Vậy đâu là sự lựa chọn? Đúng như lời khuyên của một chuyên gia kinh tế: thời điểm này gửi tiết kiệm là đầu tư thông minh và người có tiền là thượng đế.
Tháng 4/2011 là tháng mà thị trường chứng kiến cuộc đua tăng lãi suất tiền gửi không kì hạn của hàng loạt ngân hàng. Một hiện tượng mới trên thị trường lãi suất, và theo nhận định của một số tổ chức, lãi suất huy động không kỳ hạn bị đẩy lên những mức rất cao (9-10%) thay cho mức 2 - 3% trước đây chỉ ít ngày sau khi NHNN ban hành quy định các khoản tiền rút vốn trước hạn chỉ được hưởng lãi suất không kỳ hạn thay vì để các NH tự quyết như trước.
2.6 Tỉ giá
Ngày 1/4/2011, Kho bạc Nhà nước thông báo tỷ giá hạch toán kế toán và báo cáo thu chi ngoại tệ tháng 4 năm 2011, áp dụng trong các nghiệp vụ Quy đổi và hạch toán thu, chi NSNN bằng ngoại tệ kể cả các khoản thu hiện vật có gốc bằng ngoại tệ; Quy đổi và hạch toán sổ sách kế toán của Kho bạc Nhà nước.
Theo đó, tỷ giá hạch toán giữa đồng Việt Nam với đôla Mỹ (USD) tháng 4 năm 2011 là 1 USD = 20.673 đồng, cao hơn tháng trước 355 đồng/USD.
Tỷ giá VND/SNG (Nga) là 725 đồng/SNG; tỷ giá VND/tệ (Trung Quốc) là 3.153 đồng/CNY; Franc Thụy Sỹ là 22.525 đồng/CHF; Yên Nhật là 250 đồng/JPY; bảng Anh là 33.296 đồng/GBP; đô la Singapore là 16.399 đồng/SGD, đô la Úc là 21.357 đồng/AUD.
2.7 Giá vàng, giá dầu
Giá vàng:
Từ 1 - 8/4 : Vào ngày 1, 2, 3/4 giá vàng TG tăng nhưng đến khoảng ngày 4/4, giá vàng giảm mạnh khi thị trường suy đoán rằng Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed) sẽ thắt chặt chính sách tiền tệ trong tình hình kinh tế khả quan hơn.
Từ 11 - 17/4 : Giá vàng thế giới lập kỷ lục 1.489,10 USD/ounce do lạm phát ở Trung Quốc, châu Âu và đồng USD mất giá nhất trong 16 tháng
. Trong 5 phiên giao dịch thì vàng có 3 phiên lập kỷ lục. Tính chung cả tuần, vàng tăng giá 0,8%. Giá vàng trong nước chỉ biến động nhẹ cho dù giá thế giới tăng mạnh và lập kỷ lục. Giá trong nước đang thấp hơn khoảng 500 nghìn đồng so với giá thế giới bởi sức mua chậm và tâm lý lo sợ sẽ cấm giao dịch vàng miếng trên thị trường tự do.
Từ 18 - 24/4 : - Giá vàng thế giới lập kỷ lục mới ở 1.509,60 USD/ounce tại thị trường New York và 1.512,70 USD/ounce trên thị trường châu Á bởi đồng USD yếu, nợ công tại châu Âu và mối lo lạm phát toàn cầu. Trong tháng này, vàng đã 10 lần lập kỷ lục
.
Giá vàng trong nước tăng mạnh theo xu hướng thế giới, có lúc lên tới 37,75 triệu đồng/lượng, nhưng giao dịch vẫn trầm lắng, chủ yếu người bán ra, do những lo ngại về hạn chế kinh doanh vàng miếng trên thị trường tự do cùng khả năng các ngân hàng thương mại sẽ ngưng huy động và cho vay vàng từ tháng 5.
Giá vàng trong nước thấp hơn giá vàng thế giới khoảng 300.000 đồng/lượng trong suốt 2 tuần qua.
Quỹ đầu tư vàng lớn nhất thế giới bán ra gần 1 tấn vàng trong tuần này khi giá lập kỷ lục.
Từ 25 - 29/4: Giá vàng thế giới lập kỷ lục 1.569,80 USD/ounce trong ngày 29/4 vì các dữ liệu kinh tế xấu đến từ Mỹ, USD thấp nhất 3 năm và nỗi lo lạm phát ngày càng tăng.
Giá vàng trong nước vọt lên 38,5 triệu đồng/lượng trong ngày 30/4 sau khi giá thế giới lập kỷ lục.
Đây là mức giá cao chưa từng thấy trong hơn 2 tháng qua.
Tuy giá vàng trong nước có tăng nhưng vẫn thấp hơn giá vàng thế giới, làm các nhà đầu tư có xu hướng bán vàng ra thế giới theo con đường tiểu ngạch. Làm ảnh hưởng đến một số yếu tố khác trong nền kinh tế như tỉ giá đô la và thị trường bất động sản…
Giá dầu:
Tuần đầu tháng 4.2011 giá dầu liên tiếp tăng do tình hình tại Lybia, Nigeria và Trung Đông. Ngày 08.4.2011 giá dầu WTI tăng lên 112,79$/thùng, dầu Brent tăng lên 126,65$/thùng là mức giá cao nhất trong 32 tháng qua.
Sản lượng dầu thô của Lybia hiện nay giảm chỉ còn 250.000-300.000 thùng/ngày và sử dụng cho nhu cầu nội địa; do đó, lượng cung dầu thô ra thị trường thế giới của OPEC liên tiếp giảm trong 9 tuần liên tục.
Ngày 12 và 13.4.2011, báo cáo của IEA cho thấy nhu cầu dầu có dấu hiệu giảm sút làm cho giá dầu giảm trong nửa đầu tuần thứ 2. Tuy nhiên, thời gian giảm không dài thì lại theo xu hướng tăng lên bởi cơ quan thông tin năng lượng Mỹ công bố tồn kho xăng của họ giảm đi 7 triệu thùng trong tuần tính đến hết ngày 13.4.2011, xuống còn 209,7 triệu thùng và nhu cầu tiêu thụ của Mỹ tăng cao nhất trong 5 tháng qua.
Giá bình quân của dầu thô WTI nửa đầu tháng 4.2011 là 108,88$/thùng cao hơn 6,59$/thùng (6,44%) so với cùng kỳ tháng trước; tương tự, giá dầu thô Brent là 122,39$/thùng tăng 8,05$/thùng (7,04%).
Tại Việt Nam đang bán 21.300 đồng/lít; thấp hơn Lào 5.829 đồng/lít, thấp hơn Campuchia 4.385 đồng/lít, thấp hơn Singapore 13.044 đồng/lít và thấp hơn Trung Quốc 4.054 đồng/lít.
Gía dầu thô tháng 4.2011 tiếp tục tăng so với tháng 3.2011 do chiến sự căng thẳng tại Lybia, bất ổn lan sang Nigeria và các nước Trung đông. Kinh tế Mỹ phục hồi cùng với việc đồng đôla giảm giá đã đẩy giá dầu tăng thêm.
Giá dầu thô trong tháng 4.2011 đã tăng lên mức cao nhất trong gần 31 tháng qua. Giá dầu thô WTI bình quân tháng 4.2011 là 109,85$/thùng tăng 6,82$ (6,62%) so với tháng 3.2011, tương tự dầu thô Brent là 122,81$/thùng tăng 8,19$ (7,14%).
Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) nhận định, giá dầu mỏ tăng mạnh hiện nay đã thực sự tác động đến nhu cầu của các nước tiêu thụ năng lượng lớn chẳng hạn như Trung Quốc và Mỹ, và OPEC cần nâng sản lượng vào khoảng tháng 6.2011 để kìm hãm đà tăng của giá dầu. Trong bài phát biểu hôm 20.4.2011 tại Thượng Hải Trung Quốc, Giám đốc điều hành IEA ông Nubuo Tanaka cho rằng, nếu giá dầu thô duy trì mức 100 USD/thùng hoặc hơn thế trong phần còn lại của năm 2011 thì sẽ phá hủy nhu cầu giống như năm 2008 dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế.
Giá dầu tăng làm chi phí sản xuất tăng, từ đó làm cho suất sinh lời giảm và từ đó kiềm hãm hoạt động đầu tư.
CHƯƠNG III: TÌNH HÌNH THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THÁNG 4
1. CHỨNG KHOÁN THẾ GIỚI
CHỨNG KHOÁN THẾ GIỚI THÁNG 4
Chứng khoán Mỹ
Đầu tháng thị trường đón nhận tin tốt về thị trường việc làm, tỷ lệ thất nghiệp Mỹ xuống mức 8.8% thấp nhất trong 2 năm. Thị trường việc làm Mỹ như vậy có bước chuyển quan trọng giúp củng cố đà phục hồi của kinh tế Mỹ và việc công ty quản lý sàn chứng khoán Nasdaq OMX bắt đầu cố gắng giành NYSE Euronexta cũng ảnh hưởng khá tích cực. Thị trường lạc quan khi ang tin lợi nhuận doanh nghiệp Mỹ quý 1/2011 tốt hơn dự báo của giới chuyên gia . điển hình như Ford, 3M và UPS đều công bố lợi nhuận gây ấn tư
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phân tích thông tin tài chính, kinh tế, chính trị, xã hội tháng 4 của thế giới và Việt Nam tác động đến kinh tến thị trường tài chính Việt Nam và TG.doc